c. Trần Xuân An - Hát chiêu hồn mình - Tệp 3
author's
copyright
trần xuân an
hát chiêu hồn mình
tập thơ
Nxb. Đồng Nai, 1992
06/30/09
TRẦN XUÂN AN
HÁT
CHIÊU HỒN
MÌNH
thơ
( phần 3 )
NHÀ XUẤT BẢN ĐỒNG NAI
1991
Xem
http://tranxuananthitap2.blogspot.com/
NGẬM NGÙI
CHIỀU ĐỊA ĐÀNG
tặng Hồ Nhất Luân
1. Cảm thức chiều tà
anh dừng chân giữa cầu Ngang
ngẩn ngơ bát ngát bạt ngàn vườn xanh
thoảng trong hương đất ngọt lành
à ơi tiếng gió dỗ dành hát ru
anh từ khói đặc bụi mù
về đây cởi được hồn tù, lang thang
băng qua mấy nẻo địa đàng
lá nghiêng cành, cỏ dịu dàng níu chân
nao nao mương rạch bâng khuâng
triều vơi, con nước phân vân, chưa về
đi theo ngọn gió hồn quê
nào đâu rào chắn ngăn chia tình người
thèm nhìn quả rụng quả rơi
dẫu mùa chín ngọt qua rồi hương xưa
chút tình dù sớm dù trưa
vườn chờ bỏ ngỏ, nắng mưa vẫn hồng…
2. Mộng du với huyền tượng
chiều rồi, ngơ ngác ngóng trông
trăng xa… (con nước đang ròng, xuồng ơi!)
cam đành về phố phường thôi
ngậm ngùi chi thoáng rong chơi hỡi chiều
ước gì anh lại biết yêu
ôm em với cả Lái Thiêu vào lòng…
E-và đánh thức A-dong (*)
hái liều trái cấm (*) thơm nồng, dù cho…
bật cười, chớm mộng điên rồ
địa đàng lụi tắt, giọng hò chơi vơi
trăng hồng hoang cũng mù khơi
anh về, đêm đã xuống rồi, xa kia…
1991
Cước chú bài Ngậm ngùi chiều địa đàng:
PHO TƯỢNG
THIẾU NỮ KHOẢ THÂN BUỒN
trong ngần thánh khiết nhường kia
và thơm ngát thon tròn chín mọng
và em, với áo lụa bay, rất đỗi thực,
vẫn như là khát vọng
đến ngồi bên pho tượng giữa trưa hè
gió công viên ngút ngát cơn mê
pho tượng bất ngờ toả sáng
tôi mê đắm, bỗng run lên trước mơ hồ
vết rạn
không phải tình cờ?
nghệ sĩ tạo hình ra nỗi mong manh?
đất sét trắng và đôi tay khổ công nhào nặn
đầy phước lành
nhưng với tôi, giây phút này,
em mang tới linh hồn cho tượng
và vết nứt mơ hồ không là huyễn tưởng
cho lòng bình tâm?
vết rạn nứt là mưa nắng tháng năm?
là cái choáng đớn đau chát đắng?
pho tượng trắng ngời. Em. Và vết rạn
biết đâu là ngọn nguồn bẩm sinh?
tôi tiếc nuối cúi xuống trái tim mình
bao nhiêu chắt chiu!
đời đang chết dần huyền ảo
lòng ráo hoảnh. Ngoài kia, phố phường huyên náo
pho tượng khoả thân trên nỗi buồn tôi
với niềm rạn nứt tật nguyền.
1992
CHÙM THƠ NHỎ
EM VỀ TRƯA NẮNG – 1990
trông ra cát trắng nắng loá mắt
tiếng con khóc ré, lòng xốn xang
gió hầm hập giật rát cả mặt
chợt em về cùng mây che ngang.
SÔNG CUỐI THU – 1990
tình cờ bên sông trưa nay
thấy rơi cánh lá, bóng cây rùng mình
và trời mây cũng rung rinh
và em bất giác lặng thinh, nghĩ gì…
ĐÊM VỚI BIỂN – 1991
vỗ trắng bãi bờ bờ bãi lênh đênh
phố bồng bềnh trăng nghiêng ngả chung chiêng
lại điên đảo với trùng trùng sóng sóng
lòng ngỡ lặng rồi. Biển chẳng lặng yên.
CẦU VỒNG – 1991
(tặng anh Phan Văn Quang)
mẹ đôi khi suýt đầm đìa cơn mưa
ba ngột ngạt nghẹn bừng nắng nỏ
nước mắt đoanh tròng con buồn bã ngó
cả nhà rưng rưng trong bảy sắc cầu vồng.
NẮNG HAI QUÊ – 1991
vào thăm, ngơ ngẩn, trưa nay
ngoài kia nắng trắng, trong này nắng xanh!
ngun ngút cát bỏng quê anh
long lanh cây lá hiền lành làng em
bâng khuâng khi chợt hiểu thêm
những gì huyền bí làm nên chuyện tình.
ĐỌC BÁO, GẶP ĐOÁ QUỲNH TRÊN CÁT – 1991
trên cội rễ xương rồng thách đố cằn khô
đến tự bao giờ một lá quỳnh óng mượt
hoa ban mai toả hương trắng muốt
cây đổi đời nhau và thấu hiểu chính mình.
