b. Trần Xuân An - Tôi vẫn ở trên đường - Tệp 2

06/30/09

 

 

Phần 1

 

Phần 2

 

 

 

 

                             

TRẦN XUÂN AN

 

 

 

 

TÔI

VẪN Ở

TRÊN ĐƯỜNG

 

thơ

( phần 2 )

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NHÀ XUẤT BẢN VĂN NGHỆ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 

1993

SAU MƯỜI NĂM,

CHIỀU ĐÀ LẠT

 

mười năm thương nhớ gọi về

mặc bao rối nhiễu tôi nghe tim mình

có gì đâu một chút tình

vùi sâu rét mướt tâm linh, cháy bùng

 

tôi về sương nắng mông lung

mùa anh đào nở lặng mùng trong tôi

bên hồ đăm đắm bồi hồi

gần nhà em lại xa xôi, ngại ngần

 

mười năm tưởng niệm, bâng khuâng

tình yêu ơi, đã rất gần, càng xa

trăng B’Lao hoài bao la

hình Đà Lạt nào nhạt nhoà, hoa lay…

 

tôi về tìm lại gì đây

sương và nắng, nắng sương bay, trắng hồ

ngôi nhà bé bỏng đơn sơ

em còn ở đó hay giờ nơi đâu

 

mười năm gió giạt nát nhàu

hồn tôi nhàu nát bợt màu buồn tênh

bao lần bóng ngã chênh vênh

mất mình, sông. biển. thác. ghềnh, mất nhau

 

tôi về chẳng hiểu về đâu

chiều ngơ ngác chiều buông mau chiều rồi

bên hồ tê buốt riêng tôi

phía nhà em nắng lưng đồi gần, xa…

 

Đà Lạt, 27. 12. 1992

Sài Gòn, tháng Giêng 1993

 

 

 

 

HÁT TRƯỚC MẶT TRỜI BÁCH VIỆT

 

trước giặc thù vẫn điềm nhiên

uy rồng ở nụ cười tiên Diên Hồng

                            TXA.

 

hình như khát vọng cùng tôi

nở ra từ trứng Hồng thời hoang sơ

một đàn chim Lạc hát thơ

giấc mê chợt tỉnh vắng trơ trống đồng…

 

bia văn võ, bướm phiêu bồng

đình làng nhã nhạc, thu không chuông chùa (*)

hồn ve lột xác mấy mùa

sân trường nắng đỏ gió lùa cỏ cây

 

xưa sau phảng phất đâu đây

đêm đêm hương thắp khói bay xa mờ

tôi tìm tôi tận hư vô

tiếng trầm nghiêm tự đáy mồ cha ông…(**)

 

mong từ mái đẩy chiêng cồng

dệt kinh điển Việt lắng trong điệu hồn

tuyệt với hào khí nước non

Rồng qua xâu xé vẫn còn rất Tiên

 

rợp bay chim Lạc ba miền

Diên Hồng tận đất nguồn thiêng mạch đời

đổi trao tinh tuý muôn nơi

trống đồng toả sáng mặt trời ý dân

 

tôi cười tôi bay bâng lâng

chỉ cành hoa sao kéo gần tương lai?

mộng mơ thôi đã bạc phai

nhìn Rồng thúc trống bùng hoài lửa Tiên.

 

 

Cước chú của bài Hát trước mặt trời Bách Việt:

(*) Nguyên văn, 1993: nhà thờ [họ tộc] nhã nhạc, thu không chuông chùa.

(**) Nguyên văn, 1993: tiếng cha ông tự đáy mồ trầm vang

 

 

 

 

BÀI THƠ CÓ TÊN LÀ “BÉ”

 

bé tên Bài Thơ

tâm hồn cha mẹ

 

ơi khúc sông sâu

ơi khúc ca dao

vô ngần đẹp đẽ

mạch núi phải đâu

mênh mang như thế

hương đồng gió bể

cuốn bớt bồi vào

mới thành ca dao

mới thành sông sâu

trong vắt ngọt ngào

 

tứ thơ ban đầu

mai sau ra sao

biếc đổi xanh trao

với đời, con nhé

 

tấm lòng cha mẹ

chắt cạn khô khao

mong bài thơ “Bé”

như khúc ca dao

như khúc sông sâu…

 

                  1988

 

 

 

 

KÍNH TẶNG MẠNH TỬ

 

nhân dân là thượng đế hay hoàng đế

trước bàn cờ vua cờ tướng – cõi đời

khát vọng ngàn năm đông tây nam bắc

với cuộc chơi nhưng không phải cuộc chơi!

