Nộp TrTTĐT. Hội Nhà văn Việt Nam: Chùm thơ 12 bài

 

Web Tác giả Trần Xuân An

 

 

1. TRẦN XUÂN AN – CHÙM THƠ VỀ MẸ

 

 

 

Bài 1

 

GIA PHẢ

 

chọn nơi đây mẹ yên nghỉ vĩnh hằng

gia phả thêm một quê nhà, đất cội

 

bát nhang như cánh đồng làng

             thu gọn vào khung ảnh tối

lúa trổ hạt ngọc hồng, gốc rạ đỏ hoàng hôn

tấm bia hoa cương đen – nền trời đêm gần hơn

gương mặt mẹ in vầng trăng già,

                                     ngưng tuổi

soi thắm lá sen, đài sen đọng hương

dòng chữ sáng bừng tên quê ngoại xa xăm

vọng niệm những địa danh kết chuỗi

thêm Phan Huyên lăng (*), nơi đây, lồng ngực vang thầm

 

ảnh mẹ trên ban thờ, sớm hôm hương khói

mộ phần này thành cõi nghìn năm

trên mặt đất và trong tâm,

                               gần gũi

cháu chắt vẫn mừng thọ mới,

                           mỗi mùa xuân

từng ngày giỗ, đất thiêng tụ hội

Phan Huyên lăng

gia phả ngát hương trầm.

 

 

(*) Phan Huyên lăng: lăng mộ của người mẹ họ Phan.

 

5 HB8 (2008)

 

 

 

Bài 2

 

NGHĨA TRANG

 

nơi đây, gò vắng, phố xa

mẹ yên nghỉ giữa cỏ hoa đất trời

cho con thấm hiểu lẽ đời

khăn tang phần mộ giúp người lắng sâu

 

nỗi niềm còn – mất, xưa – sau

vẳng từ mộc mạc những câu trối buồn

hồn nghe nghẹn toả khói hương

nghìn mưa nắng vạn trăng sương muôn trùng

 

chút tâm chạm thấu vô cùng

mỗi tuần con viếng thấm từng lời ban

gió nghĩa trang gột bụi trần

giúp con về phố thêm thân thiết đời.

 

5 HB8 (2008)

 

 

 

Bài 3

 

MỒ CÔI

 

ở tuổi năm mươi, trở thành đứa trẻ mồ côi

– điều bình thường muôn thuở –

nhưng từ nay, bước chân ra đi,

                           không bao giờ còn nữa

đôi mắt mẹ già nua mong ngóng đợi con về

 

từ nay, trong niềm kính nhớ

là bát nhang khói mờ, trời mây trắng xa

mộ phần lặng im, vô ưu hoa cỏ

đành tập quen dần cùng buồn khổ

lẽ đời, tự bao giờ

 

nghiêng mình

trước bao nỗi mồ côi từ thuở bi bô

nhưng mồ côi ở tuổi nào

               cũng là tuổi nhỏ

bơ vơ

– điều bình thường mênh mang thiên cổ –. 

 

5 HB8 (2008)

 

 

 

Bài 4

 

Và một bài tứ tuyệt viết từ năm 2007

TIỂU ĐỐI KÍNH GHI Ở BIA PHỤ

 

nhà cháy quán xiêu thương xứ vắng

tin nhoà thuyền giạt vọng tang xa

mươi năm phố nhỏ nguôi lòng Mẹ

vạn thuở lăng cao sáng ảnh Bà.

 

2007

 

TRẦN XUÂN AN

 

 

2. TRẦN XUÂN AN – THƠ VỀ HÀ NỘI

 

 

 

Bài 1

 

CÙNG QUẢNG TRỊ DẠO CHƠI

BA MƯƠI SÁU PHỐ PHƯỜNG (1)

cuốn tròn bảy sắc cầu vồng

thành phim

em tặng người không quen này

ba mươi sáu phố xưa gầy

bên nhau cho đó và đây chung hình

em ngoan, Hà Nội rất tình

những tên mộc mạc nối mình vào ta

nôm na mượt giọng lụa là

khác hương khói một quê nhà cũng thân

em ngoan, mới gặp nửa lần

làng thi ca, xa là gần, phải không

liều ra Hà Nội lông bông

ơn Quảng Trị đưa đi rong đỡ buồn

chớp xong ba sáu phố phường

thừa hai kiểu?

thiếu con đường Hàng Thơ

ngắm cô Hàng Sách, ngẩn ngơ

tâm hồn thi sĩ bây giờ bụi phơi!

theo em, vọng tiếng à ơi

lần ca dao, quẫy chèo ngời Văn Chương (2)

kết phim ai bấm giùm luôn

thử duyên may, có nhoà sương nhạt hình?

và đâu Hàng Cát lung linh

quê xương rồng đoá thuỷ tinh hoa đời

phim chưa dám tráng để coi

em pha lê, ngại chói trời thủ đô!

ngoan ngoan đáo để mộng mơ

Ba Phi chạm Trạng ơ ờ Quỳnh em (3)

hư vô vẫn cười giòn thêm

phố ba-bảy-rưỡi, trắng thêm tấm này?