LẠI TÌM THẤY NỤ CƯỜI
có nắng rộng trời cao và gió
còn có thêm dòng sông lặng yên
anh gặp lại nụ cười xưa cổ
với mắt nhìn trong vắt của em
anh hoà vào thênh thang biêng biếc
anh tan vào nắng mới hồn xưa
chỉ còn
trong mắt em êm ả
một nụ cười thanh thoát, trẻ thơ.
1985
THOÁNG THƠ
TRƯỚC NGÔI NHÀ CŨ
sông nước lung linh sóng vỗ
vàng ươm cái nắng Long Xuyên
ngấn hồng phù sa tuổi nhỏ
mới hay giờ vẫn tươi nguyên
ngôi trường Khuyến Học vẫn hiền
bình dị già nua xưa cổ
tuổi nào sống giữa bút tiên
lớn bổng ước mơ rạng rỡ
môi mọng ngọt hồng vọng cổ
người đàn bà đẹp đeo khuyên
có phải bạn tôi ngày đó
tuổi nào sông Hậu hồn nhiên
đôi cánh hoa muồng quay nghiêng
nghiêng nghiêng sân trường thương nhớ
tôi say hương xưa rất riêng
toả từ tấm lòng Nam Bộ
thoáng ba mươi năm – thoáng gió
cù lao hoa trái và thuyền
và đất và người và phố
ngập hồn một thoáng Long Xuyên.
1992
KHÚC TỰ RU
SAU CUỘC RƯỢU
ngủ đi ru hỡi giấc lành
à ơi trăng sáng bên gành, mây trôi
ngủ đi, gắng nhếch môi cười
à ơi trăng sáng trên đồi, sương bay
ngủ đi, cùng thoáng mơ say
à ơi trăng sáng ngực này, tình em
ngủ đi, mong bồng bềnh đêm
trăng phiền cõi thức sáng thêm cõi nào…
1991
GIÃ TỪ B’LAO
giã từ B’Lao
và mùa hoa vàng tháng chín
sắc hoa ngày tôi đi
vẫn nồng nàn như buổi nào mới đến
giã từ B’Lao
và vòm trời cao xanh kia
ơi vòm trời suốt đời tôi ngưỡng vọng
(nhớ đôi mắt ai long lanh sao khuya)
B’Lao B’Lao
ngày mai ra đi
nhưng lòng tôi mãi hoài ở đó
và thiên nhiên nơi đâu
cũng xanh tươi như tấm lòng B’Lao.
1980
SÀI GÒN, TRƯA ĐI LẠC
nhớ xóm cũ bên kia trường Quốc Anh xưa (*)
và Huệ Đức (Long Xuyên, An Giang);
tặng Nguyễn Nu
ai đưa anh về chốn xưa
gặp anh ngồi dưới hiên trưa, thuở nào
nắng nồng ngàn ngạt hanh hao
khét khê tôn ván nung vào giấc mê
khế rơi hoa tím bên hè
riêng anh lặng nhớ Ba Thê tím hồn
tắc kè núi nhỏ kêu dồn
thương mây đỉnh Tượng bồn chồn thương ai
tím hoa rơi tiếng thở dài
nhớ anh mẹ khóc? nhớ ngoài Trung mưa?
rừng xanh thốt nốt xanh dừa
chị hoài hát múa trong mùa chiêm bao
Miền Tây hương mật ngọt ngào
tuổi thơ rợp mát ngả vào lòng cha
nhà xa quê, anh xa nhà
trưa Sài Gòn tím từng hoa rơi buồn
một bé bỏng mấy nhớ thương
lạc trong xóm trọ, sân trường tuổi thơ
anh đi lạc đến bây giờ
ba mươi sáu tuổi ngẩn ngơ, lạc loài
con chim đổi xứ rạc rài
trưa nay đứng sững bên ngoài rào xưa
nắng mê thiêm thiếp giấc trưa
nắng vàng kí ức, khế mưa tím lòng
người xưa về trần buồn không
anh từ cõi bệnh về trông cõi này…
1992
Cước chú bài Sài Gòn, trưa đi lạc:
MỘT NƠI
CHỈ CÒN LÀ THƯƠNG NHỚ
biền biệt rồi, đã xa quê
bao giờ tôi được trở về thăm tôi
một thời tấm bé chơi vơi
tóc râu sầu hận một thời rêu rong
trong tôi vắng quạnh đồng không
khóm tre Một mãi vời trông xóm làng
trong tôi cát trắng chang chang
trong veo nước mắt ứa tràn đập Thanh!