 

                                             1993

 

 

 

 

KA ĐUM

 

suối ầm ào trầm bổng giữa rừng trăng

tiếng trống tiếng cồng tưng bừng bên ngọn lửa

câu hát nồng nàn hương lúa

ché rượu nghiêng cả trời đất ngấm vào người

 

Ka Đum! Ka Đum! ngọn lửa mùa vui

lửa mãnh liệt, lửa cháy bùng dưới vầng trăng

                                                         rực đỏ

lửa, lửa hồn nhiên như tiếng reo,

                     lửa kiên tâm như ngọn lúa

lửa tỏa cao, từ trang sách sáng mặt người

 

đôi tay pạp (*) mở lòng ra, vỗ nhịp liên hồi

thác rơi trên mặt trống nghìn năm âm hưởng mới

lồng ngực căng, rung

                    như cánh rừng bão nổi

cơn bão chói hồng, dậy từng đêm thao thức

                                                    băn khoăn

 

Ka Đum! Ka Đum! cồng ngân sâu,

                        hương lúa ngút hơi trăng

tan trong câu hát ngày mùa,

                       trái tim này nghiêng vào lòng nọ

con mắt quay đi, con mắt nhìn chăm Ka Đum

                                          như câu đố khó

đã ngời lên, lóng lánh giọt rượu vui

 

ơ buôn làng ơi! rừng già ta qua,

                               trơ lại rừng chồi

một sá (**) lúa trăm cây cao rạp xuống!

chạy quanh quẩn nghìn đời giữa núi cao rừng thẳm

nay địu con đi dựng lán xây trường,

                mỗi ngọn rau hạt thóc ngát bình yên

 

Ka Đum! Ka Đum! trăng tháng mười

                                 hồng rực Tây Nguyên

bao ngọn lửa chừng như huyền hoặc:

tiếng trống chạm vòm sao,

                      lịch sử vượt nghin năm tít tắp

giọng hát suối rừng: bao nhiêu cô gái Ka Đum!

 

                                                  1981

 

Cước chú của bài Ka Đum:

(*) Pạp (tiếng K’Hor): cha.

(**) Sá (tiếng K’Hor): loại gùi cao đeo sau lưng.

 

 

 

 

ĐẠO NỘI –

CÁI ĐẸP VÀ TRẺ THƠ

 

hoài niệm Tiên Dung và Chử Đồng Tử

 

cởi hết rồi tạm bợ

cát trôi, bãi Tự Nhiên

cao sang và cùng khổ

trong tâm nhìn, tiên thiên.

 

                               1993

 

 

 

 

ĐÀ LẠT VÀ EM

 

chẳng lẽ tôi trở về

chỉ với sương cỏ biếc

đồi thông dù thao thiết…

gặp mình là hư không…

 

xa hút thời ngóng trông

B’Lao sao thắp tím

đêm lạnh se ngọt lịm

hương hoa chè tóc thơm

 

còn đây nỗi tủi hờn

xé lòng nhau buốt bỏng

bến xe trưa Đức Trọng

gió xoáy ù cuồng mê

 

chẳng lẽ tôi trở về

như chìm vào niềm nhớ

lối quen ngôi nhà nhỏ

hiện dần trong mơ thôi?

 

tôi về, yêu dấu ơi

cũng chỉ thêm buồn khổ

mắt đen tròn, bỡ ngỡ…

từ vực chết tôi về…

 

dẫu còn xanh tóc thề

em bồng con thờ thẫn

tôi như người ngớ ngẩn

tìm thăm nhau làm chi!