Hà Nội, 02 và 05.3.1997

Tp. HCM., 10.4.1997

(1) Ngày xưa, chỉ có ba mươi sáu phố cổ. Về sau, từng thời kì, mọc thêm một số phố, cũng được đặt tên bằng các sản vật hàng hoá (trên 43 phố). Hàng Thơ và Hàng Cát, hai tên phố này tác giả tự đặt thêm để diễn đạt tứ thơ.

(2) Một hồ nước có tên là Văn Chương.

(3) Ba Phi, Trạng Quỳnh, tên riêng, hai nhân vật văn học dân gian.

 

 

Bài 2

MỘT QUÃNG THÁI HÀ

rét tháng giêng Hà Nội mịn mưa sương

thả bước suốt ban mai chưa ướt áo

bay ngàn tia nắng bay bay, huyền ảo

xóm bãi rác ơi, đường Thái Hà nghiêng

ngỡ nghiêng nghiêng bao dòng chữ nét duyên

đọc vô ngôn trên đất trời lóng lánh

cầu ván nhỏ, ghềnh, kênh không đen quánh

mùi bùn sình, mạch đất bẩn, thoáng phai

ban mai bãi rác bâng khuâng hương lài

phải lài chăng? Mượt xanh ngời trắng muốt

hoa góc vườn nhà quen, đằm và khướt

say, anh say, anh bảng lảng, nơi này

tháng giêng Hà Nội, hồn tịnh thơ chay

mùa chay tịnh rất đời! Cơ hồ nắng

hình như mưa! Chẳng cách nào câm lặng

làm sao thật, đành mơ, xóm Liều (*) ơi

ma rượu ngốc, khùng nơi anh đi rồi

nắng thoảng ấm tình, mưa khôn, ngoan thế

chắp tay ơn em, cười từ giã nhé

trời đất nghiêng mình, anh nghiêng mình, yêu …

Hà Nội, 03.3.1997

(*) Tên của xóm dân cư …

 

 

 

Bài 3

 

THOÁNG CHIỀU HÔM

BÊN ĐƯỜNG THANH NIÊN

gần hai mươi hai năm

chiều đầu tiên, Hà Nội!

rét tháng giêng sương khói

ngân nhoà chuông thu không

tiếng sáo nào mênh mông

Hiên Xanh trải trắng lòng?

mùa Xuân Hương, Trúc Bạch

Nhà Trăng Xưa? Gò hoang? (1)

vết móng bò cội lan

hoá bướm bay thành lá

pha tím dâu – tháp lạ –

bông hoàng hậu Tấm ngời? (2)

cô bán chiếu gon ơi

xanh xưa mười bảy tuổi

tình hoa râm vọng nuối

nọc ngọt tim người hùng? (3)

tiếng chuông như kiếm vung

chùa thành đồn Giữ Nước (4)

trong cung, sau và trước

tham si, điệp và trùng

dấu hỏi quyện chập chùng

Lê Quan Âm giam đói …

công nên thù, Ức Trai!

triều, Tố Như khó nói … (5)

Chiêu Lì thầm gọi ai

trăng trời vỡ, trăng nước

vỡ! Cuồng trung, thở dài

chuếnh choáng, dốc cạn chai? (6)

thương, mừng, len u hoài

hồn kinh đô vời vợi

sử, không là người dưng

máu cội Hồng bổi hổi (7)

lắng đêm, bước ngập ngừng

buốt gió, chẳng quay lưng

Hồ Tây ơi, thế đó

em đẹp đến lạ lùng

khuya, huyền thoại mung lung

quá vô cùng Hà Nội

nghìn xa, nghìn xưa hỡi

mới thoáng gặp. Rưng rưng …

Hà Nội, 01.03.1997

Tp. HCM., 18.03.1997

(1) Thanh Hiên: hiệu của Nguyễn Du. Trúc Bạch, tên một hồ nước ở cạnh Hồ Tây. Cổ Nguyệt đường của Hồ Xuân Hương cũng ở ven hồ ấy. Đoạn này, nhắc đến Độc Tiểu Thanh kí.