Sài Gòn khuya nỗi nhớ hành
nằm im trố mắt dỗ dành trái tim
tuyệt mù rồi ơi cánh chim
xót đau tím lịm mùa sim, đừng về!
tôi lưu đày, tôi xa quê
với niềm hạnh-phúc-tái-tê cũng đành
vết thương, Quảng Trị (*) không lành
đến trăng cũng cháy, trời xanh đỏ bầm
trong tôi tuổi nhớ vẫn rằm
thương hoài Thạch Hãn xa xăm sáng hồn
trong tôi khát vọng chẳng mòn
Hải Lăng khuya khoắt sao còn long lanh
bằn bặt rồi ơi Diên Sanh
ngút ngàn Quảng Trị lau tranh xa rồi
nắng mưa không héo nụ cười
cúi xin lưu lạc trọn đời nhớ quê…
1992
Cước chú bài Một nơi chỉ còn là thương nhớ:
(Chú thích ngày 06. 03. 2005)
GƯƠNG MẶT, THỜI GIAN
anh ngồi nghe gió hát
bên kia vườn yêu thương
mặt nước lặng yên trong chiều nắng tắt
phả vào anh
chút mơ màng
êm ả bâng khuâng
và tiếng nói sâu đằm thăm thẳm –
thời gian…
có thể nào không nhớ về em
gương mặt sáng dịu dàng tươi tắn
và nụ cười rỡ ràng
và giọng nói trong ngần
lóng lánh
như còn ngân vang thiết tha
như còn chơi vơi…
mùa hoa xa xôi…
anh ngồi trong chiều phai
chấm sao xa thắp lại cuối ngày
bâng khuâng thương nhớ ai…
anh ngồi nghe gió hát
bên kia vườn yêu thương
bóng chiều mênh mang bóng chiều tím ngát
gương mặt em huyền ảo lung linh
trên dòng tháng năm…
1982
HƯƠNG LAM CHIỀU HÔM
lam mờ khói nhang trầm mặc giữa trời
khẽ giật mình trước dáng đứng nghìn năm phơ phơ
ngỡ mơ hồ ai đánh thức
hồn thiêng bao đời núi sông hiện khuất
trong hương lửa chiều hôm, thăm thẳm tấc lòng
giữa rối bời hốc hác lo toan chất chồng
chợt nhớ chợt quên
bụi bặm phủ đầy những gì tưởng chừng
huyễn hoặc
mất trong còn và còn trong mất
như với mỗi nụ cười, chiếc lá,
tính tuổi làm sao mỗi vật mỗi điều
lam mờ khói nhang trầm mặc cuối chiều
thiêng liêng cả những gì bình thường nhất
nhân loại và muôn nghìn năm
chứa trong từng hạt đất
với thoáng hương lửa chiều tà, ngọn gió tương lai
cũng hừng sáng trong tâm
dáng đứng nghìn năm phơ phơ lặng thầm
giữa lam mờ chiều hôm, mẹ trở thành huyền diệu
con cảm nhận những gì ngỡ chừng không thể hiểu
máu xương thực thế kia thì trời đất có tâm hồn…
1991
BAO GIỜ
bao giờ rau diếp làm đình
gỗ lim ăn ghém cho mình thương ta
(ca dao)
buồn như cây lá mùa thu
thương người tôi đứng tương tư bên nhà
bao giờ rơm rạ đơm hoa
cho tình tôi nắng trắng tà áo bay
bao giờ đất hoá làn mây
tôi đi qua ngõ cho ai đứng nhìn
bao giờ đá cuội làm tim
để tôi hờ hững như em bây giờ
bao giờ như cây bơ thờ
thương ai em đứng thẩn thơ trước nhà
bao giờ mơ cỏ thành hoa
cho em biết khổ để mà thương tôi…
1973
CHIỀU UỐNG RƯỢU
MỘT MÌNH
rừng xa nắng muộn tắt rồi
chợt ngôi sao cũ cuối trời thắp lên
và lòng không thể nguôi quên
thoảng ngọn nồm bỗng thoảng tên một người
(rượu ơi ngỡ chỉ vui thôi
xui chi dại dột nhớ thời mới yêu!)
cháy lên trong chén rượu chiều
chín mê mười mộng năm liều bảy lo
những đêm khuya, thơ học trò
một chiều gió cố tình cờ làm quen
(hỡi ơi quên cữ quên kiêng
rượu ma rượu phật rượu tiên say người!)
gõ bàn hát chẳng ra hơi
vuốt đầu tóc rối bật cười, bâng khuâng
thoáng sao xa, thoáng sao gần
ảo thanh hay gió vọng thầm tên ai…
1990
CUỐI CÙNG
XIN MỘT LẦN CẢM ƠN
khói đá mờ bay
hàng thông xanh rùng mình ướt đẫm
một buổi chiều một mùa thu
cánh chim qua đỗi vô tình
mang đến
tiếng chuông chùa ngân nga
mùa xưa năm xưa hồn xưa
em đi trên đường chiều vui cỏ
tình sầu sương tan
guốc khua êm nồng nàn
áo bay trong gió
ngoan hiền vai tóc đan thanh
ta – tên mục tử
nghiêng tiếng sao vô vi
lùa bầy trâu trầm luân trả lại chuồng đời
ta nằm lăn trên cỏ
hôn dấu chân em
nghe lòng mình thênh thang như buồm mây lộng gió
rộn rã chân em
guốc khua nho nhỏ
ngày xưa năm xưa mùa xưa
nắng cúc vàng ngoài ngõ
ôi một sáng mai thu
ta đứng nhìn em cuối phố
bâng quơ em cười bỡ ngỡ
và trái tim hồng ta đã hiến dâng
ơi tình mùa trên lá rưng rưng
ơi mùa thu quàng vai ngoan
đưa em về lối lạ
nơi có một dòng sông rất xanh
nơi có chiếc cầu bắc qua hai bờ đất
(chưa một lần gặp nhau)
cho em soi bóng mỉm cười
cho em bâng khuâng sắp khóc
nhìn lá thu bay
ước mơ như cụm lục bình trên dòng ngày tháng
bên bóng mây phiêu đãng êm đềm
nơi có những con thuyền đầy cát long lanh…
để hôm nay
tôi đứng bên này bờ nghe sóng vỗ
cầu xưa vẫn gãy
nối liền với bờ kia – hư không!