 

đã qua rồi qua đi

chẳng bao giờ trở lại

tôi biết mình điên dại

quán khuya Đà Lạt buồn

 

chắt chiu niềm nhớ thương

qua quá nhiều cay đắng

dốc chơi vơi, bão trắng

tôi có còn tôi không.

 

Đà Lạt, 26 – 27. XII. 1992

Sài Gòn, 1993

 

 

 

 

THĂNG HOA

SINH THỰC KHÍ (*)

 

trầm hương sương ngát miếu đền

phiếm thần khẽ cúi hôn lên đoá hồng

ngàn xưa đèn toả nhớ mong

hoà xương thịt tình yêu trong đất trời.

 

                                  1984 – 1993

 

Cước chú của bài Thăng hoa sinh thực khí:

(*) Prianisme, với những hình tượng cách điệu, thẩm mĩ và với cái nhìn hồn nhiên tề vật cổ sơ: biểu tượng của hai nguyên khí âm dương.

 

 

 

 

TÔI VẪN Ở TRÊN ĐƯỜNG THƠ

 

không phải khởi đầu năm mười chín tuổi

nhưng thương quá câu thơ cháy nồng thơ dại ấy…

 

cảm ơn cảm ơn vì sao dẫn tôi đi suốt tháng năm dài

gập ghềnh đường thơ

              đi từ ước mơ đến cùng… mơ ước!

nén tận thẳm sâu bao đêm thao thức

để bây giờ còn giữ chút non tươi

 

chưa đến tuổi ba mươi

may thấm hiểu màu xanh của lá

và chấm nắng trong ngần mắt trẻ

mong thơ tôi

            chỉ là tre là gỗ

cho bầu bí xanh tràn nối lại những góc sân

 

tôi vẫn ở trên đường

vẫn dặn lòng cứ đi là đến

dẫu mười năm sau, lần nữa, ngoảnh về

 

cơ chi hồn còn mãi những ngô nghê!

ôi, kẻ tuẫn đạo

      đã hoang tưởng quay cuồng bụi đỏ!

 

cơ chi hồn mãi hoài bỡ ngỡ

sau mỗi chặng đường

ngoảnh lại

cười, với nụ cười buồn

bước tiếp!

 

chưa đến tuổi ba mươi

bàng hoàng trước muôn đời lá biếc

và chấm nắng xưa sau trong mắt trẻ non tươi

tôi mãi ở trên đường. Lặng lẽ nụ cười.

 

                                                  1982

 

 

 

 

THOÁNG THIÊN THU

 

tơ trời nghiêng nghiêng gió

chiều nghiêng nghiêng lá vàng

khẽ choáng hồn thu cổ

bên em qua đò ngang

 

bao năm nghe thu sang

niềm muôn trùng thuở nọ

đêm biếc nghiêng nghiêng nhớ

nghiêng nghiêng trăng hồng hoang

 

tim nghiêng nghiêng chín đỏ

tay nghiêng nghiêng tiếng đàn

hình như tôi ngồi đó

ngàn mùa thu phủ tràn!

 

                                 1992

 

 

 

 

ÁM THỊ

“HOANG TƯỜNG BỊ CƯỠNG HIẾP

VÀ BỊ BÔI NHỌ”

 

tặng Nhật kí người điên của Lỗ Tấn (*)

 

bao nhiêu lần muốn thoát ra

cho lòng thoáng nắng gió và mây bay

lại xanh sông nước cỏ cây

đàn chim nó hót với bầy trẻ thơ

 

nỗi đau rợn lạnh giấc mơ

dù ám thị, đến bây giờ còn đau

tự mình cắt rốn chôn nhau

từ nay sống với kiếp sau, giữa đời

kiếp xưa đã đắp mộ rồi

giờ ôm tiếng hát chào đời, đời ơi

đất hứa cũng là đây thôi

đời đang thoát, tôi thoát tôi ngày nào

 

hát cho trời chẳng còn cao (**)

đất không còn thấp trăng sao bên người

hát cho số phận mỉm cười

ảo thanh cú rúc trong tôi xa lìa.