(2) Hoa “móng bò” còn có tên chữ là “hoàng hậu”. Hoàng hậu Ỷ Lan được nhân dân gọi là cô Tấm, thờ và tôn xưng là Quan Âm. Bà vốn là họ Lê.

(3) Một sự tích hoang đường hoá: mối tình Nguyễn Trãi – Nguyễn Thị Lộ. Nguyễn Thị Lộ có thời gian bán chiếu gon ven Hồ Tây.

(4) Chùa Trấn Quốc, Ỷ Lan nhiều lần đến lễ chùa này.

(5) Mặc dù được trọng dụng, làm đến chức hữu tham tri bộ lễ (thứ trưởng), Nguyễn Du (Tố Như) vẫn còn mang một nỗi mặc cảm là con trai Nguyễn Nghiễm và em ruột Nguyễn Khản,hai  tể tướng - tham tụng (thủ tướng chính phủ) của vua Lê, chúa Trịnh Đàng Ngoài.

(6) Phạm Thái với Chiến tụng Tây Hồ phú, bút chiến với Nguyễn Huy Lượng và những ai cộng tác với Quang Trung.

(7) Hồng Bàng.

 

 

 

Bài 4

 

VIẾT SAU TẤM ẢNH HỒ GƯƠM

tựa lưng vào dĩ vãng đời mình

mây trắng

tựa lưng vào Tháp Bút nghìn năm

vút thẳng

em rất đỗi quê nhà

và vô cùng Hà Nội

mai nay

bóng đỉnh tháp nghiêng vào Đài Nghiên

đọng nắng

viết bài thơ hoa lên mùa non cỏ cây

viết vào tương lai

và vô cùng trang thơ em

sâu lắng

xin chấm vào nửa trái tim tôi,

buốt đắng

bằng ngón tay ngọn bút thon dài

viết vào từng gợn sóng khói bay

và vô cùng trưa gió đang say

dòng chữ màu áo em

đỏ thắm.

Hà Nội, 06.03.1997

 

Bài 5

TẢN BỘ QUA CẦU CHƯƠNG DƯƠNG

sông Hồng chảy ấm tháng giêng

nguyên màu hừng đông sóng nước

gió nâng lâng lâng thả bước

nắng trưa óng ngọt phù sa

hồn mênh mông trong bao la

tôi về đứng giữa nguồn xa thơ mình

ngang đâu, Hồng thành tâm linh

câu lượn ngược xuôi quan họ (1)

trống đồng âm vang núi Đọ (2)

vỗ sóng trầm hùng biển đông

thiêng liêng vai địu nách bồng

dấu bùn choãi ngón chân không, đôi bờ

bãi cồn, Hồng vun xanh ngô

Long Biên lung liêng liền khúc

ngỡ mây quàng vai kịp lúc

ô hay! Chớp mắt, sững im

đất trời và em, vào tim

bạt ngàn thăm thẳm nổi chìm vạn năm

sông Hồng đón mình ra thăm

em bận, không dưng trĩu nhớ

đen mượt tóc hương, áo đỏ

ảo thị, xinh từ vô cùng (3)

thơ tôi trải tận mung lung

ơn duyên thầm ngát muôn trùng sử thi.

Hà Nội, 05.3.1997

Tp. HCM., 08.4.1997

(1) Lượn (Tày), quan họ (Kinh): 2 loại dân ca đối đáp giữa trai và gái.

(2) Núi Đọ (Thanh Hoá): nơi các nhà khảo cổ phát hiện được di chỉ người Việt cổ.

(3) Ảo thị: cái nhìn đinh ninh là thật về ảnh ảo trước mắt. Ở đây, chỉ là một cách nói tu từ.