và trái tim xưa…
tôi làm người mất bóng
cuối cùng xin một lần cảm ơn
em đã chia nhau những thoáng yêu thương
suốt phần đời tôi không tiêu hết
ơi những tiếng chân em
đã tập cho tôi từng bước sống
đã dìu tôi qua cầu gian nan
đã vuốt ve tôi những lần thảm bại
xin một lần cảm ơn
ơi hàng thông xanh chân núi đá
cảm ơn bốn mùa có mây có gió
có nắng và mưa trong tình sầu vạn cổ.
1973
CÂY BÀNG VÀ NGƯỜI ẤY
chống chỏi nỗi buốt giá
bàng đứng giữa mưa đông
nén niềm đau vật vã
có người đang hát ngông
máu đỏ ứa bẫm lá
râu tóc người tơi tả
nước mắt rơi bỏng má
người cười tràn ha hả
bàng cùng trẻ chờ trông
mùa bóng râm và quả
sao cũng một chút lòng
đành nhìn nhau xa lạ!
1990
ĐỌC ẨN DỤ CỔ
BÊN DÒNG THẠCH HÃN
cúi nhìn mình trong vại dấm in soi cả bóng đất trời
thương sự sống và bụi tro – thấu suốt kiếp người
kẻ sĩ ngày xưa ơi
ai bảo ngọt ai nghe chua
và ai thấy niềm chát đắng
và ai nữa nhìn ra long lanh lệ mặn
muôn kiếp chảy ròng…
đón nhận đủ vị đời
Quảng Trị hiểu sông là sông
và sông là mồ hôi lóng lánh
cho tanh xót hoá mỡ màu,
cay cực lại bùi thơm
bình tâm mỉm cười hồn hậu tự nghìn năm.
1991
MỘT THOÁNG HOA
hình như nắng rất ngọt lành
trên cây và lá trên cành và em
tôi đang ngơ ngẩn vời xem
cánh rời rụng xuống, hiện lên trái vàng
mặc tôi bối rối bàng hoàng
thắm hương, rơi nhẹ vào bàn tay ai!
tôi cam nuốt tiếng thở dài
hạt mầm vươn khẽ, xanh cài lên xanh!
qua mơ mòng quá mong manh
xưa sau em đã hiện thành trong tôi
nơi em có bao nết người
rất hôm nay lại như thời cổ sơ
vừa già cỗi vừa non tơ
đang chín mọng, thoáng bất ngờ, tàn rơi!
yêu em từ thuở xa xôi
đã bao năm quá nửa đời quá xa
mất nhau rồi mới hiểu ra
em là hoa chỉ thoáng là hoa thôi
bởi em rất đỗi con người
tôi mê tưởng nên một đời buồn đau
thời gian giờ rối vào nhau
xót đôi sợi bạc chen màu tóc xanh
thoáng hoa nắng cũ ngọt lành
hình như hư ảo thôi đành hình như!
1992
CHÙM THƠ NHỎ
HƯƠNG SẦU ĐÔNG – 1985
sầu đông ơi mùa hoa tím ngát
nghe nao nao làn hương xa xăm
sầu nơi đâu mang mang mặt đất
đông qua rồi sao còn bâng khuâng.
THƠ NHỎ BÊN SÔNG – 1992
em về bến ấy mù sa
với vầng trăng mỏng và hoa dại buồn
em về bến ấy mù sương
với con đò nhỏ, sào buông, sao đành!
TRĂNG VƯỜN AI – 1990
đêm rất tình dưới vầng trăng mỏng
giọng hát ai huyền ảo mông lung
tiếng đàn ai chạm vào bát ngát
vọng về tôi ngợp trước vô cùng.
ĐOÁ TRANG – 1985
sớm mai lặmg ngắm đoá trang
nở hiền bên hiên nhà cũ
ngoài kia đường – xôn xao ồn ào quán chợ
sao trang rực cháy âm thầm
cho mắt tôi như trẻ nhỏ – thêm một lần trẻ nhỏ –
sáng hừng lên.
CÕI MIỀN DỄ VỠ
thoáng dòng sông nào thấy nước đâu
vàng ngập nắng bóng con đò loá nắng
tàu băng qua vùng pha lê vỡ rạn
rạn vỡ trong tôi những vết thương hồng
buồn lịm đi. Đêm tràn tới nhoà sương
khoang nhốt gió, lắc lư,
tiếng sắt thép mệt nhoài và đèn vàng võ
(tôi mở mắt nắng tắt rồi cõi nhớ)
miền quê em giờ cũng xa rồi
cảm ơn cảm ơn thời rực nắng! Nắng mơ hồ
man mác êm trôi
nắng sũng ướt dấu chân bờ cát sáng
tiếng chim pha lê hoa cỏ pha lê
pha lê trang thơ trưa học trò nắng vỗ bờ lãng mạn
thôi mãi mãi chỉ là tình bạn
men nắng say huyền ảo đã xa với
muốn thanh thoát nào dám đâu siêu thoát
bánh sắt đời thường vẫn nghiến tan
miền nhớ tinh khôi!