 

                                    1982 – 1991

 

 

Cước chú của bài Ám thị “hoang tường bị cưỡng hiếp và bị bôi nhọ”:

(*) Xin xem chú thích của TXA. ở lời giới thiệu đầu tập thơ và phần phụ lục (trích Từ điển văn học) cuối tập thơ.

(**) Chữ Trời có thể viết hoa: Trời cao (Thượng đế, Chúa Trời).

 

Ghi chú: Nhan đề "Ám thị “hoang tường bị cưỡng hiếp và bị bôi nhọ”" cần được ghi thêm cho rõ ý: (Nạn nhân của sadisme văn sử triết).

Bài thơ này còn có nhan đề là "Hoang tưởng bị bức hiếp" (trong cuốn "Những gương mặt thơ mới", tập 1, Nxb. Thanh Niên, 1994)

 

 

 

 

 

 

ÁO ĐỎ

 

tặng Phú

 

gió xám mờ buốt lạnh

bay bay bỗng rực hồng

chiếc áo mưa màu đỏ

sáng ngõ buồn chiều đông

 

và em sà vào lòng

áo trở thành ngọn lửa

toả ấm từ góc phòng

ngây thơ ngơ ngẩn ngó…

 

                           1990

 

 

 

 

B’LAO, MỘT THOÁNG TIẾNG HÁT

 

chóp núi hừng đông tràn nắng sớm

gió mùa ngân nga trên nương rẫy vàng

Ka Rem hát cho mình đứng ngó

tiếng lồ ô – bè trầm –

            truyền theo dây mây âm vang…

 

                                                1979

 

 

 

 

GẶP EM VÀ NAM HOA KINH

 

em đang mây nhưng đâu phải mây trôi

khi mãi nhớ thuở nào trong biếc nước

thân bay bổng thân tuôn xanh róc rách

vẫn đẹp như mưa toả ngát bốn phương trời

 

làn mây tiêu dao đâu còn khắc khoải chơi vơi

với bao ảo tượng vàng ròng hay bùn đất!

em đích thực em, bay trọn tầm bay thanh thoát nhất

dù không thể thành tiên và còn ngọn gió của đời.

 

                                                         1993

 

 

 

 

HÌNH DUNG

KHI ĐỊNH LẬP NGHIỆP Ở SÀI GÒN

 

lời quê kính tặng Mạ

 

Mạ đã già rồi Mạ ơi

một đời quê kiểng, nay rời xa quê!

phố phường ào ạt người xe

đi dọc vỉa hè cũng níu tay con

 

vì con, xưa sống neo đơn

giờ lo cho cháu Mạ thương Mạ vào

 

xa quê nhớ cả gió lào

ngốt bụi đỏ với bão gào mưa ru

gặp ai, Mạ chỉ ậm ừ

giọng làng trĩu nặng, trầm như điệu hò

 

ngồi nhà, nhớ đến bơ thờ

bao năm quên phố, ngẩn ngơ lạc loài

đang đi, giấu tiếng thở dài

nhìn con nhìn cháu mũi cay môi cười

 

cháu như bay giữa đường đời

Mạ con mình hoá mây trời bay theo.

 

                                         1991

 

 

 

 

MẶC NIỆM

 

trong tôi có một miền quê

đôi khi buồn quá tôi về trong tôi

 

bao nhiêu vỡ nát rối bời

thiêng liêng quốc tuý vẫn ngôi đình làng

nến lung linh khói trầm nhang

nghe lòng ấm lại bốn ngàn năm xưa

 

đất trời buốt bỏng nắng mưa

trái tim thanh lọc nhịp mùa nguyên sơ

 

chiêng rung trống vọng bóng cờ

trăm con chim lạc giọng hò trăm nơi

mẹ Tiên yêu núi biếc ngời

cùng cha Rồng hát chung lời sóng vang

 

Đông – Tây

khúc xạ

hoà tan

tan vào vũ trụ mênh mang mãi còn

 

mở trương ẩn giữa làng thôn

sớ dâng, kẻ sĩ nhớ ơn người thầy

và ai thấu nỗi đắng cay

giả lười, sách thuốc đọng đầy tình dân (*)