 

 

 

Bài 6

 

VỚI NHỮNG NGƯỜI BẠN

BÔNG ĐÙA BÊN HỒ HOÀN KIẾM

hồ toả khói mờ, trời xuống mây mơ

ngàn cánh nắng mai đậu trên Thê Húc (1)

em là trăng, nên ngày không còn thực

rất hoa đào, thắp ấm một hừng đông

ngỡ em quan họ tung lụa cầu vồng

hay từ tay áo nâu sồng màu đất

lược cài tuổi thơ tươi non em cất

tự tiền kiếp nào, hoá Thê Húc xinh

em, con ngỗng trời huyền sử lung linh

bỗng bay bên vai, trắng ngần Hà Nội

tôi mặc áo the, đội khăn, tóc bối

guốc mộc nước qua, ngắm truyền thuyết xưa

lẫy nỏ Rùa Vàng tên bắn như mưa

triệu tia mặt trời gãy trong làn nước …

khi chụp ảnh với Thánh Trần, mắt ngước (2)

thấy gươm thần thành Tháp Bút, ngút trời

thi sĩ bông lơn đồng bóng giữa đời

nhặt lá bồ đề, ép tim vào sách

nửa thành Đài Nghiên – cái tâm hoá thạch

nửa hoá rùa vàng – chút tình thành kinh

yêu các em như trời đất, thất tình

đáng đời chăng, kẻ chỉ mê tín sắc

ơi ni cô đẹp nét không thơ Phật

ơi trăng ơi đào, ngỗng trời yêu ơi …

Hà Nội, 02.03.1997

Tp. HCM., 12.03.1997.

(1) Thê Húc: nắng ban mai đậu lại.

(2) Đền thờ Trần Hưng Đạo (Đức Thánh Trần) vốn được xây dựng ngay trong chùa Ngọc Sơn.

 

Bài 7

NGẪM KHỔ ĐẾ (1),

TẢN MẠN NIỀM VIỄN TƯỞNG

QUANH CHÙA MỘT CỘT

ni cô cùng anh rong chơi

thăm chùa xưa – đoá sen đời sắc nâu

vuông hồ gói cả trời sâu

hay khăn lụa biếc óng màu chép kinh?

đọc từng hoa súng, giật mình

chùa này, bóng ảo của xinh xắn này?

nâu sồng ơi, nghìn xưa đây

khói hương là thoáng sương bay hương đồng

cửa không, thơ không hư không

dáng chùa, ngọn đuốc toả hồng lửa thiêng

nhớ xưa, một nụ hôn thiền

ấm phương Nam ngưỡng vọng miền tâm linh

hoa súng ơi, anh đa tình

nhìn đâu cũng thấy lung linh hoa đầy

ngỡ bừng đuốc tuệ đêm ngày

thôi hiểu nhầm Quả đất này: trần gian

địa ngục? Cũng thành niết bàn

khi hai tay khoẻ tưởng ngàn cánh tay

cõi người viễn tưởng, hồn chay

với Tự nhiên, ta hết dày vò ta

cùng ni cô giữa ta bà

tâm đau khổ đế, la đà buồn ai …

tự thưa, tên kẻ khổ sai:

một mái nhà và chẳng hai bạn tình (2)

cô em ni cô hát kinh …

quanh chùa Một Cột gặp mình đang bay

phật đày thương chăng phàm đày? (3)

hạnh bồ tát tu trong cay đắng đời

người bóc người, đỏ mồ hôi

tình lột tình, gió tình ơi, héo tình!

vấp chân ngọn cỏ sơ sinh

giẫm dăm chú kiến, giật mình. Cứ đi!

về thôi, bông súng từ bi

anh còn cày ruộng xanh rì trang thơ

địa ngục? Ừ (1). Yêu ngẩn ngơ

lúa thơm vào áo, gạo no tâm hồn

cõi người viễn tưởng, yêu hơn

cũng là Quả đất đầy tròn dưới chân

mộng mơ thơ biếc bạt ngàn

nai nhà rộng trảng, ngựa hoang quên rừng

vẽ vời cùng cô em cưng

nông trang chùa dựng nâu cùng áo em

búp tim mở một cánh mềm

dáng chùa hoa súng ngày đêm một người

mặn mà mắt mặn môi tươi

phật yêu dấu là tiếng cười anh thương

chùa trong anh đi muôn đường

chùa em, hoài ghé nghe chuông, xanh đời.

Hà Nội, 03.03.1997

Tp. HCM., 13.03.1997.

(1) Khổ đế (một trong tứ diệu đế Phật giáo): chân lí về khổ đau; khổ đau của hiện thực trần gian là có thật. Tập khổ đế: nguyên nhân khổ đau, trong đó có tham vọng tư hữu… Trần gian, theo đó, là địa ngục.

(2) An, theo chữ Hán, tượng hình: một người nữ dưới một mái nhà.

(3) Phật (Buddha), chữ Phạn: người giác ngộ chân lí ngay trong đời sống, dù là đời sống phàm tục. Bất kì ai cũng có thể là Phật.