1992
ĐÃ CHO BA TỰ BAO GIỜ…
ai lên chơi núi đề thơ
núi Bài Thơ tự bấy giờ có tên
cầm vành nón lá soi nghiêng
thấy bài thơ nhỏ sáng lên nắng hồng
bé ơi, đáy mắt tươi trong
ba nhìn vào đó viết dòng ước mơ
hồn thơ đất nước không ngờ
đã cho ba tự bao giờ tên con
không làm nên chuyện nhiều hơn
thương yêu gửi ở tên con chút lòng
mai này đội nón nhìn sông
đọc thơ tìm núi ba cùng con đi
lớn lên dẫu bé làm chi
nhớ bài thơ nhỏ ba ghi vào hồn…
niềm thơ Đất Mẹ ru con
vọng từ thăm thẳm mãi còn thiết tha
ngân nga suốt một đời ba…
quê hương là tứ con là Bài Thơ…
1998
BÊN CON ĐƯỜNG SINH VIÊN
tóc râu hoe bụi đường
dừng chân bên hè phố
tà áo xanh ngày nọ
phất động niềm nhớ thương
thuở theo nhau tới trường
nắng thơm hàng long não
tóc dài màu huyền ảo
lụa xanh trời sông Hương
qua ngàn nỗi vô thường
sao còn xanh áo ấy
nón lá ngà vẫn vậy
riêng lòng vơi khói sương?!
anh dừng chân bên đường
gặp lại thời thơ đó
Mỹ Tho reo guốc nhỏ
vần khua vàng nắng vương
nhật kí xe bao chương
xoá mấy mùa mơ cũ
ngờ đâu trưa lạc xứ
thoảng sáng hồn uyên ương
anh dừng chân bên đường
lẻ loi trông áo biếc
đang chiêm bao tưởng tiếc
lá xoáy cuồng chân tường.
1992
THƠ Ở BÀN VẮT SỔ
ba sợi chỉ rút đi
tôi ngồi vắt sổ
chợt sáng mai nay
chẳng thể vô tâm như trẻ nhỏ
ôi kỉ niệm vơi dần
và hôm nay và ngày mai nữa
vơi đến bàng hoàng
thời gian
thời gian vun vút trôi qua
bất chợt ngẩn ngơ sững sờ lặng ngó
tôi thấy tôi râu tóc nhạt nhoà
gò lưng bên bàn vắt sổ
tháng năm như tơ chỉ nhỏ
ba trục thời gian
vơi đến bàng hoàng…
nhưng nếu trên đời này
những người thợ may không có
và bao kẻ như tôi không ngồi vắt sổ…
ôi sáng mai nay
tôi vẩn vơ buồn cười, trẻ nhỏ…
1988
CÂY MAI BUỒN
như Phật Bà nghìn mắt nghìn tay
lá và cành – trong sương khói nhớ
có người đàn ông tín mộ
chờ phép mầu từ oan khổ tình em
mai lặng lẽ trước thềm
rét lập xuân mờ nhoà thổi khẽ
tiếng nguyện thầm hay hơi thở dài ghìm nhẹ
từ nông nỗi kia
mắt mở nghìn lộc non
tay nâng niu nghìn đoá vàng.
1992
HÀN VŨ HÙNG
TRẦN XUÂN AN,
NHÂN BẢN
(bài viết đã in trên Tạp chí Cửa Việt
số 11, 1992)
“Nắng và mưa” (*) là một miền tâm thức độc đáo đáng yêu. Độc đáo mà không xa lạ. Đáng yêu mà không kiêu kì. Đấy là miền tâm thức rất đỗi nhân hậu của một chàng trai Quảng Trị, một kẻ vô vùng tha thiết với Quê hương, với Mẹ già, vợ con, bè bạn và cuộc sống. Anh sớm tha hương, sớm nhập thế, luôn đau đáu, khắc khoải, day dứt với bao nỗi niềm phức tạp, và anh cứ mãi hoài tìm kiếm chính anh “trong ống kính vạn hoa / vạn nghìn đổ vỡ / vạn nghìn niềm vui / say đắm / khát vọng / chua xót / đắng cay”. Đấy là một miền tâm linh huyền ảo và thực tại, ngây thơ và già dặn, ngọt ngào và đắng cay, tự hào và hờn tủi, tin yêu và xao động, dịu dàng và phẫn nộ; ở đấy chứa chất vô vàn những hoài niệm day dứt về tuổi thơ, những suy nghiệm xót xa về hiện tại và những trăn trở khát vọng về tương lai.