 

bâng khuâng…

             xa khuất, suối ngân

lắng trong heo hút tiếng chân không mòn

 

quên thù cha vì nước non

vung gươm, truyền hịch, vạn hồn bừng nghe

và ai thắp lửa hội thề

án oan tưới máu … (*)

                 bia đề, rưng rưng…

 

thây phơi, đàn nhị nghẹn chùng

vô danh câu hát, mung lung hương đồng

 

sân đình lặng nhớ cha ông

thuở nào mở đất dắt bồng cháu con

hoang vu chí ngợp vai sờn

ngoảng về cố quận hoàng hôn cháy lòng

 

nao nao diệu vợi pháo hồng

bồi hồi trăng ngát đèn lồng lễ vui

 

ngấm bao chát xót ngọt bùi

ngàn xưa reo múa ngậm ngùi ngàn xưa

mương kênh rửa mặn thau chua

ngàn sau điện sáng trĩu mùa ngàn sau

 

còn đây tóc chỏm khoe màu

áo dài khăn đóng bạc đầu ô đen

 

vẫn còn đây làm sao quên

ước mơ nẩy lộc đẹp thêm một thời

gốc bàng cổ thụ khô rồi

bây giờ sống lại cho đời, vạn năm

 

trong tôi, khuya một, đêm rằm

ngát xưa hương toả hướng tâm về nguồn

 

bao ngôi đình quá thân thương

nơi tôi tìm đến dọc đường xa quê

trái tim gọi thức cơn mê…

hồn thiêng Đất nước lắng nghe chút lòng…

 

                               21. IV – 20. V. 1993

 

Cước chú của bài Mặc niệm:

(*) Chu Văn An, Lê Hữu Trác, Trần Hưng Đạo và Nguyễn Trãi, bốn danh nhân dân tộc được nhân dân thờ kính, trải qua nhiều thời đại với nhiều quan điểm, góc độ đánh giá khác nhau. Tất nhiên, cũng cần phải ghi nhận hạn chế của Trần Hưng Đạo và nhà Trần, đó là tệ hôn nhân đồng huyết trong nội bộ hoàng tộc. Cần phải triệt để phê phán thói hôn nhân loạn luân ấy. Về trường hợp Nguyễn Trãi, lúc sinh thời vào những năm cuối đời và khoảng 20 năm sau khi ông bị án tru di tam tộc (1442 – 1464), Nguyễn Trãi còn bị nhiều sự gièm pha, vu khống của bọn gian thần. Ở đây, chỉ để hướng chân tâm, “thực nghiệm tâm linh”, gồm cả việc mài sắc ý thức phê phán mặt hạn chế của danh nhân một cách tỉnh táo.

            (Chú thích năm 1993 & bổ sung vào ngày 08. 03. 2005).

 

 

 

 

HÁT RU GIÙM TRÁI TIM TÔI

 

em thân yêu, trăng đã xuống ngoài hiên

ru êm giùm tôi nguồn thơ mê sảng

 

trái tim tôi có một mảnh Khuất Nguyên

đông khô nhiều giọt lệ Người Điên

vẫn nỗi đau Lỗ Tấn!

 

tia mặt trời chiếu thẳng

cũng thành đêm dài sầu hận?!

bức hiếp cuồng với khát vọng nhân quyền

được làm người ngẩng cao vầng trán

 

đã Li tao đắng

đã Nhật kí mặn

đã chiêu hồn mình tìm chút bình yên

 

quên đi em. Chỉ còn tình thơ thân thương

                                              trầm lắng

xin nhẹ ru tôi giấc trẻ ngoan hiền.

 

                                            1992

 

 

 

 

Phụ lục (bổ sung, 2005):

 

GS. LƯƠNG DUY THỨ

 

NHẬT KÍ NGƯỜI ĐIÊN

(Cuồng nhân nhật kí, 1918),

truyện ngắn đầu tay của nhà văn Trung Quốc Lỗ Tấn.