 

Bài 8

VU VƠ CHIỀU VĂN MIẾU,

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGHÌN XƯA

Thiên hà ngôn tai!

(Trời có nói gì đâu!).

Khổng Tử

1.

cô nàng mặc áo tứ thân

từ nghìn xưa đến hát gần bên tôi

điện thờ, thầy Khổng sững ngồi

nhập thân tình tứ chọn lời Kinh Thi? (1)

thưa em, duyên yêu là chi

râu nghiêm bạc, úa tim si thánh hiền

đâu vô danh vô vi thiền

đây bia chất xám, niềm riêng chói trời

giọng ca như rượu chuốc mời

em quan họ khảm vào đời ảnh em!

2.

tôi quỳ bên vuông cỏ mềm

chớp phim bè bạn, gió thêm rối bời

soi tôi xuống nước, nhìn tôi

mỗi bọt chữ, mỗi lả lơi ỡm ờ!

vì đời, thầy Khổng tìm thơ

ngọt nồng em hát thực mơ, dâng đời

tiếng thơm, thơm cho nơi nơi …

(vẫn thương kính Lão tuyệt vời, quên danh

Gióng vô danh hoá Trời Xanh (2)

nghìn sau nhang khói vờn quanh tâm hình!)

3.

rùa thiêng, biểu tượng thần linh?

bia tên tuổi trĩu dân mình, bước lê?

lưng rùa, dựng sách tỉnh – mê

mê, bành trướng, mê, a ê bao đời! (3)

(như Thánh Kinh vút trùng khơi

da dê mục chữ nhầm lời, buồn không!)

một thẻ tre cách điệu xong

mai rùa một mảnh – mênh mông: bia ngời …

“đàn bà khó dạy” (?!) ấy ơi (4)

tôi nhạt đạo, ngoại đạo rồi, thưa em

4.

tháng giêng Văn Miếu, bên thềm

ngắm nàng đàn trong êm đềm chiều xanh …

thầy Chu An ngát hương thành …

yêu là Đạo! Tôi tập tành trăm năm

ngài ơi, công nghệ lú câm

giàu nhân nghĩa sao âm thầm rạ rơm?

cái danh cái lợi – cái hòm?

cái tình, và cái lom khom rạp mình!

… tâm linh – ơn dựng miếu đình

tâm hồn, ngài hỡi – môi xinh í ời

5.

tôi về gò Đống Đa thôi

thắng Tàu, bởi học, vượt lời Tàu xưa!

Hà Nội, 02.03.1997

Tp. HCM., 14.03.1997.

(1) Ở đây, chỉ chú trọng mảng đề tài lớn nhất trong Kinh Thi: yêu đương (phần Quốc phong).

(2) Lão:ông già. Gióng (tên làng); Thánh Gióng là biểu tượng Chiến sĩ Vô danh.

(3) Phần hạn chế trong Kinh Thi (chủ yếu trong Tiểu nhã, Đại nhã, Tụng). Kinh Thi chỉ là một trong chín pho sách kinh điển của Khổng giáo. Cả chín pho đều bị mất mát ít nhiều, lại bị lắp ghép, xuyên tạc, thêm bớt.

(4) Quan điểm của Khổng Tử về phụ nữ.

 

TRẦN XUÂN AN

71B Pham Văn Hai

Phường 3, Tân Bình

TP.HCM.

 

ĐT.: (08) 3 8453955  &  0908 803 908

 

 

________________________________________________________________________________________________

 

Trở về

 

THÔNG BÁO CẬP NHẬT Ở CÁC TRANG KHÔNG PHẢI TRANG BÀI MỚI - SÁCH MỚI - TIN TỨC MỚI:

( http://tranxuanan.writer.googlepages.com/thongbao-update_mucluctrang )

 

TRANG BÀI MỚI - SÁCH MỚI - TIN TỨC MỚI

&

trang mục lục Giao Lưu:

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/linkdoanket_mucluctrang

(mục lục của mục này -- các trang Giao lưu)

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/linkdoanket

(trang 1 Giao lưu)

TRANG "NGÀN WEBs CỦA NGÀN NHÀ":

http://tranxuanan.writer.2.googlepages.com/webcacnha

Trang chủ Web. Tác giả Trần Xuân An:

http://tranxuanan.writer.googlepages.com

trang "Những trang mục trên 'Web Tác giả Trần Xuân An'":

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/webtacgiatranxuanan

 

 

Google page creator  /  host

DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE  

    lên đầu trang (top page)   

 

 Ngày đưa trang này lên web: 11-9 HB9