“Tóc bay sương trắng” là bài thơ đầu tập, anh viết kính tặng Mẹ – bài thơ của chàng trai 17 tuổi lưu lạc phương trời lạ:
“nhìn sông nước lã trôi xuôi
con như lạc giữa dòng đời đã lâu”
Với Mẹ, anh bao giờ cũng là một đứa bé non dại cần được ấp ủ, dắt dìu. Phải mà, 17 tuổi vẫn còn bé lắm, mà giờ đã vào tuổi 35, anh vẫn còn là bé bỏng. Mẹ là nơi nương náu của linh hồn anh. Mẹ cũng như quê nhà, luôn là cõi đi về. Thế nên, “con úp mặt nhớ quê hương / thương sao quán mẹ bên đường mưa bay”.
Qua bài thơ đầu tập này, ta liền nhận ra các tâm đức đáng yêu trong diện mạo tâm linh Trần Xuân An, và tự nhiên ta tin cậy thật nhiều, thương mến thật nhiều vào thế giới thơ và nhân cách Trần Xuân An.
Cái tôi Trần Xuân An rất đậm nét, phơi bày lồ lộ rất hồn nhiên. “Nắng và mưa” là một dung mạo riêng biệt, giàu cá tính, đa cảm, có tri thức, có chiều sâu, dễ nhớ, dễ nhận, dễ thân quen và chắc chắn là hồn hậu đáng yêu. Anh khiêm tốn ví mình là: “… giọt sương, chỉ là giọt sương / lóng lánh hừng đông”. Một “giọt sương”, giàu hoài niệm và vọng tưởng. Tâm thức anh trăn trở: “ơi giọt sương khuya / hãy lạnh ngón chân bấm trên lối về quá khứ / tỉnh lại những ngày qua còn khét nồng cuồng điên phẫn nộ”. Nhưng ở anh, không hề có chủ nghĩa cá nhân; anh nhận thức rất cao đẹp về trách nhiệm cá nhân, biết xây dựng và thăng hoa cái tôi:
“mỗi cuộc đời một hành trình gian khổ
bắt đầu đi từ phía của riêng mình
góp vào hừng đông – chân trời cháy ngời tất cả”.
Đối với Trần Xuân An, “mỗi bài thơ là một lần lắc tay / như một lần trái tim nhói thắt”. Và anh cảnh cáo “loài cú vọ / đừng đụng đến thơ”. Anh cho rằng, nhà thơ như “ngọn thu lôi / nhận bao sấm sét giữa trời thương đau / dẫn truyền xuống tận đất sâu / mạch đời hoá giải biết bao nỗi đời”.
“Nắng và mưa” là một miền tâm linh chân thật, rất thực, đến độ khiến ta ngạc nhiên, mà ta có thể cảm nhận, cảm thông được, thậm chí chia sẻ được.
Chỉ qua một tập thơ mỏng mà ta hiểu biết về anh rất nhiều. Một sự hiểu biết không hề ngộ nhận. Tất cả là hiện thực, nhưng không hiện thực một cách trần trụi, thô kệch. Thơ anh là một hiện thực tinh tế được chắp cánh, được tắm gội, chắt lọc, có hơi hám bùn ruộng nhưng thơm dịu mùi mạ non, có nghiệt ngã mưa bùn nắng lửa nhưng long lanh “giọt sương / đọng cả mùa trăng tuổi nhỏ”. Một hiện thực lung linh sắc màu và gợi cảm vì đã được phản chiếu qua một cõi tâm thức đa tầng, đa diện, mang chiều kích không gian, thời gian vô hạn. Hiện thực này nhiều khi bay vút vào chiêm bao, chiếm lĩnh những ảo ảnh hoang đường, lẫn hoài niệm về một thiên đường đã bị đánh mất; hay có khi lần mò vào cõi siêu thực tìm kiếm Cái đẹp, Tự do, An lạc. Hình như tâm thức anh thường trực nóng sốt, có lẽ vì thế mà anh mắc “bệnh tâm thần” (**). Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo viết: “Trạng thái “tâm thần” của Trần Xuân An không ít, và khi anh làm chủ được ngôn từ, những ý tưởng đau đớn và cao đẹp bỗng lay động lòng ta”.
Không hiểu sao khi đọc thơ Trần Xuân An, tôi cũng chạnh nhớ đến Hàn Mặc Tử, và còn liên cảm tới nhà thơ Nga Ê-xê-nhin (EceHиH). Chắc chắn không phải là ngẫu nhiên. Hãy nghe anh reo trong thổn thức:
“… con về đây, con về đây
nghẹn lòng con giữa đất này, quê hương…”
“… xóm giềng cũng đến sum vầy
tay con mềm lại trong tay bạn bè…”
Anh từng “lang thang dọc cửa sông khuya”, thấy “tâm hồn đất nước hiện về như mơ”, khiến anh “suốt ngày ngây dại sững sờ”.
Tuổi thơ – hay nói chung là những gì đã trôi qua – là một khát vọng kiếm tìm dai dẳng, ráo riết của anh. Anh thường hoài niệm hay “hoang tưởng” để có lại “thời gian đã mất” (Marcel Proust). Nếu có phép nhiệm mầu, anh sẵn sàng đánh đổi tất cả để được trở về với tuổi thơ, với “mùa trăng tuổi nhỏ”, cả “thời mới lớn đam mê”, cái “thời con dế nhỏ / ngậm sương mùa tương tư”, cho dẫu xã hội “ngắn dài câu gian dối / ướt sũng lời lọc lừa”. Tội nghiệp anh, cứ thích làm “chim đổi xứ / tìm hoài mùa ngây thơ” để “một đời còn thương nhớ / khi nghe tiếng chuông xưa”. Thấy anh cứ trăn trở, ngậm ngùi mà thương: “Đã xa rồi một đời xa / vẫn không nhạt nổi em và ngày xưa / thời tôi vừa tạnh bão mưa / tim ta mê muội bỏ bùa cho nhau”.
Anh gợi ta nhớ về tuổi ngây ngô cứ mãi băn khoăn khi nhìn lên “trời cao xa xanh ngàn năm”, tự đặt ra vô vàn câu hỏi lạ lùng về mệnh số, thiện ác, vui buồn mà đến nay ta vẫn còn đang loay hoay tìm câu giải đáp. Than ôi, những câu đố ấy vẫn sẽ còn lung linh bí ẩn đến ngàn sau.
Mẹ và tuổi thơ (hàm chứa quê hương và di sản văn hoá) là nguồn cội, luôn luôn ám ảnh kích thích anh sáng tạo. Tâm hồn anh khắc khoải niềm ngưỡng vọng vô biên về nguồn cội. Niềm khắc khoải này đã hàm dưỡng nhân cách, lương tâm và tài năng của anh. Mấy câu thơ này tôi cảm thấy là lạ và thú vị:
“mang nỗi đau hoá đá giữa lòng
nhưng chất Quảng Trị trong mình có chút nào không?
cùng gió mới, giữa trưa này, qua sông
hồn Thạch Hãn bảo tôi mỉm cười ngẩng mặt”.
Và nỗi dằn vặt này mới cao quý, cảm động làm sao: “đời cho muôn mối nợ / quên hết, sao quên ơn? / chết, hai mắt vẫn mở?”.
Nhưng có lúc anh bức xúc thốt lên đau đớn để phản đối người đời đã truy bức, áp đặt, ngộ nhận anh: “không phải điên là hết / không phải, không phải đâu” (***). Hãy đọc thơ anh đi! Bạn sẽ hiểu anh là Gã “tâm thần” (****) giàu chất nhân bản, biết sống cao thượng và biết sáng tạo.
Đông Hà, tháng 8. 1991
HÀN VŨ HÙNG
Cước chú bài Trần Xuân An, nhân bản (Hàn Vũ Hùng):
(*) Eve (Eva) và Adam, theo cách phiên âm của Kinh thánh cũ là E-và và A-dong. Cũng theo đó và từ đó, trong chương Sáng thế kí, hai nhân vật nguyên thuỷ của nhân loại này cùng với địa đàng, trái cấm là huyền tượng khởi nguyên (hình tượng huyền thoại khởi thuỷ), do dân tộc Do Thái tưởng tượng ra để giải thích nguồn gốc loài người.
(*) Nay là Trường Trung học cơ sở Khởi Nghĩa, trên đường Nguyễn Văn Trỗi, quận Phú Nhuận, TP. HCM..
(*) Vết thương Bến Hải (vĩ tuyến 17). Hiệp định Genève 1954 chia cắt đất nước, lấy sông Bến Hải làm giới tuyến hai miền.
(*) Trần Xuân An, Nắng và Mưa, tập thơ, Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Trị xuất bản, 1991.
(**) “Bệnh tâm thần”, “trạng thái ‘tâm thần’”, hai cụm từ này được hiểu như một cách nói tu từ, không phải là bệnh tâm thần thật sự.
(Chú thích ngày 06. 03. 2005)
(***) Đúng ra đây là câu trích từ bài thơ Trần Xuân An viết thay những bệnh nhân tâm thần. Xem thêm “Lời thưa nhân dịp chép lại tập thơ “Nắng và mưa”, đã xuất bản lần thứ nhất, để phát hành trên mạng liên thông quốc tế (internet)”…
(****) Xem chú thích (**).
(Chú thích ngày 06. 03. 2005)
VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ
(tính đến 1992)
◘ Trần Xuân An
Sinh ngày 10. 11. 1956.
Nơi chôn nhau cắt rốn: Huế.
Quê cha đất tổ: Quảng Trị.
Tuổi học trò theo cha và anh sống ở nhiều nơi.
Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế (1974 – 1978).
Dạy học ở Lâm Đồng gần 5 năm.
◘ 1971, cùng bạn bè chủ trương tập san Đất Vàng, trong giới học sinh ở Tam Kỳ (Quảng Nam – Đà Nẵng), với bút hiệu Huyên Đình (Người Mẹ).
1973, “Tiếng chuông xưa”, bài thơ lãng mạn đầu tiên in trên Tuổi Ngọc.
1975, được tặng thưởng “Một trong mười bài thơ hay nhất trong năm” của báo Văn nghệ Giải phóng.
1991, giải Sáng tạo trẻ, Hội VHNT. Quảng Trị.
◘ Đã in:
Nắng và mưa, tập thơ, Hội VHNT. Quảng Trị xuất bản, 1991.
Hát chiêu hồn mình, tập thơ, NXB. Đồng Nai, 1992.
MỤC LỤC
◘ Thơ ngỏ
1. Thoáng xưa
2. Khúc hát chiêu hồn mình
3. Huế và ngày sinh
4. Thăm anh nơi miền xanh ấy
5. Đôi khi
6. Liên khúc buồn trong mộng tưởng
7. Thăm bạn ở Phan Thiết
8. Mãi hoài Cần Thơ, với trái tim thuở đó
9. Mùa ngô ở vùng đất ấm áp
10. Chùm thơ nhỏ (5 bài)
11. Ngày con ra đời
12. Đà Nẵng, chiều tiễn bạn
13. Cõi người ta sẽ đẹp sao
14. Ngôi nhà có cây thị thơm vàng
15. Vườn thu trưa
16. Ngày trầm hương thơ ca –
Phụ bản Đỗ Trung Quân
17. Khúc hát tìm rừng
18. Thêm một lần em toả nắng trong tôi
19. Bài thơ gửi người bạn láng giềng
20. Tự trấn an trong đêm về phép
21. Sương sớm mai
22. Cơn bão và cây sầu đông
23. Bướm trắng
24. Bên sông
25. Niềm vui
26. Ba hát và con ru
27. Hoa quỳ vàng
28. Nhớ nhà
29. Nụ cười tìm gặp
30. Đêm ngủ trên hiên
31. Ngày ấy, đá mồ côi –
Phụ bản Đỗ Trung Quân
32. Gặp nhau
33. Nghĩ về người nghệ sĩ và tiếng đàn tài hoa thuở ấy
34. Dòng sông chiều
35. Núi xanh tiếng hú, tự trào
36. Chùm thơ nhỏ (5 bài)
37. Về làng quê tìm bạn thơ
38. Nguyên Ngân
39. Ban mai cõi lạ
40. Bàu Vịt và ánh trăng
41. Khối tình
42. Phương Nam với bạn bỗng dưng khẩu khí tết
43. Vườn của hai người
44. Thảo nào
45. Ơn em
46. Trong mưa thu
47. Ngậm ngùi chiều địa đàng
48. Pho tượng thiếu nữ khoả thân buồn –
Phụ bản Đỗ Trung Quân
49. Chùm thơ nhỏ (6 bài)
50. Lại tìm thấy nụ cười
51. Thoáng thơ trước ngôi nhà cũ
52. Khúc tự ru sau cuộc rượu
53. Giã từ B’Lao
54. Sài Gòn, trưa đi lạc
55. Một nơi chỉ còn là thương nhớ
56. Gương mặt, thời gian
57. Hương lam chiều hôm
58. Bao giờ
59. Chiều uống rượu một mình
60. Cuối cùng xin một lần cảm ơn
61. Cây bàng và người ấy
62. Đọc ẩn dụ cổ bên dòng Thạch Hãn
63. Một thoáng hoa
64. Chùm thơ nhỏ (4 bài)
65. Cõi miền dễ vỡ
66. Đã cho ba tự bao giờ…
67. Bên con đường sinh viên
68. Thơ ở bàn vắt sổ
69. Cây mai buồn
◘ Trần Xuân An, nhân bản (Hàn Vũ Hùng)
◘ Vài nét về tác giả
◘ Mục lục
70. Chân dung (thủ bút, bìa 4)
HÁT CHIÊU HỒN MÌNH
Tập thơ
Trần Xuân An
NXB. Đồng Nai
1992
Chịu trách nhiệm xuất bản:
HOÀNG VĂN BỔN
Biên tập:
HIẾU DŨNG
Phụ bản:
ĐỖ TRUNG QUÂN
Tranh bìa:
“Mùa thu vàng”
LÉVITAN
Trình bày:
RỪNG RÚ
Sửa bản in:
ANH VŨ
In 1.000 cuốn, khổ 13 x 19 cm tại ITAXA. Số giấy phép: 208 / QĐ. / XB., ngày 12/10/1992. In xong và nộp lưu chiểu, tháng 11/1992.
Bìa 3
Phần gấp bìa 4:
“… thơ anh tránh được những lối mòn quen thuộc, có nét độc đáo trong ngôn từ và một cái ‘souffle’ (*) riêng”.
TRẦN PHONG GIAO
(Tạp chí Văn TP. HCM., số 20 / 1992)
Cước chú ở tr. A (phần gấp bìa 4):
(Chú thích ngày 07. 03. 2005)
Bìa 4
ảnh
Trần Xuân An
Thủ bút
CHÂN DUNG
có ai ném xuống dòng sông
một trái tim nhớ, bao vòng sóng lan:
tấm gương lệch nếp thời gian
cho ai soi thấy rõ ràng chân dung.
1985
chữ kí tác giả
(*) Souffle: hơi [thơ], khí [thơ] (thi phong, văn phong). Poèt qui a du souffle: Thi sĩ có khí chất (phong cách thơ).
( hết tập )
E-mail: tranxuanan_vn@yahoo.com
Cập nhật 06/30/09 Trở về trang chủ
______________________________________________________________________________________________________________
http://tranxuanan.writer.googlepages.com/home
Google page creator / host
GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ... / HOST, SEARCH & CACHE