 

Nhân vật chính là một trí thức mắc bệnh “bức hại cuồng”, luôn luôn nơm nớp lo sợ bị người khác ăn thịt. Thấy con chó nhà địa chủ họ Triệu nhe răng ra sủa, nhìn con mắt lườm lườm của cụ Triệu, ra đường thấy bọn trẻ lánh mặt, nghe người đàn bà nọ mắng con: “Tao có ăn được thịt mày một miếng mới hả giận”, anh ta đều nghĩ họ đang mưu toan ăn thịt mình. Anh cố tìm nguyên nhân và nghĩ đến hành động hai mươi năm về trước mình đã giẫm lên cuốn sổ ghi nợ mấy mươi đời của ông Cổ Cữu (ông Lâu đời) làm ông ta căm giận nên rủ rê cụ Triệu hãm hại mình và bày vẽ cho bọn trẻ con chống lại mình. Anh còn cố nhớ lại những điều đã học trong sử sách và hiểu ra rằng việc ăn thịt người vốn đã thường xuyên xảy ra. Anh liền giở cuốn lịch sử bốn ngàn năm Trung Quốc ra tra cứu và bỗng phát hiện đằng sau các dòng chữ dày đặc những “nhân nghĩa đạo đức” nổi bật lên mấy chữ “ăn thịt người”. Thầy thuốc đến bắt mạch chữa bệnh cho anh, anh lại nghĩ chẳng qua họ sờ xem gầy hay béo để tiện ăn thịt mà thôi. Anh phát hiện mưu kế của họ không muốn ra mặt giết người mà cố bức cho phải tự chết để ăn thịt. Anh hiểu thêm có kẻ lấy ăn thịt người làm lẽ sống, có kẻ do thói quen, có kẻ biết sai nhưng không chịu bước qua ngưỡng cửa giác ngộ mà a tòng. Anh chất vấn một người trẻ tuổi, ăn thịt người là không nên, tại sao vẫn cứ ăn. Rồi anh nghĩ đến việc khuyên can mọi người, bắt đầu từ ông anh, không nên ăn thịt người. Anh bị cự tuyệt, bị nhốt vào phòng và mọi người đua nhau đến xem thằng điên. Trong cơn điên loạn, anh thét bảo mọi người phải thay đổi, từ chân tâm mà thay đổi, vì tương lai không ai dung thứ những kẻ ăn thịt người. Và anh bỗng loé lên niềm hi vọng vào những đứa trẻ chưa từng ăn thịt người, anh vội vã kêu cứu: Hãy cứu lấy trẻ em!

Lỗ Tấn đã khéo thông qua diễn biến tâm lí của một người điên để lên án bản chất ăn thịt người của chế độ gia tộc và lễ giáo phong kiến, gắn với nó là sự bóc lột tô tức và sưu dịch nặng nề. Người điên mang dáng dấp hình tượng một chiến sĩ dân chủ, thức dậy sớm khi mọi người còn mê ngủ, nhìn rõ bản chất ăn thịt người của chế độ cũ, kêu gọi đạp đổ nó và tìm cách cứu lấy mầm non của tương lai. Mặc dù niềm hi vọng thay cũ đổi mới của tác giả còn mang màu sắc tiến hoá luận và hình ảnh người chiến sĩ dân chủ còn đơn độc, sống bằng sức mạnh tinh thần, còn ít nhiều chịu ảnh hưởng học thuyết siêu nhân của Nitsơ (F. Nietzsche [TXA. chua thêm]), nhưng Nhật kí người điên đã vang lên như bài hịch tuyên chiến chống phong kiến, đáp ứng nhu cầu giải phóng tư tưởng của thời đại Ngũ tứ (04. V. 1919, 1917 – 1924 [TXA. ct.]). Hình thức mới mẻ, cách điệu độc đáo, tác phẩm đã chinh phục người đọc ngay từ khi mới ra đời.

                                                               

(Trích: Nhiều tác giả, Từ điển văn học, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 111 – 112: mục từ 156, bài viết của GS. Lương Duy Thứ. Hoặc: Từ điển văn học, bộ mới, Nxb. Thế Giới, 2004, tr. 1258: cũng bài viết trên).

 

 

Xin xem lại chú thích của Trần Xuân An

ở Lời đề tựa:

Đó là sự phản ánh của quy luật tự nhiên, hiện thực xã hội, và quy luật, hiện thực đó đã kết tinh thành biểu tượng, như trong Nhật kí người điên của Lỗ Tấn.

Ở ý nghĩa triết học, phải chăng nhân vật Người điên ấy bị ám ảnh về tội sát sanh tàn bạo có tính quy luật của thế giới sinh vật muôn loài, đến mức cho rằng địa chủ, kẻ cho vay nặng lãi, thầy thuốc cùng ông nội, bà con ruột thịt, láng giềng, làng xóm và cả xã hội loài người đều nhăm nhe ăn thịt anh ta? Anh ta sợ hãi, kinh hoàng, khủng khiếp trước sự thể “người ăn thịt người” đó. Trong tập thơ này, tác giả (Trần Xuân An) đã vận dụng thủ pháp nhập thân để thể hiện ám ảnh hãi hùng, rùng rợn của một Người điên khác, về quy luật “người cưỡng hiếp người”.

Cùng với việc giải mã (một cách khám phá sáng tạo) hình tượng tác phẩm trên của Lỗ Tấn, tôi (TXA.) đã bổ sung thêm một trong hai tiên đề quan trọng của vô thần luận (phủ nhận Thượng đế [hay còn gọi là Đức Chúa Trời], mặc dù vẫn hi vọng có sự tồn tại của cái ngã siêu linh [hay linh hồn] ở mỗi con người – sinh vật cấp cao).

Nói rõ ra, sát sanh (“người ăn thịt người”) và loạn luân (“người cưỡng hiếp người”) là hai quy luật tồn tại của sinh vật (nhất là ở loài người nguyên thuỷ, ở sinh vật cấp thấp từ nguyên thuỷ đến nay: chó, mèo, gà, vịt…). Do đó, không thể có một Thượng đế (Đức Chúa Trời) sinh thành ra vũ trụ với muôn loài như vậy.

Chính loài người sẽ ngày mỗi tiến bộ, cải tạo được cả quy luật tất yếu của thế giới tự nhiên (sát sanh, loạn luân [mà kết quả của sự tiến bộ về ý thức đạo đức văn minh là đã trở thành sự tố cáo kinh hoàng: “người ăn thịt người”, “người cưỡng hiếp người”]…). Thế giới tự nhiên bao gồm tất cả các chủng loại sinh vật từ cấp thấp đến cấp cao, trong đó có loài người; nhưng cho đến nay, chỉ loài người mới đạt được trình độ đạo đức văn minh đó. Chính sự phấn đấu cho mục đích văn minh ấy đã làm cho lịch sử loài người có ý nghĩa sâu sắc. Sống và lao động một cách rất có ý nghĩa nhân văn như thế, đâu phải là một tiến trình phi lí!

Xin xem thêm: Trần Xuân An, Mùa hè bên sông, tiểu thuyết, bản 2003; và phụ lục (trích Từ điển văn học) ở cuối tập thơ này.

                       (TXA. chú thích ngày 07 & 26. 03. 2005).

  

 

 

ĐỂ HIỂU MỘT GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ

VÀ MỘT NHÂN VẬT LỊCH SỬ:

Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “kẻ thù lớn nhất

của chủ nghĩa thực dân Pháp”, “những người trung

nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”,

 

XIN TÌM ĐỌC:

 

 

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN

NGUYỄN VĂN TƯỜNG

(1824 – 1886)

 

(truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử)

trọn bộ 4 tập (985 tr. 16 x 24 cm)

 

Tác giả: TRẦN XUÂN AN

 

Hội đồng Tư vấn, Phản biện & Giám định

thuộc Hội Khoa học lịch sử Việt Nam giám định.

Tổng Thư kí Hội Khoa học lịch sử Việt Nam

DƯƠNG TRUNG QUỐC

viết lời giới thiệu.

 

NXB. VĂN NGHỆ TP. HCM. ấn hành, 12. 2004

FAHASA phát hành

 

 

 

TÔI VẪN Ở TRÊN ĐƯỜNG

Thơ

Trần Xuân An

 

◘ Thơ ngỏ (trích Nắng và mưa)

◘ Sự an ủi dịu dàng của cái đẹp

                (lời tựa của Tần Hoài Dạ Vũ)

1. Từ cõi nhớ em về

2. Đức Trọng và “Quán bên đường”

3. Ngõ rêu

4. Đâu đó giữa vô biên (4 bài)

5. Đọc lại Đạo Đức Kinh, thấm buồn

6. Hình như có một sớm mai tuổi thơ – Phụ bản 1: Trẻ thơ

7. Tạ lỗi một người

8. Tôi vẫn yêu trái đất này

9. Trang thứ nhất

10. Hai mươi năm trước, khi uống trà ở chùa

11. Tạ ơn

12. Giữa vô cùng

13. Mùa vàng miền cao

14. Với truyền thuyết về khát vọng cứu rỗi

15. Tin quê

16. Này là mình và máu nhà thơ – Phụ bản 2: Hoài niệm

17. Giá như

18. Sau mười năm, chiều Đà Lạt

19. Hát trước mặt trời Bách Việt

20. Bài thơ có tên là “Bé”

21. Kính tặng Mạnh Tử

22. Ka Đum

23. Đạo Nội – cái đẹp và trẻ thơ

24. Đà Lạt và em

25. Thăng hoa sinh thực khí

26. Tôi vẫn ở trên đường thơ

27. Thoáng thiên thu

28. Ám thị “hoang tường bị cưỡng hiếp và bị bôi nhọ”

29. Áo đỏ

30. B’Lao, một thoáng tiếng hát

31. Gặp em và Nam Hoa kinh – Phụ bản 3: Mỏi mòn

32. Hình dung khi định lập nghiệp ở Sài Gòn

33. Mặc niệm

34. Hát ru giùm trái tim tôi (thơ bạt)

◘ Phụ lục (GS. Lương Duy Thứ, “Nhật kí người điên”,

     trích Từ điển văn học)

◘ Mục lục

 

 

TÔI VẪN Ở TRÊN ĐƯỜNG

Thơ

TRẦN XUÂN AN

Nhà Xuất bản Văn Nghệ TP. HCM.

1993

 

 

Chịu trách nhiệm xuất bản:

NGUYỄN QUỐC THỦ

Chịu trách nhiệm bản thảo:

HỒNG DUỆ

 

Biên tập: BÍCH TIÊN

Tranh bìa: NGUYỄN PHAN

Trình bày: NGUYỄN CHINH

Sửa bản in: NHẬT VĂN

 

 

In 1.000 bản, khổ 13 x 19 cm tại ITAXA. Giấy phép xuất bản số 1 – 67 B / VN – 93 và giấy đăng kí kế hoạch xuất bản số 102 / CXB. In xong và nộp lưu chiểu, tháng 8. 1993.

 

 

Bìa 4

 

 

trái tim tôi có một mảnh Khuất Nguyên

đông khô nhiều giọt lệ Người Điên

vẫn nỗi đau Lỗ Tấn!

quên đi em. Chỉ còn tình thơ thân thương

trầm lắng

xin nhẹ ru tôi giấc trẻ ngoan hiền.

 

1992

 

 

 

chưa đến tuổi ba mươi

bàng hoàng trước muôn đời lá biếc

và chấm nắng xưa sau trong mắt trẻ non tươi

tôi mãi ở trên đường. Lặng lẽ nụ cười.

 

1982

 

 

Giá: 6.000 đ.

 

(  hết tập  )

 

E-mail: tranxuanan_vn@yahoo.com

Cập nhật 06/30/09                                                                    Trở về trang chủ

                                                                 

______________________________________________________________________________________________________________

 

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/home

 

 

Google page creator /  host

 

GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE