GS. Nguyễn Quốc Trị (Hoa Kỳ) -- Về Nguyễn Văn Tường, 1824-1886 (bài 3)

 

 

Bản sao để LƯU (ngày 15-5 HB9 [2009])

 

Bài 3

 

 Nguyễn Văn Tường tham lam?

Nguyễn Quốc Trị

 

4 BÀI VIẾT CỦA ÔNG NGUYỄN QUỐC TRỊ

 

Tạp chí điện tử Giao Điểm (giaodiem com), tháng 5 năm 2005:

Bốn bài viết của ông Nguyễn Quốc Trị (Hoa Kỳ) trên mạng liên thông toàn cầu “thahuong net” (Google, Yahoo. MSN search):

 

Bài 1:

http://members.cox.net/luanlac/vanhoa/nvt&slcp.htm

Nguyễn Văn Tường và sách lược chống Pháp dưới Triều Nguyễn

 

Bài 2:

http://members.cox.net/luanlac/vanhoa/nvt&hpkp.htm

Nguyễn Văn Tường có tư thông với bà Học Phi và giết vua Kiến Phúc không?

 

Bài 3:

http://members.cox.net/hoaihuong/vanhoa/nvtthl.htm

Nguyễn Văn Tường tham lam?

 

Bài 4:

http://members.cox.net/hoaihuong/vanhoa/nvttnh.htm

Nguyễn Văn Tường tàn nhẫn?

__________________________________

Vài lời của Trần Xuân An: Nếu cứ liệt kê, phân tích và cải chính tất cả những gì kẻ thù của Nguyễn Văn Tường bôi nhọ, xuyên tạc, đơm đặt về ông và từ những người cố ý hay vô tình phụ họa, lặp lại luận điệu bôi nhọ, xuyên tạc, đơm đặt ấy, như ông Nguyễn Quốc Trị đã thực hiện một cách khá đậm đặc trong 3 bài viết 2, 3 & 4 dưới đây, hoặc sử dụng tư liệu đã được chứng minh là giả mạo (thư gửi thống đốc Tahiti chẳng hạn), như trong bài viết 1 (cũng ở chùm bài kể trên) thì hóa ra là mắc mưu chúng, vô hình trung tiếp tay cho chúng. Chúng sẽ càng được thể mà bôi nhọ, xuyên tạc, đơm đặt về những nhân vật lịch sử khác.

______________________________

Bài 3

 

 

????????????? Nguyễn Văn Tường tham lam?

???????????????????????????????????????????????????????

???????????????????????????????????????????????? Nguyễn Quốc Trị

 

? LTS: Tác giả là nguyên Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh, Sài gòn. Ông có khảo cứu về vấn đề phát triển các quốc gia chậm tiến, và sáng tác cuốn Third World Development: Aspects of Political Legitimacy and Viability. Associated University Presses, 1989; 2010 Eastpark Blvd, Cranbury, NJ 08512; ÐT (609) 655-4770; Fax (609) 655-8366; là một tác phẩm được báo chí quốc tế ở Nữu Ước, Luân Ðôn và Ba Lê ngợi khen.

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------?? |?? Tác giả giữ BẢN QUYỀN.?? Bài này là một thành phần của cuốn sách tác giả đang????? |

|?? soạn? về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường.?? Mọi sử dụng, bất kỳ dưới hình thức????? |

|?? ?nào, cần sự đồng ý của ông Nguyễn Quốc Trị.????????????????????????????????????????????????????????????? |?????????????????????????? ??????????????????????????????????????????????????????????

 

Trong một cuốn sử căn bản mà hầu hết 4 thế hệ người Việt Nam vừa qua thường rất quen thuộc vì đã có học ở trường, hay đọc qua để biết về quá khứ của dân tộc, sử gia Trần Trọng Kim đã viết về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (NVT) như sau:

 

"Nguyễn Văn Tường . . . thật là một người có tài trí, giỏi nghề giao thiệp, nhưng chỉ có tính tham lam và lại tàn nhẫn. [ ] Ông . . . chịu tiền hối lộ của những người Khách cho chúng đem tiền sềnh, là một thứ tiền niên hiệu Tự Ðức đúc ở bên Tàu đưa sang bắt dân phải tiêu.? Ai không tiêu thì phải tội." ?? (Viêt Nam Sử Lược. Sài Gòn: Bộ-Giáo-Dục, Trung- Tâm Học-Liệu xuất-bản, 1971,? 223-4)

 

Cũng như hầu hết các tác giả viết sử thời đó, sử gia họ Trần không cho biết nguồn tin này, cũng như mọi chi tiết quan trọng khác trong cuốn sách,? xuất xứ từ đâu.? Tuy nhiên, tác giả có cho biết 'Những Sách Soạn Giả Dùng Ðể Kê Cứu'? ở cuối bộ sử (t. 237), trong đó có 16 sách chữ nho và quốc ngữ, và 10 sách tiếng Pháp.? Trong số sách chữ nho và Việt có Ðại Nam Thực lục Chính biên, Quốc triều Sử Toát yếu, và Hạnh Thục Ca? là có liên quan trực tiếp đến nhân vật NVT.? Nhưng cả 3 cuốn sử liệu này đều không có chỗ nào nói NVT ăn tiền hối lộ của người Tàu cả.? Ngoài ra, cũng không sách nào nói là NVT tham lam hoặc tàn nhẫn cả, chỉ xem NVT là một 'quyền thần' ?và tường thuật những sự kiện, như truất phế vua, có thể được người đọc suy diễn ra là tốt hay xấu, tùy theo quan điểm thân Pháp hay chống Pháp của mình. Về 10 cuốn sách tiếng Pháp, hầu hết, nếu không nói là tất cả, đều được viết đứng trên lập trường của Pháp, nhìn sử Việt Nam theo khía cạnh quyền lợi của nước Pháp. Trong các sách đó, có độ 2/3 nói đến NVT, và gần 1/2 là của các tác giả thực dân Pháp có tiếng là thù ghét NVT và mạt sát ông thậm tệ, như J. Dupuis, E. Louvet [viết về cuộc đời Ðức GM Puginier], và J. Silvestre, người đã vận động và thực hiện việc đưa 2 ông Nguỳễn Hữu Ðộ và Phan Ðình Bình thay 2 ông Tường, Thuyết và vua Ðồng Khánh thay vua Hàm Nghi.? Viết dưới thời Pháp thuộc vào đầu thập niên 1920 để dùng vào việc giáo dục thanh thiếu niên của một nước Việt Nam thuộc Pháp, cuốn sách của sử gia Kim, mặc dầu về sau có đôi chút sửa đổi, dĩ nhiên đã phải chịu áp lực chính trị của chính quyền thời Pháp thuộc, và ảnh hưởng nặng nề của các sách báo của nền sử học thực dân Pháp.? Vì xu hướng viết sử trội yếu của các sử gia Việt là lặp lại những gì các sách trước đã viết, không đặt nặng vấn đề tìm kiếm các tài liệu gốc và đầu tay, hay lượng gíá, phối kiểm các tài liệu tham khảo,? cho nên những sự xuyên tạc và bóp méo do các tác giả thực dân tung ra với mục đích tuyên truyền vẫn được truyền tụng mãi cho đến ngày nay, cả nửa thế kỷ sau khi Việt Nam đã thoát khỏi sự kìm kẹp của Pháp.

 

Mới gần đây, chẳng hạn, những câu nói đó của sử gia Trần Trọng Kim được lặp lại gần như nguyên văn trong cuốn Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả? của Hội Ðồng Trị? Sự Nguyễn Phúc Tộc. (Nhà Xuất Bản Thuận Hóa, Huế, 1995 [sẽ được gọi tắt là: Thế Phả'], 383). Trong bài 'Nguyễn Văn Tường có tư thông với bà Học Phi và giết vua Kiến Phúc không?', đăng trên báo Thế Kỷ 21 số 172 và 173 năm 2003, người viết đã chứng minh với đầy đủ chi tiết? rằng câu chuyện tư thông và giết vua đó, mà sử sách ta đã tốn bao nhiêu giấy mực bàn cãi mãi, và cho đến nay còn được lặp đi lặp lại trong bộ sử mới xuất bản đầu thiên niên kỷ thứ 21, (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận. Antony, Pháp: Hội Văn hóa Hải ngoại, 2002, 1271-2, 1327,1891-2), chỉ là một câu chuyện hoàn toàn biạ đặt, do nền sử học thực dân tung ra, vì mục đích chính trị, để bôi lọ nhân vật NVT, một nhân vật đã kiên trì chống Pháp với sách lược 'hòa để mưu chiến', và đã bị Pháp đày đi Tahiti rồi mất ở đó. (Xin xem bài 'Nguyễn Văn Tường và sách lược chống Pháp dưới Triều Nguyễn'.? Thế Kỷ 21, số 169, 170, 171, 2003). Bài này và các bài kế tiếp? sẽ tiếp tục chứng minh rằng tất cả các tố cáo khác của sử sách liên quan đến việc NVT ám hại vua quan, hoàng tộc, ăn hối lộ người Tàu, nịnh bợ, tráo trỡ để bị cho là 'tham lam, tàn nhẫn, gian trá . . .', đều không dựa trên một cơ sở nào vững chắc cả, và đều là kết quả của sự xuyên tạc, bóp méo, bôi lọ các nhân vật chống Pháp, của nền sử học thực dân.

 

Ðể tiện việc trình bày, vấn đề này đựơc chia làm 3 phần chính: 1. NVT tham lam; 2. NVT tàn nhẫn?; và 3. NVT gian trá? Bài này sẽ chỉ nhấn mạnh vào khía cạnh 'tham lam', hai khía cạnh kia sẽ được bàn trong dịp khác. Vì biên giới giữa 3 tính chất này đôi khi không rõ rệt, và có thể đưa đến nhiều trùng dụng, sự phân chia này không khỏi có phần độc đoán, và chỉ nên được xem như là một phương tiện để sắp xếp tư tưởng mà thôi. Những sự việc, đúng hay sai, có hay không có xảy ra, liên quan đến NVT mà sử sách đã có thể dùng để suy diễn là NVT là tham lam, sẽ được bàn xét sau đây.

 

I. Nguyễn Văn Tường tham nhũng và hà lạm?

 

A.? Chiến dịch xuyên tạc vua quan Việt Nam của Thực dân Pháp

 

Nói đúng ra, không phải một mình NVT mà tất cả vua quan nhà Nguyễn nói chung hồi đó, đều là đối tượng của sự bôi lọ của nền sử học thực dân Pháp. Sự bôi lọ đó cần thiết cho giới thực dân để biện minh cho cuộc chiến tranh xâm lăng chiếm cứ thuộc địa của họ.? Theo một luận cứ quen thuộc của thuyết thực dân, nước Pháp văn minh, vĩ đại có bổn phận dìu dắt các dân tộc bán khai ở các châu Phi, Mỹ, Á lên con đường văn minh tiến bộ.? Muốn vậy, cần phải giải phóng các dân tộc này khỏi sự áp bức, bóc lột tàn bạo của giai cấp cai trị họ, cũng như khỏi những tâp tục dã man, hủ lậu, mê tín dị đoan của xứ sở họ. Các viên chức dân và quân sự Pháp lo việc diệt trừ giai cấp thống trị bản xứ.? Các thừa sai Công giáo lo việc mang ánh sáng phúc âm đến cho dân chúng bị trị. Trong khuôn khổ chiêu? bài đó, một tác giả Pháp, dựa vào thư tín của Ðức Giám Mục Retord,? đã đánh giá các quan lại Việt Nam đại lược như sau: Dân Bắc Kỳ nói chung rất hiền lành và biết ơn, còn những nhà cầm quyền thì chỉ có thể khống chế? bằng cách làm cho họ sợ hãi mà thôi; Giới quan lại là giai cấp tệ lậu nhất trong xã hội: rượu chè, cờ bạc, thuốc phiện, xướng ca, trụy lạc là lối tiêu khiển của họ; Họ chỉ lo lừa phĩnh vua để hưởng vinh hoa, đàn áp dân chúng để kiếm tiền, bóp méo luật pháp để làm lợi cho mình và làm hại kẻ bần cùng; Với những kẻ cai trị như vậy, mọi hiệp ước đều vô nghĩa, chỉ có vũ lực mới buộc được họ thi hành những điều cam kết mà thôi. (Romanet du Caillaud, F., Histoire de l'intervention francaise au Tong-King de 1872 à 1874. Paris, Challamel ainé, 1880,? 311).? Cuốn sách ghi những hàng này của tác giả Romanet đã có ảnh hưởng lớn đến chánh sách thực dân của Pháp sau ngày 4 tỉnh thành Bắc Kỳ, do Francis chiếm đoạt, được giao hoàn lại cho Việt nam. Cái luận điệu khinh miệt vua quan Việt Nam như vậy không phải là một biệt lệ, mà đầy dẫy trong sách báo của người Pháp thực dân, dưới muôn ngàn hình thức, minh thị hay mặc thị, và ngay cả trong sử sách Việt, bị ảnh hưởng và áp lực của nền sử học thực dân.

 

Một cuốn sử về Việt Nam viết bằng tiếng Pháp của nhà bác học Công giáo Trương Vĩnh Ký xuất bản vào cuối thập niên 1870, đã mạt sát thậm tệ các vị vua, quan nhà Nguyễn. Theo tác giả thì sở dĩ Nam Kỳ mất, Bắc Kỳ loạn lạc là vì sự ương ngạnh mù quáng của các vua nhà Nguyễn, cùng với sự khủng bố, đàn áp, và tham nhũng của các quan lại. Tác giả cũng lấy? tư cách là một sử gia trung nghĩa và cẩn trọng, không quên rằng dù là người An Nam của Pháp, của Nam Kỳ hay Bắc Kỳ, mọi người đều cùng chung một nguồn gốc.? Nhưng tác giả khẳng định rằng mình phản đối, đến tận cùng, chính sách cai trị sai lầm, phản kinh tế, đã biến dân chúng trở thành trâu ngựa cho nhà Nguyễn.? Tác giả cũng không ngần ngại thú nhận rằng tổ chức chính trị đẹp đẽ của Pháp đã cám dỗ tâm hồn, chính phục lòng kính mến và tận tụy của mình, cũng như đã thu hút được cảm tình của các dân tộc được sáp nhập vào nước Ðại Pháp, vì họ đã hưởng được biết bao nhiêu là tự do, là an ninh do những người chủ mới đem lại.? Rồi vị học giả tiếp tục dẫn chứng tội trạng của các vua nhà Nguyễn một cách cụ thể hơn: Minh Mạng đã bạc đãi các giáo sĩ, tập trung họ về Huế để dịch sách hay thực hiện các cuộc khảo cứu khoa học, xong việc thì đày họ đi nơi ma thiêng nước độc; Thải hồi các sĩ quan Pháp đã từng tận tụy giúp vua cha; Từ chối tiếp sứ giả Pháp; Áp bức, đô hộ các nước láng giềng; Lấy chị dâu cho mang thai rồi xử tử cùng với 2 cháu mình để chúng khỏi có cơ tranh dành ngôi báu;? Mua chuộc bộ hạ của công thần Nguyễn Văn Thành, xúi họ làm văn thư giả mạo để tố cáo ông này làm phản, rồi xử tử.? Cũng theo lời tác giả thì vua Thiệu Trị, sau khi nổi cơn thịnh nộ vì tàu Pháp bắn phá bờ biển, đã ban bố thêm một chỉ dụ mới, ngoài những chỉ dụ diệt đạo đương hành, ra lệnh xử tử tất cả những người Âu châu, bị bắt được trên lãnh thổ Ðại Nam, mà không cần phải xét xử; Ra chỉ thị hủy bỏ tất cả đồ đạc xuất phát từ Âu Châu hiện có trong hoàng thành; Lúc còn là hoàng tử, lấy 'Cô Hàng', gái Gò Công do người cô môi giới; người cô còn trẻ và coi được, vua cũng lấy luôn; cả 2 cô cháu đều có con trai; con của cháu trở thành Tự Ðức; con của cô trở thành anh của vua là Hoàng Tử Hoàng Bảo; ông anh âm mưu nổi loạn để tranh ngôi, thất bại, bị gán là đã tự treo cỗ chết trong ngục.? Nhà bác học cũng kể tiếp rằng, thừa hưởng máu Thiệu Trị, Tự Ðức đã giết hại vô số giáo sĩ và giáo dân; Khi tàu Pháp can thiệp và sứ thần Pháp đến, vua và triều thần như câm như điếc, theo gương Bắc Kinh coi mọi người dân nước khác đều là mọi rợ. (Trương Vĩnh Ký, Cours d'histoire annamite à l'usage des écoles de la Basse-Cochinchine, 2e volume. Saigon: Imprimerie du gouvernement, 1879, 251-273) Trong độ 20 trang giấy dành cho 3 triều vua tiếp theo đời Gia Long, tác giả chỉ bàn có bấy nhiêu chuyện, toàn là tội lỗi, của các vị vua, và tuyệt đối không đả động gì đến những khiá cạnh tích cực của các triều đại đó.? Ảnh hưởng của cuốn sử đầy thiên kiến và xuyên tạc đó có thể được phỏng đoán là rất sâu rộng và tai hại cho nhà Nguyễn, vì nó được dùng để dạy học trò Nam Kỳ thời đó, và, theo học giả Pháp Henri Cordier, người giới thiệu cuốn sử thượng thặng của sử gia Pháp Charles Maybon xuất bản năm 1920, thì dân chúng Pháp chỉ biết lịch? sử Việt Nam qua cuốn sách duy nhất đó của học giả họ Trương, ( Charles Maybon, Histoire moderne du pays d'Annam [1592-1820]. Paris Plon, 1920, I, xii) mặc dầu nó không được soạn theo đúng các qui tắc sưu khảo.

 

Trong bối cảnh đó, NVT, với tư cách là một đại quan của Triều Nguỳễn đã kiên cường lãnh đạo công cuộc kháng Pháp cho đến lúc bị Pháp bắt đi đày, dĩ nhiên phải lãnh nhiều mũi dùi xuyên tạc, bôi lọ hơn bất kỳ ai khác.

 

B. Nguyễn Văn Tường và Tân Sở, kinh đô kháng chiến

 

NVT đỗ cử nhân năm Canh Tuất, Tự Ðức thứ 3, 1850 (Cao Xuân Dục, Quốc-Triều Hương-khoa lục.Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Thị Lâm dịch, Cao Tự Thanh hiệu đính và giới thiệu.? Nhà Xuất Bản TP HCM, 1993, 297). Ông bắt đầu cuộc đời làm quan, dài trên 30 năm, cho đến ngày đi đày ở Tahiti vào tháng 9 năm 1885.? Suốt trong thời gian này, dù ở chức vụ nào, NVT luôn luôn tận tụy làm hết bổn phận với vua, với nước. Ông bắt đầu với một chức học quan, huấn đạo huyện Mộ Ðức, tỉnh Quảng Ngãi.? Sau một thời gian ngắn, ông được thăng tri huyện Thành Hóa (vùng Cam Lộ, Quảng Trị), và đã ở lại với vùng hoang địa nghèo khổ này, trước sau, tất cả? 9 năm.? Trong vùng này, người Kinh sống xen kẻ với người Thượng ở những nơi gần núi non hiểm trỡ, và đầy sơn lam chướng khí.? Người Thượng gồm nhiều sắc dân khác nhau, phần đông sống lưu động ngoài vòng kiểm soát của triều đình, và thường xung đột lẫn nhau.? NVT đã đem lại an ninh cho vùng biên giới Lào Việt này, và đã có công chiêu tập các đồng bào thiểu số về khai khẩn đất hoang, qui tụ thành xóm làng đông đúc, phồn thịnh, an cư lạc nghiệp dưới sự kiểm soát và bảo vệ của Triều đình Huế.? NVT đã tận tâm và thành công trong công cuộc khẩn hoang, phát triển thủy nông, mở mang chợ búa, mở ngành nghề, bố phòng an ninh, và chiêu dân lập ấp, nên ông được dân trong vùng tưởng nhớ công đức và thờ phượng, và được vua Tự Ðức khen thưởng nhiều lần. (ÐNTL, XXVIII, 217, 271, 315, 321; XXIX, 48; Trần Viết Ngạc, 'Nguyễn Văn Tường qua châu bản Triều Nguyễn'. Nhóm chủ chiến trong Triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, Kỷ yếu Hội nghị Khoa học, 20-6-1996, Trường ÐHSP TP HCM [sẽ được gọi tắt là HNNVTDHSP96], 209; Ðỗ Bang, 'Góp phần làm sáng tỏ những uẩn khúc trong cuộc đời của nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường [1824-1886]'. Hội thảo khoa học Nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Huế - Ðại học Huế & Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên, 2/7/2002 [sẽ được gọi tắt là: HTNVTHUE02], 23).? Thành tích đó đã được vua minh thị thừa nhận, vì sau khi NVT được thăng thưởng giữ các chức vụ cao hơn, như viên ngoại và biện lý bộ Binh, án sát Quảng Nam, và phủ doãn Thừa Thiên, vua Tự Ðức vẫn bổ nhiệm ông kiêm sung chức doanh điền sứ 2 tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị.? Rồi không lâu sau khi NVT bị cách chức phủ doãn Thừa Thiên năm 1866, vì là quan đứng đầu địa phương mà đã không ngăn chận được vụ loạn giặc Chày Vôi xảy ra trong quản hạt của mình, nhà vua vẫn chuẩn cho NVT làm bang biện huyện Thành Hóa, nơi xưa chốn cũ của ông, và còn ban cấp cho ông ấn Khâm phái quan phòng để được quyền trực tiếp tâu bày lên vua. (ÐNTL, XXX, 51, 98, 148, 156, 186, 226, 287; XXXI, 14, 57, 87)

 

Quả thật, số mạng đã ràng buộc cuộc đời của NVT với vùng Tân Sở, nơi được dự trù làm kinh đô kháng chiến của nhà Nguyễn, dưới danh nghĩa là một căn cứ sơn phòng nằm trong huyện Thành Hóa.? Vua Tự Ðức đã nhận thấy tài năng cũng như lòng tận tụy của NVT từ thời đó và, mặc dầu đã cách chức ông sau vụ giặc Ðoàn Trưng, Ðoàn Triệu [Chày Vôi], vẫn tín nhiệm và giao phó cho ông công tác chiến lược mật về thành Tân Sở. Dự án? Tân Sở đã được manh nha hoạch định từ cuối 1866. (ÐNTL, XXXI, 87) Với tư cách bang biện huyện Thành Hóa, một chức quan nhỏ dưới tri huyện, nhưng với quyền hạn rộng lớn vì có ấn khâm phái để tâu thẳng lên vua, NVT đã giúp thực hiện công tác khẩn hoang vùng Trấn Lao và cơ Ðịnh Man, dùng binh đội nhà Thanh đã đầu thú, và xây dựng con đường thượng đạo từ Tây sơn, Bình Ðịnh đến Trấn Ninh, Nghệ An thông qua Cam Lộ [Tân Sở].Trong lúc đang làm bang biện Thành Hóa, vào đầu năm 1868, NVT được vua sai làm tùy biện cho Hiệp biện đại học sĩ? Trần Tiễn Thành, theo lời xin của vị đại thần này, để cùng đi vào Gia Ðịnh bàn định hiệp ước mới với Pháp, thay hiệp ước 1862.? Ở Gia Ðịnh về ít lâu, ông được đình thần bàn tính cử sung vào làm bồi sứ trong phái bộ ngoại giao do Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Văn Phong cầm đầu để vào Sài gòn và sang Pháp đàm phán chuộc Nam Kỳ. Nhưng dự định này về sau không thực hiện, vi chính NVT đã tâu vua là chưa tiện làm. (ÐNTL XXXI, 184, 202)? Xong công tác ngoại giao, NVT được lệnh trở lại nhiệm sở cũ, bang biện huyện Thành Hóa. (ÐNTL, XXXI, 204, 221) Mãi về sau này, khi NVT không còn làm ở vùng Thành Hóa, công tác xây dựng khu chiến lược Tân Sở vẫn tiếp diễn giữa vua Tự Ðức và NVT.? Vào 1875, với tư cách Hình bộ Thượng thơ, kiêm Cơ Mật Viện Ðại thần và Quản lý Thương Bạc Viện, NVT vẫn theo dõi tình hình tiến triển của công tác sơn phòng Cam lộ để trình lên vua. Trong tờ sớ ngày 20 tháng Giêng năm Tự Ðức 28, 1875, NVT đã trình bày địa hình, địa vật, dân cư, các đường giao thông thủy bộ trong vùng, mực độ khả dụng của sông Khung [Mékong], sông Thạch Hãn, cùng các đường thượng đạo, mà đời trước Nguyễn Huỳnh Ðức đã dùng, từ Nghệ An qua Lạc Hoàn [nơi dân Lào ở, gần Cữu Châu] đến đô thành nước Xiêm La rồi đi về Gia Ðịnh, và đường đi từ An Giang đến Cam Lộ. Ðến gần cuối năm 1868, vua Tự Ðức điều động NVT ra Bắc với chức vụ Tán Tương trong đoàn quân thứ do Ðô Thống Ðoàn Thọ chỉ huy, để dẹp loạn giặc Khách bên Tàu tràn qua, cướp bóc và giết hại dân lành.? (ÐNTL, XXXI, 238) Và NVT đã phục vụ ở chiến trường Bắc Việt, vào sinh ra tử, trong gần 6 năm trời. Ðó là đại cương giai đoạn đầu của cuộc đời hoạn lộ của NVT, với tư cách chính yếu là một hành chánh gia.? Lịch sử thực dân đã nói gì về NVT trong giai đoạn ấy?

 

C. Nguyễn Văn Tường bị cách chức Phủ doãn vì bị tội nịch chức, hà lạm?

 

Trong một cuốn sách xuất bản 1971, căn cứ vào một luận án Tiến sĩ đệ tam cấp của Pháp, tác giả? LM Nguyễn Văn Phong đã nói như sau, khi bàn về nền công lý ở Việt Nam thời Pháp xâm lăng Việt Nam vào cuối thế kỷ 19:

 

" . . . thật rất khó cho vị quan tòa xử đoán trái luật, bởi vì, nếu ông ta đi ra ngoài những gì luật đã định,? ông sẽ có thể bị cấp tài phán trên mình khám phá ra tội lỗi ấy và trừng phạt nặng nề. Ðó là việc đã xảy đến vào năm 1865 cho Nguyễn Văn Tường, vị phụ chánh tương lai của nước Ðại Nam."? (La société vietnamienne de 1882 à 1902 d'après les écrits des auteurs francais. Presses universitaires de France, 1971, 134;, NQT dịch và nhấn mạnh)

 

Ở chú thích 7, trang 134, LM Phong cho biết rằng tin này tác giả lấy từ sách của Ðại úy Ch. Gosselin.? Sách này nói rằng sau một thời gian ngắn làm phủ doãn Thừa Thiên, NVT " bị tố cáo phạm tội nịch chức [accusé de prévarication], cách chức và giáng cấp [révoqué et dégradé]." (L'Empire d'Annam. Paris, Perrin, 1904, 188). Tác giả Gosselin không cho biết tin này bắt nguồn từ đâu, chỉ nói rằng những dữ kiện thu thập được về tiểu sử của NVT đã được chính gia đình của ông Tường xác nhận là đúng, nhất là do một người con của ông. Trong một tiểu sử khác về NVT do ông H. Cosserat dẫn, cũng có chỗ nói tương tự rằng lúc làm phủ doãn, NVT ''bị cách chức, theo lời khiếu nại của dân chúng đã tố cáo ông bất công." [il fut cassé, sur la plainte des habitants qui l'accusait d'injustice.] ("Comment on écrit l'histoire: réception du Colonel Guerrier à la Cour d'Annam le 17 Aout 1884". Bulletin des amis du vieux Hué [sẽ được gọi tắt là BAVH], số 3, 1924, 278, ct. 1).? Tiểu sử này được ông Cosserat trích dẫn nguyên văn từ sách của A. Bouinais và A. Paulus. (L'Indochine francaise contemporaine -? Tome II. Paris: Libr. Maritime et Coloniale, 1885, 273, ct. 1) Và có lẽ ông Gosselin cũng đã lấy từ đó mà không nói ra.? Về chuyện của NVT, sách của Bouinais có nói rõ hơn ở một chỗ khác rằng:

 

"Cũng như ở Cao Mên, nhà vua đón nhận những đơn khiếu nại của thần dân về những sự oan ức do các quan lại hành chánh hay tư pháp gây ra.? Một cái trống được đặt ở trước cửa hoàng thành.? Nguyên cáo chỉ cần đánh trống để các lính canh chú ý, rồi đơn khiếu nại được một tòa án đặc biệt . . . duyệt xét. [ ] Quan xử án nịch chức bị trừng phạt, nhưng người khiếu nại, nếu tố cáo gian, sẽ bị hình phạt roi.? Phụ Chánh Nguyễn Văn Tường đã bị cách chức trong một trường hợp như vậy từ 1865 đến 1867, thể theo lời khiếu nại của dân chúng Huế." (Op. cit., 656, NQT dịch và nhấn mạnh)

 

Người viết những dòng này, Bouinais là? đại úy thủy quân lục chiến, tùy viên võ phòng của Thống đốc Nam Kỳ Ch. Thomson [1883-1885].? Tác giả không cho biết tin này, cũng như mọi tin quan trọng khác, bắt nguồn từ tài liệu tham khảo nào. Tuy nhiên, với tư cách là một công chức cao cấp quan trọng, Bouinais có thể đã lấy tin này từ một bản tiểu sử của NVT do cơ quan mật vụ Pháp soạn thảo, trong đó có chỗ nói sai lạc, một cách cố ý hay vô tình, rằng 'Vào 1866 [NVT] bị tố cáo là bất công và cách chức' [1866 Accusé d'injustice, il est cassé]. (Centre d'Archives d'Outre-mer, Aix-en-Provence, [sẽ được gọi tắt là CAOM], Archives centrales de l'Indochine, Amiraux et Gouverneurs de la Cochinchine, F44, 11785 - Deportation à Tahiti de Nguyen Van Thong [sic], ex-premier ministre de l'Annam, Pham-Tan [sic] - Duat, ex-ministre des finances et Ton That Dinh, père de l'ex-régent Thuyet.)? Ðó là một văn kiện viết tay, cũng như mọi giấy tờ thời đó, trên đầu có ghi là số '7' bằng viết chì, không có tên người hay cơ quan soạn thảo, nhan đề 'Renseignements divers sur le Ministre des Finances de l'Annam Nguyễn Văn Tường . . .' .? Nói chung, thì tài liệu này chứa đựng khá nhiều sai lạc. Ngoài ra, trong sách đã nói, tác giả Bouinais còn tung ra những tin tức khác hoàn toàn vô căn cứ,? dựa vào tin đồn với ác ý xuyên tạc, như: vua Hiệp Hòa hứa hối lộ cho ông Thuyết một số vàng để tranh ngôi với ông Dục Ðức, nên NVT? không tôn Mệ Mến (Kiến Phúc) lên được. Sau vì Hiệp Hòa không đưa vàng cho ông Thuyết, nên mới bị thay bằng vua Kiến Phúc. Lúc đó ông Thuyết mới đồng ý với ông Tường, và 2 bên mới cọng tác với nhau. Có thể vì những lý do Bouinais viết lách cẩu thả như vậy nên Tiến sĩ Charles B. Maybon, người đã viết một cuốn sử đứng đắn và rất có giá trị về Việt Nam dựa trên luận án tiến sĩ của mình, đã nói rõ là mình đã cố ý không ghi nhận các công trình của Bouinais vào số các sách được tham khảo. ['C'est intentionnellement que les ouvrages de Bouinais et Paulus . . . ne sont pas cités ici'] ( Maybon, op. cit., xii, ct. 1). Tác phẩm này của Maybon là một công trình xuất chúng, soạn đúng theo các qui tắc sưu khảo khoa học, viết đứng trên lập trường quyền lợi của nuớc Việt Nam, và dựa trên một kho tàn tài liệu vô song, bao gồm không những tài liệu của văn khố Pháp, của các thừa sai Pháp và ngoại quốc, mà còn của Ðông phương, Tàu, Nhật, và nhất là của phía Việt, bao gồm cả cả Ðại Nam Thực Lục, Tiền biên, và Chính biên bằng chữ nho.

 

Nói tóm lược lại, mới đây, năm 1971, LM Nguyễn Văn Phong nói rằng NVT đã bị cách chức vì phạm tội hà lạm, dựa theo sách của Gosselin; ông này không cho biết tin này xuất xứ từ đâu. Ðồng thời, năm 1924, tác giả Cosserat cũng đưa ra tin tương tự, dựa vào sách của Bouinais, xuất bản 1885. Sách này chỉ nói khống vậy thôi, chứ không viện dẫn nguồn gốc xuất xứ của tin tức đó, mặc dầu Bouinais có thể đã dựa vào hồ sơ mật vụ.?? Cách viết người này dựa theo tin người kia, mà rút cục không dựa trên một nguồn gốc nào đáng tin cậy cả, rất thông thường giữa các tác giả Pháp thực dân. Do đó, tin về NVT vừa kể, tự nó đã thiếu hẵn cơ sở, vì dưạ vào một dữ kiện với xuất xứ không rõ ràng, được lấy từ một cuốn sách viết với mục đích tuyên truyền, và không đáng tin cậy.

 

Ðó là tin tức dựa trên sử sách Pháp.? Còn về phía Việt Nam thì sao? NVT là một vị đại quan của nhà Nguyễn, và mọi việc quan trọng liên quan đến NVT có thể được ghi chú trong quốc sử, người viết thấy cần đi xa hơn nữa trong việc phối kiểm tin này, nên đã tra cứu chính sử nhà Nguyễn, là bộ Ðại Nam Thực Lục Chính biên [ÐNTL].? Bộ sử này, bằng chữ Hán, với một sự phổ biến rất hạn chế dưới thời Pháp thuộc, may thay đã được dịch ra Việt ngữ xong năm 1978.? Theo bộ chính sử này thì có một việc như sau xảy ra vào năm Tự Ðức 17, 1864:

 

"Vua cho là hiện nay dân lương, đạo khích nhau, kinh ấp Thừa-thiên, Nghệ-an hạt lớn, cần được người giỏi để hiểu bảo cho yên. Bèn cho Ngụy Khắc Ðản [biện lý] lãnh bố chính sứ Nghệ-an [nguyên bố chánh là Ðoàn Văn Hội đổi vào làm biện lý Bộ Binh] Nguyễn Văn Tường [biện lý] lãnh chức phủ doãn [nguyên phủ doãn là Trần Tiến Thọ can dân kiện ở ngoài đợi xét]" (ÐNTL, XXX, 97-8, NQT nhấn mạnh)

 

Việc bổ nhiệm này cũng được tác giả Trần Huy Thanh, ở nhà Bảo tàng Huế, tường thuật với đầy đủ chi tiết hơn. Theo tác giả này thì trong lúc người Pháp chiếm các tỉnh miền Ðông Nam Kỳ và lăm le chiếm các tỉnh miền Tây, và đồng thời thổ phỉ, giặc biển hoành hành ở Bắc,

 

"tình hình chính trị, kinh tế xã hội của phủ Thừa Thiên ngày càng xấu đi là điều quan ngại lớn nhất của triều đình Huế. Từ tháng 11.1862 đến tháng 6.1865 . . ., triều đình đã

5 lần thay Ðề đốc kinh thành. Phủ Doãn Thừa Thiên Trần Tiến Thọ vừa mới lãnh chức đầu năm 1864 thì làm việc không có hiệu quả, bị dân kiện đang đợi xét xử.? Trước sự yếu kém bất lực của các quan thân văn võ đầu phủ, vua Tự Ðức cảm thấy bất an, lo lắng.? Tháng 6/1864, vua . . . muốn triệu danh tướng Nguyễn Tri Phương đang bình định miền Bắc về kinh gấp nhưng Nguyễn Tri Phương tâu nói vùng biển chưa yên ổn chưa thể về được. . . . Môt tháng sau đó, tình hình cấp bách hơn, dân lương, giáo tiếp tục đố kị, khích bác nhau. Vua cho kinh ấp Thừa Thiên là hạt lớn, cần được người giỏi để hiểu bảo cho yên, đã quyết định cử Nguyễn Văn Tường đang làm Biện Lý bộ Binh sung chức Phủ Doãn Thừa Thiên, năm ấy Nguyễn Văn Tường tròn 40 tuổi. Vua . . . chọn cử Nguyễn Văn Tường . . . vì nhà vua đã từng biết đến năng lực của? . . . Tường khi làm Tri huyện huyện Thành Hóa [Cam Lộ, Quảng Trị] trong thập niên 50, nay trước yêu cầu đòi hỏi 'cần người giỏi' . . . Tường đã có đủ điều kiện để vua Tự Ðức tin tưởng giao cho trọng trách mới." ('Nguyễn Văn Tường trong thời gian làm Phũ Doãn Thừa Thiên'. HTNVTHUE02, 85-6, NQT nhấn mạnh)

?

Như vậy là NVT đã bị gán cho cái tội của người mà mình thay thế là nguyên phủ doãn Trần Tiến Thọ, rồi tin tức về tội được ngụy tạo, cố ý hay vô tình đó, cứ tiếp tục được loan truyền từ đời này qua đời kia qua những cuốn sách viết theo lối tài tử nói trên, phần lớn với mục đích tuyên truyền xuyên tạc.? Việc đáng lưu ý là tên tuổi ông Trần Tiễn Thọ, trước và sau lúc đó không còn thấy trong bộ chính sử nữa.? Có lẽ là phạm một tội như vậy là cuộc đời hoạn lộ coi như chấm dứt.? Và nếu quả thật NVT có bị tội đó, thì sẽ không có bài viết này.? Dù sao, một cái tội bịa đặt như thế, in trên giấy trắng mực đen của một bộ sách gồm 2 tập đồ sộ của 2 tác giả Pháp, một là viên chức thuộc địa cao cấp, một là giáo sư,? cũng đủ làm cơ sở, mặc dầu là một cơ sỡ hoàn toàn sai lạc, cho sử gia Trần Trọng Kim và biết bao sử gia khác mạt sát NVT là 'tham lam'? hay 'gian xảo'.

 

D. Nguyễn Văn Tường bi cách chức 'nhục nhã' ?!

 

Cùng liên quan đến vấn đề này, một tác giả khác, LM? H. de Pirey, dựa vào sự phỏng ?vấn tại chỗ dân các làng vùng Tân Sở vào 1914, đã kể như sau:

 

" . . . Nguyễn-Văn-Tường, lúc đó đang giữ chức vụ phủ doãn, vì phạm lỗi nặng bị vua Tự Ðức giáng cấp và đổi đi Quảng Trị một cách nhục nhã.? Ông đã quị lụy chấp nhận con đường đi đày, khẩn cầu vua và các vị quan lớn tha tội cho, vì mình đã chịu qui phục và tuân hành thượng lệnh một cách sốt sắng, và cho phép ông được phục hồi chức vụ và cấp bực cũ.? Ông đã hạ mình và nịnh hót khéo đến nỗi mà ông chiếm được tước vị Khâm Phái, và cũng chính vào thời kỳ ấy ông tập hợp tất cả các kế hoạch mà ông sẽ thực hiện sau này ở Tân Sở, một căn cứ do một mình ông cổ súy và kiến trúc.? Ông đã xin được vua cho ân xá các tù phạm bị đày ở Ai Lao, biến họ thành tay chân và đồng lõa với mình, và cùng họ lập nên làng Tự Tân, một danh từ có nghĩa là tự cải hóa.? Các làng Tân Ðịnh và Tân Mĩ cũng ở vào thời kỳ ấy và thành lập như vậy.'' ("Une capitale éphémère: Tan-So". BAVH, số 3, 1914, 217, NQT dịch và nhấn mạnh)

 

Sau khi? phác họa sơ đồ Tân Sở theo như trước khi căn cứ này bị Pháp hũy diệt; tường thuật cuộc hành trình của vua Hàm Nghi từ Huế ra Quảng Trị, và mô tả cuộc hành quân chiếm đóng và hũy diệt Tân Sở của quân đội Pháp, với sự tham dự của các LM Mathey và Patinier; và nhấn mạnh đến việc lính Pháp đã thận trọng tránh con đường rất nguy hiểm là đường Ðèo Ðại Bác (Col des Canons) mà NVT đã xây đắp khi còn làm tri huyện Cam Lộ, tác giả kết luận:

 

"Tuy nhiên, hình như là càng ngày ta càng có thể chắc chắn thêm (il semble de plus en plus certain) là các cố gắng khổng lồ nói trên không nhằm mục đích cứu vua cứu nước, mà chỉ là một phương kế do lòng tham lam của Nguyễn Văn Tường chế ra, hầu gia tăng tài sản của y cũng như của gia đình y.? Trong tất cả tổng Mai Lộc, mọi người đều nhất trí khẳng định rằng Tân Sở chỉ được lập ra với một mục tiêu thầm kín duy nhất là loại bỏ nhà vua và Tôn Thất Thuyết, để cho chính con của y lên ngôi, và làm việc đó, nếu cần với sự hậu thuẫn của nước Pháp. [ ] Ðó là sự phán đoán của giới người thấp hèn.? Ðúng hay sai? Tôi không thể trả lời được. Dù sao, khi mà sử sách đi đến một sự quyết đoán dứt khoát về con người này, mà nước Pháp đã đem lưu đày rồi chết ở đó, sử sách ấy cần phải đếm xỉa đến ý kiến của những người đã thấy ông Tường ra tay, và đã bị đau khổ vì chính sách của ông ta. " (Ibid.,? 220, NQT dịch và nhấn mạnh)

 

Với tác giả này, phương pháp xuyên tạc tế nhị hơn, không ngụy tạo mà chỉ bóp méo sự kiện và gán cho hành động xây dựng Tân Sở của NVT những động cơ xấu xa, như để vinh thân, phì gia, cướp ngôi, phản bạn, phản vua, phản nước.? Về tội đưa đến cách chức, tác giả không nói rõ là tội gì, chỉ nói là lỗi nặng rồi thêm vào là NVT bị 'giáng cấp và đổi đi một cách nhục nhã' , rồi . . '.quị lụy'? . .'khẩn cầu', '. . .nịnh hót khéo léo' để . . . 'phục hồi chức vụ và cấp bực cũ' . . . tất cả đều do dân quê được tác giả phỏng vấn nói là 'hình như'? có xảy ra, mà chính tác giả cũng công nhận là mình không thể bảo đảm? sự hư thực. Trước hết, về cuộc phỏng vấn tại chỗ làm căn bản cho bài khảo luận của mình, tác giả không nói gì về số người được phỏng vấn là bao nhiêu so với số dân toàn vùng, thành phần lương, đạo, Kinh, Thượng nhiều ít như thế nào, tác giả hỏi họ những câu gì, họ trả lời tự do hay theo một khuôn mẫu nào.? Tác giả chỉ nói ám chỉ như là mình đã phỏng vấn tất cả mọi người, không trừ một người nào, và họ đều trả lời đồng loạt như nhau cả, với những câu xác quyết như:

 

' 'Ðó là những tin tức mà họ cho tôi hay mà tất cả dân chúng ai ai cũng biết cả." (t. 219); hay "Tất cả mọi người trong tổng Mai Lộc, không trừ một người nào, đều khẳng định rằng . . ." (t. 220)

 

Dụng ý xuyên tạc của tác giả có thể được nhận thấy ngay, vì tác giả đã tự mâu thuẫn với chính mình. Thật vậy, một mặt, vị linh mục đã nói rằng trong số người được phỏng vấn phần lớn đã có tham dự vào biến cố 1885, tức đã là 'tay chân và đồng lõa' của NVT trong việc thành lập các làng Tự Tân, Tân Lập và Tân Mĩ, mặt khác, lại nói rằng tất cả mọi người? tay chân đồng phạm đó đều mạt sát NVT cả.? Trong lúc đó thì các tác giả tại địa phương Cam Lộ, Quảng Trị, dựa vào gia phả gia đình NVT, lại nói rằng dân làng ngày nay còn ghi công đức và lập miếu thờ NVT, như đã nói trên.? Như vậy, ít nhứt cũng phải có một số nhỏ người được phỏng vấn không chê trách NVT. Ngay trong những chế độ độc tài nhứt trên thế giới, người ta cũng chỉ lấy đến 99% cho phe mình và chừa 1% cho phe nghịch!

?????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????????? ?????????????????Một thủ đoạn khác của tác giả là chỉ nói NVT 'phạm lỗi nặng? bị. .? đổi đi. . .một cách nhục nhã' mà không giải thích rõ là lỗi gì. Sự thực thì NVT đã bị cách chức phủ doãn Thừa Thiên là vì đã không ngăn ngừa được loạn Chày Vôi xảy ra trong quản hạt cai trị của mình, một tội không cố ý và? không có gì là xấu xa cả.? Nếu nêu rõ tội ấy ra, tác giả không thể nói là NVT bị đổi đi 'một cách nhục nhã' để bôi lọ ông này được.? Mà nếu nói? rằng NVT bị cách chức vì bị dân Thừa Thiên kiện về tội hà lạm như Bouinais đã nói ở trên, thì không đúng, nên tác giả cố ý nói vắn tắt như vậy để 'mập mờ đánh lận con đen.'????????? Thật vậy, trong vụ này, Ðoàn Trưng và đồng bọn âm mưu giết vua Tự đức và đem Ðinh Ðạo [Ưng Ðạo], con của anh vua là Ðinh Bảo [Hồng Bảo], lên ngôi.? Loạn quân đã xâm nhập được vào hoàng thành và hăm dọa tính mạng vua trước khi bị dẹp. Ðinh Ðạo bị thắt cổ ngay cùng với mẹ, vợ, và các con trai.? Tất cả những người liên can đều bị tội nặng nhẹ theo thứ bậc, lăng trì, bêu đầu, uống thuốc độc, chém đầu, thắt cổ.? Vua giận cho là các quan không biết đề phòng trước, nên trừng phạt một số khá đông các viên chức có trách nhiệm trực tiếp trong việc bảo vệ an ninh.? Trong số này, các quan quản hạt nơi xảy ra vụ loạn, Phủ doãn NVT cùng với phủ thừa, tri huyện Hương Thủy đều bị cách chức, nhưng được cho gắng sức làm việc chuộc tội.? Thực ra NVT có phái người dò xét nhưng không khám phá ra âm mưu đảo chánh, vì phe làm loạn đã dùng chỉ dụ giả mạo của vua để hợp thức hóa các hành động chuẩn bị phi pháp của mình. (ÐNTL, XXXI, 53-7; Giá sơn Kiều-Oánh-Mậu, Bản triều bạn nghịch liệt truyện. Sài gòn:Tủ sách viện Khảo-cỗ, Bộ Quốc-gia Giáo-dục, 1963 40a, 42b). Các hình phạt loại này xảy ra rất thông thường dưới triều Nguyễn thời đó. Ông Nguyễn Tri Phương, chẳng hạn, đã có biết bao chiến công, lên đến chánh nhứt phẩm võ giai, phong tước Tráng Liệt Bá, nắm giữ những chức vụ tột đỉnh trong nền hành chánh, như Lại bộ thượng thư, nhưng khi thua trận đã có lần bị xử trảm giam hậu [sự thi hành án đợi vua xét sau] và cho cố gắng lập công chuộc tội để phục hồi chức cũ.? Sau khi thành Hà Nội mất vào tay Francis Garnier, ông đã tuẫn tiết một cách oanh liệt như sử sách đã ghi.? Mặc dầu vậy, vua Tự Ðức vẫn phải chiếu theo phép công, xử ông về tội làm tướng mà để mất thành, phải cách mất chức hàm, bị án xử trảm giam hậu mãi mãi [vì đã chết], rồi cho truy phục Binh bộ tả tham tri, và được giữ tước bá. (ÐNTL, XXXIII, 63-4) Trong thời gian phục vụ ở Bắc với tư cách tán tương, NVT cùng với Võ Trọng Bình cũng đã bị cách chức vì đã để mất thành Lạng Sơn vào tay giặc, và được cho cố gắng lập công chuộc tội.? Ðô Thống Ðoàn Thọ bị giặc giết trong trận này, và 2 ông Bình và Tường được khởi phục một phần chức tước sau khi thu hồi lại được thành Lạng Sơn.

 

Việc NVT được vua bổ nhiệm làm bang biện Thành Hóa, theo chính sử nhà Nguyễn, là vì lý do hoàn toàn công vụ, nghĩa là để thực hiện một kế hoạch lâu dài thầm kín? dùng Tân Sở làm kinh đô thứ hai khi cần đến như đã kể trên, chứ không phải do lời quị lụy cầu khẩn của NVT như LM De Pirey đã nói.? Thật vậy, chính sử kể rằng, sau khi vua Tự Ðức chấp thuận ý kiến của viện Cơ mật, là không nên gây hoang mang nghi ngờ bằng cách dùng quân đội đóng đồn ở Ba Xuân gần xứ Cao Man [cách Tân Sở một ngày đường], mà chỉ nên dùng biện pháp êm dịu bằng cách từ từ chiêu dụ dân Man vùng ấy, hầu thi hành kế sách lâu dài,

 

"Vua bảo rằng: trước Nguyễn Văn Tường cũng xin nhận làm việc ấy, tất phải làm theo lời nói, chuẩn cho làm bang biện huyện Thành Hóa để làm việc, cấp cho ấn khâm phái quan phòng cho được tự ý tư tâu." (ÐNTL, XXXI, 87)

 

Ngoài ra, nói chung mối tương quan giữa vua Tự Ðức và NVT có dựa trên sự nịnh bợ, quị lụy,và khúm núm của NVT như vị linh mục khẳng định hay không?? Hai sử gia đã trả lời câu hỏi này, dựa vào các bản tấu sớ của NVT trình lên vua,? với lời phê của vua Tự Ðức trên đó. Trong một bài khảo luận mô tả lòng ái quốc của NVT qua thi văn còn lại trong số di cảo của vị phụ chánh, tác giả Trần Ðại Vinh đã đề cập đến bản tấu, đề ngày 27 tháng 10 năm Tự Ðức thứ 27, 1874 của NVT lên vua Tự Ðức, "biểu lộ đức tính dũng cảm, trung thực, dám nói những điều có thể đụng chạm đến lòng tự ái của vua." ("Tấc lòng yêu nước son sắt của Nguyễn Văn Tường".? HNNVTDHSP96,? 39-40, NQT nhấn mạnh).? Một tác giả khác, Giáo sư sử học Trần Viết Ngạc, sau khi phân tích các bản tấu sớ nói trên, đã viết rằng:

?

"Quan hệ giữa vua Tự Ðức - Nguyễn Văn Tường, trên thực tế vượt xa quan hệ Vua - Tôi. Vua Tự Ðức rất tin dùng Nguyễn Văn Tường, có thể bàn bạc với Nguyễn Văn Tường mọi băn khoăn, mọi suy nghĩ của mình.? Ngược lại Nguyễn Văn Tường có thể nói thẳng với nhà Vua những ý nghĩ của mình về việc và về người liên hệ đến vận mệnh đất nước mà không ngại Vua sẽ bắt lỗi bất kính, là phạm thượng.? Vua gọi cuộc gặp gỡ ấy là tri ngộ, tôi gọi đó là hạnh ngộ." (''Tìm hiểu thêm về Nguyễn Văn Tường [1824-1886]". HTNVTHUE02, 11, NQT nhấn mạnh)

 

II. Nguyễn Văn Tường âm mưu tiếm ngôi vua?

 

A. Loại trừ các vua nhà Nguyễn để lập con mình lên ngôi?

 

Về việc NVT có ý định tiếm ngôi vua cho con mình, hay cho chính mình chỉ là kết quả của sự suy diễn có ác ý của LM De Pirey cũng như của nhiều tác giả thực dân khác, dựa vào sự bóp méo các sự kiện. Thật vậy, nhận thấy hai ông phụ chánh, lãnh đạo phe chống Pháp, loại các vua thân Pháp là Dục Ðức và Hiệp Hòa, phe thực dân và Việt thân Pháp tung tin đồn rằng hai ông đều giết luôn vua Kiến Phúc, để rồi tranh dành nhau ngôi vua, hay quyền lực. Mặt khác, vua Tự Ðức có dàn xếp cho cháu mình, là Công Tôn Nữ Như Khuê, chị ruột cùng mẹ của vua Kiến Phúc và vua Ðồng Khánh, lấy người con thứ tư của NVT là Nguyễn Văn Tộ. Bà này thường được gọi là Công chúa Ðoan Thuận, hay bà Chúa Nhì.? Qua sự liên kết này, theo ý kiến của nhiều sử gia, vua Tự Ðức có dụng ý khuyến khích NVT ủng hộ hoàng tử thứ 3, là vua Kiến Phúc sau này, người mà Vua hy vọng, khi lớn lên, sẽ có đủ tài đức để kế vị ngài. Việc này cũng có thể đưa đến những lời đồn rằng NVT âm mưu cho con mình là phò mã, anh rể của vua Kiến Phúc, lên thay Vua.

 

Mặt khác, chánh sách thuộc địa quen thuộc của Pháp là chia để trị, bằng cách dùng hoàng thân hay quan lại thân Pháp để kềm chế hay thay thế vua quan chống Pháp.? Ở Cao miên, chẳng hạn, nhà cầm quyền Pháp không ngần ngại ép buộc vua Norodom phải vâng lời mình bằng cách hăm dọa sẽ đưa một người theo Pháp, em khác mẹ của vua, là Hoàng thân Sisowath lên thay. Sisowath kế vị Norodom, làm cho các con của Norodom là Yucanthor và Mayura phải đi đày. Và Sisowath lại càng phải làm tay sai cho Pháp đắc lực hơn nữa, để bảo đảm cho con là Monivong được Pháp cho kế vị mình.? (Osborne, Milton E., The French presence in Cochinchina and Cambodia; Rule and Response [1859-1905]. Ithaca, NY: Cornell University Press, 1969, 270-286; Chandler, David P., A History of Cambodia. Boulder, San Francisco, Oxford: Westvìew Press, Allen & Unwin, 1992, 142-138) Người Pháp cũng có thể đưa một phụ chánh lên làm vua, nếu ông này chịu làm tay sai cho họ, như họ đã làm khi xâm chiếm Tahiti, chẳng hạn.? Ở đây, vị nữ hoàng thân Anh đã bị truất phế và thay thế bằng một vị phụ chánh theo Pháp vào 1845. (Cady, John F., The Roots of French Imperialism in Easter Asia. Ithaca, New York: Cornell University Press, 1954, 31, ct. 8)? Chính Khâm sứ Rheinart cũng có lần đề nghị với ông Thuyết để ông này lên thay vua Hàm Nghi, như sẽ bàn sau.

 

Về phần NVT, còn có tin đồn nói rằng ông là con rơi của vua Thiệu Trị, và người Pháp có ý muốn dụ dỗ ông, để cho ông hay con ông, lên làm vua, nếu chịu theo họ. Câu chuyện bắt đầu năm 1842, khi ông mới 18 tuổi, đi thi và đậu tú tài. Nhưng vì lúc đó ông lấy tên là Nguyễn Phúc Tường, họ nhà Nguyễn, nên bị vua Thiệu Trị, khi duyệt danh sách thí sinh trúng tuyển, đánh hỏng và phạt tội đồ một năm, suốt đời không được đi thi. (ÐNTL,? XXIV, 163-165;Trần Viết Ngạc, 'Tìm hiểu? thêm về . . .'. HTNVTHUE02, 9) Từ đó có tin thêu dệt ra là lúc vua Thiệu Trị còn là hoàng tử đi theo vua Minh Mạng tuần du Quảng Trị, có ăn nằm với một cô gái. Cô này sau sinh ra NVT mà hoàng tử không biết. (Nguyễn Ðắc Xuân, Hương Giang cố sự. Tủ sách Sông Hương, 1986, 46, dẩn do Ðỗ Bang, 'Góp phần . . .'.HTNVTHUE02, 22, ct. 6). Vào 1850, 8 năm sau, NVT được vua Tự Ðức đặc cách cho thi lại, và đỗ cử nhân rồi bắt đầu cuộc đời làm quan.? Trong các bản tấu của NVT dâng lên vua Tự Ðức, như Nam kỳ tấu nghị số 15, NVT thường nhắc nhở đến 'ơn đại tạo tác thành ' đó của vua; và trong bản tấu ngày 20-6 Tự Ðức 26, vua có châu phê: 'Và mạng của ngươi cũng oái oăm, mới vào thi thì đã khổ, bể hoạn cũng chìm nổi, đáng thương thay! . . . Lại như ngươi lúc thiếu niên, có chuyện bất bình, do kêu được thì sáng tỏ . . ..'? (Trần Viết Ngạc, ibid., 9, ct. 7). Như vậy là vua cho thi lại theo lời kêu xin của NVT, nhưng không có tài liệu nào khác cho biết rõ vì sao NVT đã dùng họ Nguyễn Phúc. Lý do sau đây có thể được phỏng đoán từ tài liệu gia phả trong đó có ghi: 'Công sinh nhi phong tư tú dị . . . Ngài sinh ra phong tư đẹp đẽ khác thường. Một thuật sỹ người Tàu cho rằng tương lai rất quý và khuyên gia đình nên chăm lo học hành cho cậu bé.' ( Ibid., 8, ct. 2) Có lẽ? cha mẹ NVT cho đó là một điềm phúc nên đổi tên lót là chữ 'Văn' thành chữ 'Phúc' để cho NVT đi thi cho may mắn hơn, và vô tình không biết đó là phạm tội tiếm dụng quốc tính.? Riêng NVT cũng không thổ lộ một điều gì cho phép ta đoán định cụ thể về vấn đề này. Trái lại, ông đã tỏ ra rất hãnh diện với dòng họ mình.? Sau khi phân tích các gia phả họ Nguyễn, chi Nguyễn Văn ở làng An Cư, quê quán của NVT cũng như ở Ðồng Hà và Huế, TS Ðỗ Bang cho biết rằng NVT:

 

"là người duy nhất trong họ này đã có lúc lấy lót chữ Phúc để nộp quyển cho trường thi, còn trong gia phả vẫn ghi chữ Văn. [ ] Dòng họ này lúc đầu lót chữ Thế [Nguyễn Thế . . .] đến đời thứ 5 lại lót chữ Văn. Nguyễn Văn Tường là đời thứ 7; gia phả ghi là Nguyễn Văn Tường. Chính ông vào lúc làm Thượng Thư bộ Hình, sung Cơ Mật viện đại thần, ông đứng tên Nguyễn Văn Tường để soạn bản gia phả của dòng họ mình với lời đề từ rất trân trọng: 'Họ Nguyễn ta từ lúc đến đây lập nghiệp sinh tụ ngày càng đông thành một họ lớn trong làng. Cũng nhờ phúc ấm của tổ tiên mà phái ta trở thành một chi phái lớn ở trong họ . . .' [ ] Theo gia phả, Nguyễn Văn Tường là con trai trưởng của ông Nguyễn Văn Dậu, sinh năm Mậu Ngọ [1798], chết năm Giáp Tý [1864] và bà vợ chánh tên là Liên . . . Bà Liên sinh được 3 người con trai, con đầu là Nguyễn Văn Tường và các em Nguyễn Văn Ðộ, Nguyễn Văn Phức và 5 người con gái. Ông Nguyễn Văn Dậu còn có hai bà vợ thứ tên là Cảnh và Vệ. [ ] Nguyễn Văn Tường có 7 bà vợ và 19 người con. [ ] Với trách nhiệm trước gia tộc trong việc tu soạn gia phả dòng họ của mình và với quyết tâm làm rạng rỡ dòng họ Nguyễn Văn, Nguyễn Văn Tường là một người con ưu tú của họ Nguyễn ở An Cư, Quảng Trị." (Ðỗ Bang, 'Góp phần. . .'. Ibid., 22-3, NQT nhấn mạnh)

 

Những tin tức dựa trên chính sử và gia phả này cũng khá đủ để đính chính những tin lưu trữ trong văn khố Pháp, như? sở dĩ NVT không được phép đi thi lúc đầu là vì tội của cha ông, một người thợ mộc, đã có liên can đến một vụ nổi loạn. (AOM Aix, Amiraux 12774, dẫn do Tsuboi, op. cit., 234). Về nghề nghiệp của thân sinh NVT, các tác giả Pháp người thì cho là thợ mộc, như đã nói, người thì cho là thợ rèn. (Masson, op. cit., 119). Có người khác lại cho là chài lưới, hay chèo đò.? Gia phả? nói là 'ông lúc nhỏ, nhà nghèo nhưng ham học và có tiếng học giỏi.'? Cha NVT có 3 vợ và 12 con, 6 gái và 6 trai, nên "Gia cảnh 'hàn vi' là vì nhiều miệng ăn, chứ chẳng phải là không có nhà cửa, ruộng đất. Có lẽ vì vậy mà trong sáu con trai chỉ có Nguyễn Văn Tường được ăn học đàng hoàng và đỗ đạt."? (Trần Viết Ngạc, 'Tìm hiểu...'. HTNVTHUE02, 8)

 

Mặc dù lý do tại sao NVT dùng họ nhà vua có thể chỉ là do một sự ngộ nhận, nó có thể đã được khai thác để đưa đến tin đồn NVT là 'con rơi của vua Thiệu Trị '? hầu gia tăng sức mạnh của lời tố cáo, xuyên tạc rằng vì là con vua, nên NVT muốn tiếm ngôi vua.? Dù sao chăng nữa, không thấy có một dấu hiệu gì chứng tỏ là NVT đã có ý tranh dành ngôi báu cho chính mình hay cho con mình. Ngoài ra, hai ông bà Phò mã Nguyễn Văn Tộ và Công chúa Như Khuê, cũng như mọi người con và dâu khác của NVT, đều sống ẩn dật, từ đầu đến cuối, không có ai tham gia việc triều chánh, và không có mảy may một bằng chứng gì là họ âm mưu, hay ham muốn làm vua làm chúa gì hết.

 

Ðáng bàn hơn là chuyện NVT âm mưu loại Tôn Thất Thuyết, và chuyện vua Hàm Nghi, cũng theo lời LM De Pirey trong bài đó, đã bị ông Thuyết ép buộc đi theo mình, và bắt để cái đầu lại khi vua đòi về.? Theo tác giả Pirey, những chuyện này là do 'Ông-Xã Bình'? kể lại cho mình nghe, và ông này, ở làng Hà Mỹ, là một người lính đi theo đoàn ngự đạo của vua Hàm Nghi từ Huế ra Quảng Trị. (Pirey, ibid.,. 214-5)? Ngoài ra, còn có việc ông Thuyết, không những ép vua đi, mà còn cho người về đốt nhà NVT, như LM Delvaux đã kể. ( 'Quelques précisions sur une période?? troublée de l'histoire d'Annam' BAVH, số 3, 1941, 267)??? Vì tài liệu dùng để phối kiểm, lượng giá mức độ khả tín của các nguồn tin này phần nhiều dựa vào sử liệu chính thức của nhà Nguyễn, nhứt là bộ chính sử, Ðại Nam Thực Lục Chính Biên, người viết xin dành đoạn sau đây để bàn về giá trị bộ sử này, trứớc khi nói tiếp về sự hư thực của các câu chuyện do quí vị linh mục Pháp đưa ra.

 

B.? Bộ sử: Ðại Nam Thực Lục Tiền biên và Chính biên

 

Viết sử là một công tác truyền thống của nền văn minh Á Ðông nói chung, và Việt Nam, nói riêng. Nhà Nguyễn lại còn đặt nặng công tác làm sử hơn các triều vua trước. Trụ sở của Quốc sử quán, cơ quan có nhiệm vụ soạn sử, được vua Minh Mạng cho xây cất trong thành nội Huế năm 1821.(Boudet, Paul, "Les archives des empereurs d'Annam et l'histoire annamite". BAVH, số 3, 1942, 229-238)? Vua Thiệu Trị cho xây thêm một số dinh thự vào 1844, và vua Tự Ðức cho xây dựng một nhà in vào năm 1849.? Nhiệm vụ của Quốc sử quán là thu thập mọi tài liệu, dữ kiện để đúc kết viết ra thành sử của bản Triều. Loại sử liệu chính mà các sử quan dùng trong công tác viết sử là các châu bản bao gồm: các bản tấu, sớ của các đình thần từ các bộ, viện, hay các địa phương dâng trình lên và đã được vua duyệt phê, cũng như các sắc, dụ, chiếu, chỉ do vua ban hành, và những văn kiện ngoại giao, công văn, phúc trình, hoặc sổ sách kê khai, v. v. .? Các văn kiện này thường có ghi lời phê của vua bằng một loại mực đặc biệt, chỉ một mình vua dùng.? Bản chánh của các châu bản này được lưu trữ ở Nội Các, tức văn phòng của vua, một bản sao được chuyển đến bộ, viện liên hệ, và một bản sao thứ hai được gởi đến Quốc sử quán để viết thành quốc sử. (Cục Lưu Trữ Nhà Nước,? Ðại Học Huế, Trung Tâm Nghiên Cứu Việt Nam và Giao Lưu Văn Hóa, Mục Lục Châu Bản Triều Nguyễn, Tập II, Năm Minh Mệnh 6 [1825] và 7 [1826].? Nhà Xuất bản Văn hóa Hà Nội, 1998, iii - v, xi - xix) Cuốn sử do Quốc sử quán viết ra được gọi là Ðại Nam Thực Lục, gồm có 2 phần: phần Tiền Biên nói về thời các Chúa Nguyễn, và phần Chính Biên nói về thời các vua nhà Nguyễn từ Gia Long đến Ðồng Khánh [1889].? Riêng phần Chính Biên đã được Viện Sử Học phiên dịch và Nhà Xuất Bản Khoa Học Hà Nội ấn hành từ 1962 đến 1978, và gồm có 38 tập, mỗi tập trung bình khoản 350 trang giấy khổ nhỏ [18.5 x 13.5 phân tây]. Bộ Thực Lục và bản dịch có ghi thêm các mục lục về tên riêng, sự kiện, và tư liệu làm cho cuộc tra cứu được bội phần dễ dàng. (ÐNTL, XXXV, 261-412; XXXVIII, 159-381)

 

Bộ Thực Lục được ghi chép theo lối biên niên, nghĩa là trình bày từng sự kiên xảy ra hằng ngày theo lối nhật ký một cách khá trung thực. Theo nguyên tắc, sử quan chỉ trình bày sự kiện, mà không suy diễn, phê bình, phân tích hay tổng hợp gì hết.? Vì vậy, tài liệu đầu tay (document de première main) này, ghi chép sử dùng tài liệu gốc là châu bản, có thể được xem như là chưa hay ít bị thay đổi méo mó nhất. Quả nhiên, so với bộ Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện, cũng do Quốc sử quán soạn, nhưng theo lối tổng hợp để nói về từng nhân vật liệt sĩ, mực độ trung thực của bộ Thực Lục cao hơn nhiều. Sự trung thực càng được bảo đảm hơn nữa khi các sử quan phải tuân theo một số 'phàm lệ'? tức qui tắc để viết, và các qui tắc này phải được ghi lại trong bộ sử liên hệ.? "Phàm lệ về Ðại Nam Thực Lục Chính Biên Ðệ Tứ Kỷ"? nói về triều Tự Ðức, chẳng hạn, gồm có 25 điều mà sử quan phải tuân theo một cách chặt chẽ. Ví dụ: Khi chép việc thì dùng tháng theo mùa, dùng mùa theo năm, việc lớn thì phải chép thêm ngày; Các chiếu nào ngự chế ra, viết bằng bút son, thì phụng chép vào văn tập, hoặc chép toàn bài, hoặc chép sơ lược tùy việc; Những chương sớ quan hệ đến chính trị to lớn thì chép, điều nhỏ mọn thì lược bỏ đi; Những địa phương gặp biến cố như lụt lội, nắng hạn, tật dịch mà có chỉ của Vua giải quyết thì chép. (ÐNTL, XXVII, 17-21). Môt bảo đảm khác cho sự ghi chép trung thực là việc soạn sử được giao phó cho một toán rất đông các quan lại phụ trách, nhờ đó một phần nào có sự hổ tương kiểm soát.? Bộ Thực Lục Ðệ Tam Kỷ? nói về triều Thiệu Trị, chẳng hạn, do 94 vị sử quan biên soạn, gồm? 3 tổng tài, 6 phó tổng tài, 15 toản tu, 21 biên tu, 14 khảo hiệu, 8 đằng lục, 17 thu chưởng, sau còn bổ túc thêm 10 người nữa, chia cho mọi chức vụ. Khởi công vào 1849, công tác này được hoàn thành năm 1877 và toàn bộ sử Ðệ Tam Kỷ được in xong năm 1879, thời Tự Ðức. (ÐNTL, XXIII, 5-28)? Bộ Thực Lục Ðệ Tứ Kỷ? nói về Triều Tự Ðức thực hiện mất 14 năm, bắt đầu khởi công dưới triều Kiến Phúc, 1885 và ấn loát xong vào năm Thành Thái thứ 11, 1899. (ÐNTL, XXVII, 5-26).? Bộ Thực Lục Ðệ Ngũ Kỷ, bao gồm 2 triều Kiến Phúc và Hàm Nghi, mất 5 năm mới xong, khởi đầu năm 1897 và hoàn thành năm 1902 dưới triều Thành Thái. (ÐNTL, XXXVI, 5-17). Và bộ Thực Lục Ðệ Lục Kỷ, ?nói về triều Ðồng Khánh, được biên soạn từ đời Thành Thái năm thứ 6, 1894 cho đến năm Duy Tân thứ 3, 1909 thì hoàn tất, mất 15 năm. (ÐNTL, XXXVII, 5-21)? Như vậy, tất cả các bộ Thực Lục nói về triều Tự Ðức và về sau, từ Ðệ Tứ đến Ðệ Lục Kỷ đều được biên soạn dưới thời Pháp thuộc, và tính cách trung thực của các bộ sử đó có thể bị nghi ngờ, nhất là khi có bằng chứng người Pháp có can thiệp vào việc viết sử của Quốc sử quán, như vụ Khâm sứ Pháp ra chỉ thị về vấn đề vua Hiệp Hòa, khi soạn bộ Ðệ Tứ Kỷ. (ÐNTL,? XXVII, 7-8)? Ngay trong bộ sử, các sử quan cũng gián tiếp cho biết những áp lực chính trị , khi nói về các qui tắc mà họ phải tuân theo để ghi chép sử.? Ví dụ: Về ông Dục Ðức, thực ra chưa làm vua ngày nào vì mới được chỉ định nhưng chưa được tấn tôn,? thì phàm lệ trong bộ sử Ðệ Tứ Kỷ này nói rõ rằng 'Nay phụ biên chép là tự quân, để tỏ rõ cái tội của kẻ quyền thần [tức là bọn Tôn Thất Thuyết]. (Ibid., 20)? Phàm lệ về cách viết bộ Ðệ Ngũ Kỷ cũng ghi rõ việc coi hai ông Tường và Thuyết là 'quyền thần'? là lý đương nhiên với câu nói sau ?trong phàm lệ thứ 4: "Phàm có việc gì nên chép thì cứ theo y như ở các kỷ trước mà chép.? Việc gì do ý riêng của quyền thần thì cứ việc chép thẳng, để tỏ những điều trái phép của bọn đó." (ÐNTL, XXXVI, 15)??? Tuy nhiên, với các qui tắc ghi chép nhấn mạnh vào sự kiện, như đã nói, và truyền thống cương trực của sử quan Khổng Mạnh Ðông Phương, sự thiên vị hay bóp méo cũng có thể được giảm thiểu, và, nếu có xảy ra, thì nhà khảo cứu có thể suy luận mà khám phá ra được phần nào. Ngoài ra, sử gia còn có thể dùng châu bản của triều Nguyễn, hiện còn được non 20%, để phối kiểm và bổ túc bộ chính sử này. Vấn đề này sẽ được làm sáng tỏ hơn khi bộ sử được sử dụng và phân tích về chi tiết sau này.

 

Dù sao, ba nhà sử học Tây phương, tác giả ba pho sử thượng thặng về Việt Nam, đã dùng bộ Thực Lục làm một tài liệu tham khảo căn bản, và ngợi khen giá trị vượt trội của nó so với sử sách khác về Việt Nam nói chung.? Sử gia Pháp Maybon đã sử dụng Thực Lục Tiền Biên và Chính Biên, hồi đó chỉ có bằng chữ nho. (Histoire moderne du pays d'Annam, x, xi)? Sử gia Mỹ Mark W. McLeod đã dùng Thực Lục nói về Triều Tự Ðức. (The Vietnamese Response to French Intervention, 1862-1874. New York: Praeger, 1991, xv, xvi) Và sử gia Alexander Barton Woodside đã dùng Thực Lục liên hệ đến thời Gia Long, Minh Mạng, và Thiệu Trị. (Vietnam and the Chinese Model : A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century.? Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1988, 323-4). Giáo sư Nhựt bản, Yoshiharu Tsuboi cũng đã tham khảo bộ Thực Lục rất nhiều trong cuốn sử dựa vào luận án Tấn sĩ của ông ở Pháp. (L'Empire vietnamien face à la France et la Chine 1847-1885. Paris, Éditions L'Harmattan, 1987)? Một số sử gia Việt, như Nguyễn Thế Anh (Monarchie et fait colonial au Vietnam [1875-1925]. Paris: Éditions L'Harmattan, 1992), và Vũ Ngự Chiêu (Các Vua Cuối Nhà Nguyễn: 1883-1945, 3 tập. Văn Hóa, 1999)? cũng đã? bắt đầu khai thác khá nhiều bộ chính sử này của nhà Nguyễn. Ngoài bộ Thực Lục, các tác giả vừa kể cũng có dùng các tài liệu khác với mực độ khả tín tương đối khá cao của Triều Nguyễn như Ðại Nam Chính biên Liệt Truyện, Khâm Ðịnh Ðại Nam Hội Ðiển Sự Lệ.

 

C. Nguyễn Văn Tường chống Tôn Thất Thuyết?

 

Sự phân tích tinh tường bộ chính sử, đặt nặng các sự kiện mà Quốc sử quán tường thuật, và loại ra các sự suy diễn do áp lực chính trị ràng buộc các sử quan, sẽ cho thấy rằng tương quan giữa hai ông phụ chánh có thể được xem như là tương quan 'hòa nhi bất đồng'? giữa hai người quân tử, chớ không phải 'đồng nhi bất hòa'? giữa hai kẻ tiểu nhân, như LM De Pirey và sứ sách thực dân đã nói. Hai ông không phải đã đồng ý hợp lực với nhau trong việc truất phế các vua thân Pháp để rồi bất hòa với nhau trong việc chia xẽ uy lực, ngôi thứ, hay quyền lợi vị kỷ khác. Hai ông đã hòa đồng với nhau trong mục tiêu chống Pháp để gìn giữ quốc gia và triều đại. Cái mẫu số chung đó là cái lý tưởng mà mọi vị quan lại trong một nền văn hóa Khổng Mạnh có bổn phận đeo đuổi, dù cho đến phải hy sinh cả tính mệnh, không những của chính mình mà còn của đại gia đình mình nữa.? Cái lý tưởng chung đó đã giúp hai ông san bằng mọi ý kiến bất đồng, nếu có, để luôn luôn sát cánh với nhau trong việc giữ nước.? Thật ra, hai người? đã phân công, đóng hai vai trò trái ngược nhau, một người lo việc đánh, một người lo việc đàm, để bổ túc cho nhau trong kế sách chống thực dân Pháp.? Họ rât kính trọng nhau, và không có bất đồng chính kiến gì quan trọng hết.? Việc ông Thuyết chống Pháp thực dân, ai cũng đã rõ, tưởng không cần chứng minh nữa.? NVT cũng chống Pháp không kém, đã coi 'rợ'? Phú là tham lam giảo quyệt, còn tệ hơn Hung Nô và Khiết Ðan, và đã phải 'chịu nhục' để đi thương thuyết với chúng, vì nhiệm vụ với vua, với nước 'không dám làm kẻ bên lề ngồi xem thành bại.'? (Các bản tấu ngày 8-3 Tự Ðức 21, 1868; 12-1 Tự Ðức 31,? 1878; và 1-11 Tự Ðức 27, 1874)? Tuy nhiên, nhận thấy ta đã thua kém địch quá xa về phương diện quân sự sau nhiều lần thử thách, NVT cùng vua Tự Ðức? đã áp dụng kế sách dài hạn 'hòa để mưu chiến'. (Bản tấu 8-3 Tư Ðức 21 nói trên). Vì vậy, NVT chủ trương ". . . bên ngoài ta lấy vẻ mặt tươi cười chờ đợi, bên trong lại nghiêm chỉnh tự trị, binh khí, thuyền súng có chuyên viên đảm trách, người người tự nỗ lực, tự mưu tính để chờ cơ hộI, thì cái hiệu nghiệm lúc xế chiều cũng không phải là muộn vậy."? (Bản tấu ngày 10-8 Tự Ðức 26, 1873; xin xem bài 'Nguyễn Văn Tường và sách lược chống Pháp dưới Triều Nguyễn' . Thế kỷ 21, đã dẫn)

 

NVT, sinh năm 1824, lớn hơn Tôn Thất Thuyết, sinh 1839, những 15 tuổi. Sự chênh lệch trong tuổi tác có thể giúp phần nào trong việc ông Thuyết vị nễ và nghe theo ông Tường hơn. ?Ngoài ra, 2 ông hợp tác với nhau dễ dàng vì người nào cũng đặt quyền lợi quốc gia và triều đại lên trên quyền lợi riêng tư.? Vào cuối năm 1880, ông Thuyết tố cáo ông Tường lên vua Tự Ðức, dựa vào tin đồn do phía Pháp tung ra [mà ông Thuyết không biết, vì mới ở Bắc về Kinh dưỡng bệnh], là NVT ăn hối lộ của người Tàu để cho ho nhập khẩu tiền giả vào thị trường Việt Nam. Sau khi điều tra, Vua biết NVT bị gièm, và khiển trách ông Thuyết là 'ít học không thông, lại có tật nóng nẩy nói càng' ?(ÐNTL,? XXXIV, 370).? Khi được Vua bổ làm thự Thượng thư bộ Binh vào hậu bán niên 1881, ông Thuyết bắt đầu làm việc chung với NVT, lần lần thấm nhuần chánh sách hòa hoãn của Triều đình, hiểu ông Tường hơn và từ đó về sau, hai người hợp tác rất chặt chẽ với nhau.? Dựa theo sự nghe ngóng các bậc huynh trưởng trong đại gia đình, ông Tôn Thất Hào, một hậu duệ của ông Tôn Thất Phan một bên, và NVT một bên, đã kể rằng:

 

' 'Cụ Thuyết rất kính trọng cụ Tường, thường khen ngợi cụ Tường là: 'bậc nho tướng, đại trí, thông tuệ, thao lược' [ ] Cụ Tường học rộng, sâu sắc, thâm trầm, lúc nào cũng điềm tĩnh, ung dung, khoan hòa, rất quyền mưu. [ ] Cụ Thuyết và cụ Tường rất thân thiết tâm đắc với nhau cùng bàn bạc với nhau mọi chuyện lớn nhỏ trong triều ngoài quận, và thường tỏ ra nhất trí với nhau." ("Chiêu tuyết Kỳ Vĩ Quận Công Nguyễn Văn Tường, 1824-1886". HNNVTDHSP96,? 88)

 

Mặt khác, NVT đã đánh giá Tôn Thất Thuyết với vua Tự Ðức như sau:

 

" Tôn Thất Thuyết theo việc quân lâu ngày, am tường chinh? chiến, binh lính, tướng tá đều sợ tánh nghiêm, nên cũng gọi là tay năng nổ."? (Bản tấu ngày 20-6 Tự Ðức 26 [1873] Bắc Kỳ tấu nghị, do Trần Viết Ngạc dẫn, " Tìm hiểu thêm về Nguyễn Văn Tường [1824-1886], HTNVTHUE02, 18)

 

Sau khi vua Tự Ðức băng hà, hai ông, với tư cách là phụ chánh cố mạng lương thần, đã cùng đóng vai trò Y Doãn, Hoắc Quang [2 vị quan trong sử Tàu đã bỏ vua xấu, phò vua tốt lên ngôi], truất phế Tự Quân Dục Ðức vì ông này đã và làm gián điệp cho Pháp từ trước, và thiếu tư cách. ("M. Rheinart, premier chargé d'affaires à Hué, Journal, notes, et correspondance". BAVH, số 1& 2, 1943, 94, 99, 100, 104, 124-5; ÐNTL, XXXV,? 206-9; Thế Phả,? 371)? Rồi hai vị đã sát cánh với nhau trong việc loại bỏ Hiệp Hòa, vị vua đã đi với người Pháp và cùng họ âm mưu ám hại hai ông, là đồng thủ lãnh phe chống Pháp.? Phối hợp tài quân sự của ông Thuyết và tài chính trị của ông Tường, hai vị phụ chánh đã dễ dàng hoàn thành một cuộc đảo chánh triệt hạ vua Hiệp Hòa . Sứ quán Pháp, với quân đội đóng ở Cửa Thuận, và ngay bên kia bờ sông Hương,? đã không hay biết gì hết về cuộc chính biến cho đến khi mọi sự đã rồi, và không còn can thiệp kịp được nữa. (Ibid., 255-260) Hai ông cũng nhất trí chống lại việc Khâm sứ Rheinart đòi truất phế vua Hàm Nghi, mặc dầu Rheinart có đề nghị tôn ông Thuyết lên ngôi, sau khi? y thất bại trong việc đòi hỏi Triều đình phải để cho Gia Hưng Vương lên thay Vua Hàm Nghi.??? ("M. Rheinart .? . . " BAVH, số 1 & 2, 1943, 152-3; ÐNTL, XXXVI, 156-7, 176-8). Khi phía Pháp đi quá xa trong việc áp dụng Hiệp ước Bảo hộ 1884 , đến độ muốn biến Triều đình thành một số bù nhìn tay sai của họ, đồng thời thiết lập ở Bắc 2 trung đoàn lính chiến người Việt để giết người Việt, hai ông phụ chánh sát cánh với nhau phản đối quyết liệt qua một bức thư gởi cho Tổng Trú sứ Pháp Lemaire.? Trong thơ này, NVT với tư cách là Viện trưởng Hội đồng Cơ mật, dùng lời lẽ ôn hòa, bày tỏ sự bất mãn của Triều đình đối với hành động hà lạm, vi phạm hiệp ước của phía Pháp, đồng thời chuyển, kèm theo thơ của mình, môt bức thư của ông Thuyết.? Trong thơ này, ông Thuyết, với tư cách là Thượng thư bộ Binh, trách cứ phía Pháp một cách dữ dội, không chút vị nễ, với đầy đủ chi tiết về việc Pháp uy hiếp, áp bức phía Viêt nam và vi phạm hiệp ước. (Etienne Vo Duc Hanh, La place du Catholicisme dans les relations entre la France et le Vietnam de 1870 à 1886. Berne, New York. P. Lang, 1992, 1176-1187)? Ðể ly gián hai ông, sử học thực dân đã cố ý lơ phần của ông Tường, và rao ra rằng đó là thơ của một mình ông Thuyết, mặc dầu Ðức Cha Puginier đã giải thích cho Tướng De Courcy biết rằng đó là thơ của toàn thể Triều Ðình, và hăm đoạn tuyệt ngoại giao với Pháp. (Ibid., 1184).

 

Ðến khi De Courcy mang hơn một ngàn quân sĩ, gồm cả tàu chiến và trọng pháo vào Huế để trình ủy nhiệm thư, và nhân tiện triệt hạ hai ông và vua Hàm Nghi, thay bằng bộ ba Nguyễn Hữu Ðộ, Phan Ðình Bình, và Ðồng Khánh, thì hai ông phụ chánh đã cùng vua và Triều đình lập kế cho ông Thuyết đánh úp quân Pháp trước và đem vua đi sơn phòng, trong lúc NVT ở lại điều đình, nhân danh Triều đình, giả đò phủ nhận hành động của ông Thuyết, và như vậy đặt phía Pháp trước một tình trạng mới.? Vua và ông Thuyết, từ sơn phòng, ra: [1] Dụ 'Thiên hạ Cần Vương'? kêu gọi mọi người con dân giúp vua chống xâm lăng; [2] Dụ gởi NVT chỉ thị thương thảo với Pháp một hiệp ước giống như dưới thời Tự Ðức để vua có thể trở về; [3] Dụ gởi Hoàng tộc yêu cầu hoàng thân quốc thích ủng hộ NVT trong việc điều đình, và đề cao lòng trung nghĩa của NVT. (ÐNTL, XXXVI, 220-8; xem thêm bài 'NVT và sách lược. . .' đã dẫn trên)? Việc ông Thuyết đưa vua đi sơn phòng, và NVT ở lại thương thuyết, là một kế hoạch của toàn thể Triều đình để giải tỏa một? hoàn cảnh bế tắc và thiên nan, vạn nan trước mắt.? Như vậy thì làm sao có những chuyện như: NVT ưng loại ông Thuyết và vua Hàm Nghi để đưa con mình lên ngôi, như LM De Pirey đã nói, dựa vào ý kiến của toàn dân 100% của Tổng Mai Lộc, như kể trên; hoặc, để lấy lòng De Courcy, NVT đã không chấp thuận cho ông Thuyết giết? Nguyễn Hữu Ðộ, và nhờ ông Ðộ báo với De Courcy là ông Thuyết đang chuẩn bị tấn công quân Pháp; hoặc ông Thuyết, khi chạy ra? Quảng Trị, lập tức cho người về đốt nhà NVT, như LM Delvaux đã tường thuật?? Những tin của LM Delvaux phần nhiều được lấy từ tòa Khâm sứ, mà chính tác giả đã công nhận là 'chín phần mười chỉ có giá trị thứ yếu, và rất thường? trái ngược với nhau và triệt tiêu lẫn nhau'. [Archives de la Résidence Supérieure de Hué {Les neuf dixièmes des pièces n'ont qu'un intérêt secondaire, et très souvent l'une contredit ou corrige l'autre}]? ("La prise de Hué par les Francais 5 Juillet 1885". BAVH, số 2, 1920, 267-8, 292;" Quelques précisions sur une période troublée de l'histoire d'Annam". BAVH, số 3, 1941, 267, t. 292, ct. 1 nói về giá trị nguồn tin Toà Khâm)

 

D. Ông Thuyết đốt nhà ông Tường?

 

Theo lời LM Delvaux, sau khi đưa vua Hàm Nghi và Tam Cung ra đến Quảng Trị,

 

"Ðến chiều tối, người ta được tin Nguyễn Văn Tường đầu hàng quân Pháp và được trở lại tại vị trong chính phủ An Nam.? Hoàng thân Thuyết gọi một người tâm phúc và ra lệnh cho y, trước mặt vua, đi đốt ngay cái nhà riêng của Phụ chính Tường. [Chú thích 1: Nhà này tọa lạc trong thành, gần cửa Ðông Ba.? Nhà bị cháy ngày 24-7. Văn khố Tòa Khâm F.V. 67, số 30." ( Ibid., NQT dịch và nhấn mạnh)

 

Một học giả xứ thần kinh, không biết có lấy bài này làm 'khuôn vàng thước ngọc'? hay không, vì viết mà không cho biết nguồn gốc tham khảo, đã chép, có vẻ như chính mình đã trông thấy, rằng: " . . . Nhà của Quận Tường phát cháy dữ dội đêm 24 tháng 7 năm 1885, tức là 20 ngày sau khi thất thủ Kinh Ðô. "?? (Thái Văn Kiểm "Nước loạn canh tàn khóc bễ dâu". Nhớ Huế, số 8, 93, NQT nhấn mạnh).? Một tác giả khác lấy tin đó để làm bằng chứng cho tính khí nóng nảy, bốc đồng của ông Thuyết (Phạm Hồng Việt, "Về yêu cầu giáo dưỡng và giáo dục khi giảng về Tôn Thất Thuyết trong các bài giảng lịch sử". HNNVTDHSP96, 193). Một sử gia đứng đắn và nhiều kinh nghiệm cũng đã vô tình lặp lại tin đó như là một bằng chứng của sự chia rẽ giữa hai ông phụ chính. (Phan Khoang, Việt-Nam Pháp-Thuộc-Sử. Sài gòn: Phủ Quốc- Vụ-Khanh đặc-trách Văn-hóa, 1971, 349-350)

 

Chỉ lấy lương tri thông thường mà suy xét, tin này khó lòng dựa vào một cơ sở nào vững chắc.? Cho dù không có chuyện hai ông lập kế, kẻ đánh người đàm và phối hợp với nhau, và cho dù hai ông phụ chính chống nhau kịch liệt đi nữa, thì lúc mới đưa được đoàn ngự đạo ra đến Quảng Trị, ông Thuyết còn có bao nhiêu vấn đề hệ trọng và cấp bách cần được ưu tiên giải quyết hơn là việc đốt nhà NVT. Thật vậy ông Thuyết lúc đó đang ở trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, môt mặt phải lo bảo vệ tính mạng cho Vua và Tam cung, và các hoàng thân quốc thích, triều thần, quân sĩ đi hộ giá, mặt khác phải lo đề phòng việc quân đội Pháp đuổi theo và vây bắt cả vua tôi, và lo nơi ăn chốn ở, lo ai đi ai ở lại, . . .Trong một tình trạng khẩn trương đến tột độ như vậy, ông Thuyết, là một người cầm quân, đánh giặc rất giỏi, làm sao có thể nghĩ đến chuyện đốt nhà NVT, một chuyện không có gì là cấp bách, quan trọng cả?

 

Sự thật là chính người Pháp đã đốt nhà NVT, rồi đổ cho ông Thuyết.? Quả vậy, chỗ làm việc, nhà ở của ông Tường cũng như của ông Thuyết, Ðại Tá Pernot, chỉ huy đồn Mang Cá, đã dò biết từ lâu rồi, và đã trù cho độ 50 tên lính đến các nơi đó, để bắt cóc hay thủ tiêu cả hai người, như? Pernot đã phúc trình cho Tướng Tổng chỉ huy Brière de L'Isle trước ngày thất thủ Kinh đô ít lâu. (S.H.A.T. 10H6 [ex carton 9], sự kế thừa Tướng De Courcy. Thư tín Pernot-Brière - 4-5/1885, do Charles Fourniau dẫn, Annam -Tonkin 1885-1896, Lettrés et paysans vietnamiens face à la conquête coloniale. Paris, L'Harmattan, 1989, 30). Như vậy, lúc quân Pháp phản công chiếm Huế, thật khó lòng mà họ tha không đốt nhà của các ông được. Tác giả Phương Anh Trang, người đã nghiên cứu khá cẩn trọng việc vua Hàm Nghi xuất bôn, có đặt câu hỏi rằng: khi ông Tường không theo xa giá thì trở lại đâu? Và tác giả nói tiếp: ''Nhà Nguyễn văn Tường ở gần cửa Ðông Ba và khu Lục Bộ lúc bấy giờ đang bị quân Pháp đốt phá dữ dội." ( "Vua Hàm Nghi Xuất Bôn". Tiếng Sông Hương, 1991, 5)? LM Delvaux, dựa theo phúc trình của Thiếu tá Metzinger, đã giải đáp phần nào nổi thắc mắc của sử gia Anh Trang. Vị linh mục kể rằng Thiếu úy Fellman, hậu đội [arrière garde] của đoàn quân bên trái [colonne de gauche], tức đoàn đi dọc theo bờ phía trong kinh thành đến khu cửa Ðông Ba và lục bộ, đã 'thiêu đốt? đúng theo phương pháp' ?[incendiait méthodiquement] dọc đường đi, và đến 6g45, tất cả đại đội thứ 2 bộ binh Bắc Phi [Zouaves] đã phóng hỏa toàn thể khu vực chợ Ðông Ba cũ [ Chợ Xép].? Nếu nhà NVT ở khu đó mà Ðại Tá chỉ huy cuộc chiếm đóng kinh thành đã từng biết rõ, thì thật khó lòng cho nó khỏi bị thiêu hủy. ?Quả nhiên, sử gia Philippe Devillers? đã đả thông thắc mắc 'ông Tường trở về đâu?'? của? Phương Anh Trang:

 

" . . . Courcy vừa chấp nhận cho Tường làm Viện trưởng Viện Cơ mật, lại vừa nghi ngờ? ông này hết mực. Vị? tướng giam Nguyễn Văn Tường trong một phần của lâu đài Thương Bạc, vì nhà Nguyễn Văn Tường đã bị cháy, và? giao ông cho? một đội lính gát và một số sĩ quan giám thị." (Devillers, op. cit., 294, NQT dịch và nhấn mạnh)

 

?Sau khi mô tả sự cướp bóc hoàng thành của quân đội Pháp suốt trong hai tháng trời, dựa theo các bài phóng sự của nhà báo Pène-Siefert, bạn của Toàn quyền Paul Bert, và phúc trình của Khâm sứ Rheinart, ước lượng sự mất mát lên đến hàng chục triệu phật lăng, Devillers nói tiếp: "Ðó chưa phải là hết. Ngay cả thành phố đã bị quân đội của Courcy cướp bóc, đập phá, hay thiêu hủy . Hầu hết các bộ cùng với hồ sơ, TàngThơ Viện, Quốc sử quán, Quốc gia Ấn quán bị? thiêu đốt [incendiés], cùng với cái nhà của Nguyễn văn Tường [ainsi que la maison de Nguyễn Văn Tường].' ' (Devillers, op. cit., 288-9, 289, NQT dịch và nhấn mạnh; về sự cướp phá hoàng thành, xem thêm Fourniau, Vietnam, op. cit., 372-4) ??Toàn quyền J. M. De Lanessan còn nói rõ ràng hơn nữa là:

 

"Vua Hàm Nghi và phụ chính Thuyết vừa mới rời khỏi kinh thành thì cuộc nội loạn liền xảy ra ở mọi nơi cùng một lúc. Bất kỳ nơi nào có người Công giáo, thì có xảy ra sự tàn sát, vưà bề bộn vừa bất ngờ.? Các người phiến loạn cho rằng làm như vậy, tức là trả thù cho sự tàn phá những nhà cửa của người An Nam trong kinh thành Huế do quân đội của chúng ta thực thi ngày 5 tháng 7, những loạt súng bắn giết kèm theo sự thiêu hũy, và sự trục xuất ba mươi ngàn người dân bản xứ đang cư ngụ chung quanh hoàng thành và các bộ." (Lanessan, op. cit., 686, NQT dịch và nhấn mạnh)

 

Rồi De Lanessan nhấn mạnh rằng, sau khi thất bại trong việc kêu gọi người Tàu cứu viện,"Phụ chính Tường đã ở lại, mặc dầu quân đội chúng ta đã đốt cái bộ và cả cái nhà của ông. [Le régent Thuong [sic] . . . était resté à Hué malgré l' incendie par nos troupes de son ministère et de sa maison.]" (L'Indo-Chine francaise. Paris: Librairie Germer Bailliére et Cie, 1889, 688, NQT dịch và nhấn mạnh).

 

Ngày nay, một vài tác giả Pháp chống thực dân có đặt câu hỏi tại sao dư luận Pháp hoàn toàn im lặng trước một cuộc cướp phá khủng khiếp như vậy của quân đội mình tại Huế, mà lại rầm rộ và quyết liệt tố cáo tội trạng tương tợ của quân đội Anh ở Lâu đài Mùa hè ở Bắc Kinh vào 1860?? Rồi trong những lý do họ nêu ra là: không ai tin rằng một cuộc chiến tranh nhằm mục đích cao cả là đem ánh sáng của một nển văn minh Thiên Chúa đến cho một dân tộc đang chìm đắm dưới gông cùm của một chế độ độc đoán bạo tàn Ðông phương, lại có thể có những hành động bỉ ổi đến như vậy; ngoài ra, không có một lực lượng chính trị nào thấy có lợi gì trong việc làm hại đến danh dự của lá quốc kỳ. (Fourniau,Vietnam, op. cit.., 374) Tuy nhiên, có một lý do mà họ có thể đặt nhẹ, là sự lợi hại của bộ máy tuyên truyền của nền sử học thực dân.? Tin tức báo chí thực dân hồi đó thường mô tả việc quân Việt tấn công quân pháp đêm 4-7-1885 là 'cuộc mai phục Huế' [guet-apens de Hué]? với ý nghĩa xấu cho phía Triều đình và ông Thuyết, hầu giảm thiểu những phản ứng bất lợi cho phía Pháp.? Hơn nữa, người nào có đọc những sách vở ghi lại những lời xác nhận của một số nhân chứng Việt Nam chọn lọc thời đó, thì lại có cái nhìn trái ngược: quân đội Pháp trở thành những người ân nhân, bảo vệ tính mạng và tài sản cho triều đình và nhân dân kinh thành Huế, và đồ đạc mất cắp phần lớn là do người An Nam lấy!? Ðó là sự khẳng định của [Ðại úy] Capitaine J. Masson, người đã giao hoàn căn cứ Hồ Tịnh Tâm lại cho Triều đình vào tháng 3 năm 1886, sau 8 tháng đóng quân tại đó từ ngày thất thủ kinh thành. Sự khẳng định này dựa vào cuộc phỏng vấn một số quan lại Việt Nam thời đó. Theo lời tác giả , các vị quan này

 

"đã trả lời với một giọng đầy nhiệt thành rằng họ đã không bao giờ nghi ngờ lòng ngay thật của quân lính ta, và họ biết chắc chắn rằng những đồ quí giá nhứt đã bị các quan Việt hoặc ngưới bản xứ mang đi vì biết giá trị của những vật đó. [ ] Chính ông Thủ tướng, Nguyễn Hữu Ðộ đã nói với chúng tôi như vậy, rằng nhiều cái ché hay đồ khác trị giá mỗi cái từ một trăm đến một trăm năm mươi ngàn phật lăng, đã được các quan lại lấy và cất đi, viện cớ giả dối là để chúng thoát khỏi sự trộm cắp của người Pháp. [ ] Ông Ðộ nói thêm rằng :' Nhà vua và tất cả chúng tôi? thảy đều đầy lòng khâm phục nhận thấy sự bất vụ lợi tuyệt đối của người Pháp đang sống giữa những của cải quí báu mà họ bảo vệ chống lại sự trộm cướp, những của cải? mà, đáng lẽ ra, họ có thể tuyệt đối chiếm giữ lấy, nhân danh quyền lợi của kẻ chinh phục." (Souvenirs de l'Annam et du Tonkin. Paris: Henri Charles-Lavauzelle, 1902, 140, ct. 3, NQT dịch)

 

Trở lại tương quan Tường-Thuyết, câu chuyện NVT kể về ông Thuyết, trong thơ gởi Toàn quyền Tahiti vài tháng trước khi từ trần, đã xác nhận rằng ông Thuyết là một người có hành động rất phải chăng và ôn hòa, không có vẻ gì là nóng nảy, bốc đồng cả. Theo NVT, sở dĩ ông Thuyết không chịu qua họp ở Tòa Sứ là vì những lý do rất chính đáng, nhất là thái độ rất đáng ngờ vực của Tướng De Courcy: Ðến để trình sắc thơ mà lại đem theo nhiều quân đội và tàu chiến, rồi lại đòi tất cả thượng thơ phải qua họp ở Tòa Sứ ngay lập tức, không được thiếu ai; Mới ngày trước đó, một đại tá Pháp vừa lên thành triệt hạ và bịt ngòi các súng đại bác của Việt Nam, lại cho lính đánh đập dân gian lấy tiền bạc của cải, tiếng than khóc dậy đất, như vậy mà ông Thuyết đã cam tâm nhẫn nhịn, không kháng cự lại; Nếu qua tòa sứ rồi bị tướng Pháp bắt giải đi Côn Lôn, như trường hợp mới đây của Tổng Ðốc Hà Văn Quang, do Nguyễn Hữu Ðộ dẫn dụ, thì khi đó hối sao kịp; Cuối cùng Thuyết xin từ chức, xin đổi người khác thay thế để đi họp cho đủ số. . . Ðể bênh vực thêm cho hành động hợp lý của ông Thuyết, NVT đã tố cáo khéo De Courcy trong bức thơ 'ngoại giao'? này rằng "Toàn quyền là một vị đại thần, việc làm tất phải minh chánh . . . không lẽ làm chuyện hồ đồ.".? Nhưng, than ôi, ngay chính ?bản thân NVT, trong lúc làm Viện trưởng viện Cơ mật, đại diện Triều đình Việt Nam để thương thuyết với Pháp, đã được De Courcy? cho một quan ba mời xuống tàu thủy cùng với ông Phạm Thận Duật và Tôn Thất Ðính rồi

 

''tưởng qua Tòa Sứ hội thương việc gì thôi, không ngờ ông ấy mở máy đi thẳng xuống Cửa Thuận An mà ra biển đem lên tàu lớn, đưa thẳng đến Côn Lôn . . . giam chấp. Ði lần này thật không ai ngờ. Tam Cung, đình thần và gia quyến thiểm đều không hay biết, .. . không tiền bạc, áo xống . . . đói khổ hàng tuần, tưởng là khó sống.? Quan Toàn quyền là một đại thần của nước Ðại Pháp, phàm làm việc gì tưởng cũng minh chánh . . ." ('Thơ: Lại Bộ . . .'. Tiếng Sông Hương, 1994, 126-8, NQT nhấn mạnh)

 

E. Vua Hàm Nghi bị hai ông Thuyết, Tường ép và lừa đi kháng chiến?

 

Việc LM Pirey kể rằng ông Thuyết yêu cầu vua Hàm Nghi để lại cái đầu trước khi về được sử sách Pháp và Việt lặp đi lặp lại rất nhiều. Mãi cho đến 2002, ngay cả một tác giả Pháp chống thực dân nặng ký và từng ngờ vực tin tức của các vị thừa sai, cũng đã trích dẫn nguyên văn câu:" Nếu Bệ Hạ muốn về trở lại Huế thì trước hết, xin Ngài để cái đầu lại ở đây. [Si Votre Majesté veut revenir à Huê, il faut d'abord qu'Elle laisse ici sa tête] ''? (Fourniau, Vietnam, op. cit. 375)? Tính cách khả tín của tin này, tự nó quả đã đáng ngờ, vì lấy từ lời nói của một linh mục thừa sai Pháp, dựa theo một người nhân chứng mà linh mục gọi là 'ông xã Bình', một người lính đi theo đoàn ngự đạo mà sự hiện hũu không thấy được ai phối kiểm, chưa nói đến việc ông này được đến gần vua và ông Thuyết lúc nào, và nghe câu chuyện ấy trong trường hợp nào. Ngoài ra còn nhiều sự kiện khác đính chính tin đó của LM Pirey. Một là việc vua Hàm Nghi gởi về hai bản dụ, một cho NVT, một cho hoàng tộc,? đã cho thấy rằng vua đi một cách tự nguyện làm bổn phận theo một kế hoạch chống Pháp của cả Triều Ðình, chớ không do sự ép buộc của ông Thuyết, hay do mưu mô của NVT để 'đem vua bỏ chợ'.? Hơn nữa, mặc dầu chính sử có nói, để che chở cho vua đối với phía Pháp, rằng? khi NVT vào tâu vua xuất bôn, thì "trong khi vội vã, chỉ soạn được cái ấn ở ngự tiền văn lý mật sát và ấn kiềm 2 quả với hạng để vàng bạc đồ đệ đem theo." (ÐNTL, XXXVI, 221), khi vua bị Pháp bắt thì đồ đạc mang theo dồi dào đầy đủ hơn nhiều, chứng tỏ rằng vua ra đi có sửa soạn trước, chớ không phải bị bó buộc bất thần. Số đồ này gồm có? "ấn vàng bạc và gươm báu một hai thứ" (ÐNTL, XXXVIII, 142), chưa kể "ấn của vua Hàm Nghi" quân Pháp thu được sau khi đánh dẹp và giết Tán lý Nguyễn Phạm Tuân ở Minh Cầm, Quảng Bình vào mùa xuân 1887. (ÐNTL, XXXVII, 269.) Các đồ đạc đó được ông Công sứ Pháp ở Huế mô tả như sau:

 

?" . . . Một trong những cái kiếm có cán và bao bằng vàng. . . Cái cán được chạm tuyệt đẹp và trang trí với hình rồng nổi lên.? Cái kiếm kia có cái cán bằng ngọc thạch, nhưng cái võ bằng vàng chạm trỗ đẹp không kém. Một cái? dao găm dài . . . với vỏ đựng bằng một sừng tê giác có chạm vàng. Ðó là một đồ trang sức quí giá hơn là một khí giới, . . . mang một ý nghĩa chính trị.? Vật quí đó, cùng với các ấn tín, là một trong những vật tiêu biễu cho vương quyền, và được truyền từ vua này đến vua khác, đồng thời như là một bái vật [fétiche] và một biểu hiệu đặc biệt.? Ông Rheinart đã tình nguyện thân hành mang nó trả lại cho vua Ðồng Khánh, và vua đã vô cùng cảm kích. ' Vua vừa mỉm cười vừa nói rằng từ trước đến giờ, tôi có vẻ làm vua chỉ được một nửa thôi. . . [ ] Hành lý của vua Hàm Nghi, đựng trong ba hay bốn rương vuông . . . trong đó có . . . nhiều áo rộng rất đẹp bằng lụa vàng, quần bằng lụa đỏ và các quần áo có giá trị khác . . ." ?(Baille, op. cit., 162-3, NQT dịch)

 

Quả nhiên, mang theo đồ đạc, dụng cụ, hành lý khá đầy đủ như vậy để hành xử nhiệm vụ của một hoàng đế lưu vong kháng chiến, thì không thể nói là bị ép buộc đi bất thần, mà không có sự đồng ý? sắp đặt trước của vua được.? Ðó là chưa nói đến sự di chuyển khí giới, kho tàn từ hoàng thành lên Tân Sở từ nhiều tháng trước mà sử sách đều nhất loạt cho là gần như công khai.? Những công tác, quá hệ trọng đến vận mạng của triều đại và đất nước như thế, không thể không có sự chấp thuận hoặc hiểu biết của vua được.? Hơn nữa và trên hết, thái độ bất khuất đối với người Pháp, của vị vua trẻ lúc bị bắt vào cuối năm 1888, cũng như từ đó cho đến lúc vua mất sau 55 năm bị tù đày, (Fourniau, Vietnam, op. cit., 430-1; Baille, op. cit., 149-164) đã là một cải chính quá hùng hồn, không những cho tin này, mà còn cho không biết bao nhiêu tin tức xuyên tạc khác nữa, như: vua sai Lãnh binh Trương Quang Ngọc liên lạc với giáo dân vùng Thanh Lạng nhờ họ làm trung gian để vua về đầu thú! hay một thị vệ của vua tìm LM Luận ở Nam Tây nhờ nhắn với người Pháp giải thoát vua khỏi bàn tay của ông Thuyết! hay vua đã chết vì bệnh tật nơi rừng sâu nước độc, hay vì bị đầu độc! (Delvaux, 'Quelques précisions. . '. BAVH, ibid., 271, 277, 302).? Thật vậy, theo lời tường thuật của Công sứ Baille, thì vua mạnh khỏe và cường tráng, đối xử rất lãnh đạm và 'thiều lễ độ'? đối với quan quân Pháp, ngay cả đối với Khâm sứ Rheinart, vá từ chối không chịu viết thơ cho một vài người cận thần để khuyên họ đầu hàng. (Baille, op. cit., 156, 158;? Về uy tín của Vua Hàm Nghi, xem thêm Fourniau, Vietnam, op. cit., 430-1; Vũ Ngự Chiêu,? Tập 2, op. cit., 519-511). Rồi ông Baille tiếp:

 

"Hàm Nghi, với thái độ và ngôn ngữ của ông, với sự kháng cự bằng vũ lực mà ông đã sử dụng lúc bị bắt, đã tự ý mình giải tỏa cho chúng ta mọi sự ràng buộc về đạo lý. . . . [? ] Sau những biến cố vừa xảy ra, ông chỉ còn là một tù binh chiến tranh, và một kẻ chiến bại. Tha mạng cho ông là một sự nhân từ tối đa mà ông có thể mong đợi ớ chính quyền bảo hộ.? . . . Người ta quyết định giam ông ở Algérie. . . . Và đối với người An Nam, một người An Nam ở địa vị đó, sự đi đày còn tệ hơn là chết nữa; . . . và chuyện đáng sợ, . . . là ông có thể tự hũy mình bằng cái chết trước viễn ảnh của một sự đi đày." (Baille, op. cit., 159-160)

 

F. Vai trò của Thái Hoàng Thái Hậu Từ Dũ trong kế hoạch Triều đình lưỡng phân

 

Việc Vua Hàm Nghi đi cùng với ông Thuyết để lãnh đạo Phong Trào Cần Vương là một kế hoạch chung của Triều đình, có thể được thấy ghi nhận ngay trong chính sử, mặc dầu các sử quan viết bộ Ðệ Tứ Kỷ về giai đoạn Kiến Phúc - Hàm Nghi đã phải gọt dũa, thích ứng? ý tứ và văn từ theo sự đòi hỏi của tình thế.? Ðể che chở cho Triều đình ở lại , giúp họ đối phó với phía Pháp, bộ sử đã cố ý đổ tất cả tội lỗi trên đầu một mình ông Thuyết: Vua còn vị thành niên và mọi người khác đều bị ông Thuyết ép buộc, hay đánh lừa;? Thay vì nói ông Thuyết 'phò'? vua đi kháng chiến thì nói là 'ép' ?vua đi; thay vì gọi hai ông phụ chính là? [cố mạng] 'lương thần'? hay 'huân thần' thì là gọi họ là 'quyền thần',? hay 'nghịch thần' , 'cường thần' . Chính sử đã nói rõ rằng cách trình bày này đã được qui định trong phần 'phàm lệ' , mà sử quan phải tuân theo, như đã kể trên.? Vì lý do đó, sử nói không ăn khớp với nhau ở nhiều chỗ.? Chẳng hạn, ở một chỗ thì sử nói có vẻ như là NVT không hay biết gì về việc ông Thuyết tấn công quân Pháp (ÐNTL, XXXVI, 220), nhưng ở chỗ khác thì ghi lại bản tấu của NVT gởi Tam Cung ở Quảng Trị xác nhận rằng " . . . thần phải tuân theo sắc văn, đem thân lăn lộn ở đây, cùng với quan Pháp đi lại, vì bản tâm của thần, nguyền cùng với xã tắc mất còn, không dám lìa bỏ vậy."? (Ibid., 221) 'Sắc văn'? mà NVT phải tuân theo ở đây là sắc văn nào? Nó không thể là lệnh miệng của Ðức Từ Dũ, trước khi rời hoàng thành, bảo NVT ở lại thương thuyết, và cũng không thể là bản dụ Vua Hàm Nghi gởi ủy cho NVT điều đình sau khi đã rời hoàng thành hơn một tuần. Vậy nó phải là một văn kiện đã có trước khi ông Thuyết tấn công, và ra lệnh cho NVT ở lại, tức có sự xếp đặt trước. Chính sử cũng nói rằng trong bản tấu đó [được đóng với dấu của Khâm sứ Pháp, vì? lúc đó NVT bị giam ở nhà Thương Bạc, NQT ct.], NVT có trách cứ Tôn Thất Thuyết đã lừa mình đưa xa giá vua và Tam Cung đi Quảng Trị (Ibid.),? và chính bà Từ Dũ cũng công khai phàn nàn như vậy trong một bản dụ (Ibid., 230). Nhưng khi ra đến Quảng Trị thì chính Ðức Từ Dũ, sau khi nhắc thầm NVT ở lại điều đình (Ibid., 230), đã xếp đặt cho Vua đi với ông Thuyết, còn Tam Cung thì ở lại Quảng Trị đợi tin NVT.? Về việc này chính sử không nói rõ chi tiết, để tránh sự rắc rối cho Bà Từ Dũ đối với phía Pháp, nhưng Bà Nguyễn Nhược Thị, thư ký riêng của Thái hoàng Thái hậu, đã kể khá rành mạch như sau, khi vấn đề đi sơn phòng được đặt ra:

???? . . .

??????? Phán rằng: "Ta vốn đã liều,

???? Huống đem xách cả đi theo thêm phiền.

??????? Hãy phò thiếu chúa cho yên,

???? Mặc ai ở lại chỉ truyền khá vâng".

? ???. . .

??????? Rằng: "Tàu tây tới biên giang,

???? Xin hầu chúa thượng kịp toan tiến hành".

??????? Nghe lời cũng dạ hãi kinh

???? Ngập-ngừng thiếu chúa bái trình xin đi.

??????? Khôn cầm nước mắt biệt ly:

???? Ân-cần huấn dụ khá ghi trong lòng.

????? ??Dặn-dò lời nọ chưa cùng,

???? Gửi đồn xin chớ thong-dong trễ-tràng.

??????? Tạ từ lên võng vội-vàng,

???? Quan quân ủng-vệ trông đường ruổi mau.

????? (Hạnh Thục Ca. Sài gòn: Tân Việt, 1950, 42-3, NQT nhấn mạnh)

 

Ðại úy Gosselin, dựa vào các cuộc phỏng vấn các nhân chứng, đã xác nhận đoạn thơ nói trên của bà Nguyễn Nhựợc Thị.? Theo lời ông, lúc? triều đình di tản ở thành Quảng Trị, có môt cuộc họp của các nhân vật tối cao để quyết định việc ai đi, ai ở lại. Kết quả có sự đồng ý là:

 

" Vua và ông Thuyết, vài vị quan lớn . . . và quân đội . . . sẽ tiếp tục đi lên miệt bắc; nhưng các hoàng hậu, hoàng phi, hoàng thân,. . . mà sự hiện diện sẽ gây trở ngại cho cuộc kháng chiến dự định, sẽ trở về kinh thành." (Gosselin, op. cit., 214)

 

?Sau khi về đến Huế, bà Từ Dụ, nhân danh Tam Cung, ra dụ, một mặt, để đối phó với phía Pháp, công kích ông Thuỳết 'chuyên quyền làm bậy', 'ép xe vua ra chơi' , mặt khác,lại đề cao cuộc chính biến đêm 22-5 âm lịch do ông Thuyết khởi xướng:

 

" . . . Từ điều ước tài định đã được phân minh, khiến nước Pháp trước tự bại hòa gây biến, thì phàm ai ở đất vua, cũng đều thù ghét, ai bảo là không nên.? Không gì bằng cuộc nghĩa cử đêm 22 tháng 5 năm nay, . . .". (ÐNTL, XXXVI, 244, NQT nhấn mạnh).? Cách nói 'hai mặt' đó cũng được Quốc Sử quán áp dụng trong thể lệ viết bộ Ðệ Ngũ Kỷ, một mặt nói trong phàm lệ 4 rằng ' ' Việc gì do ý riêng của quyền thần thì cứ việc chép thẳng, để tỏ những điều trái phép của bọn chúng", một mặt, trong phàm lệ 5 tiếp theo liền đó, thì lại nói rằng tất cả những gì xảy ra trong hơn 4 tháng từ ngày thất thủ Kinh đô, 23 tháng 5, cho đền ngày mồng 1 tháng 10 năm Ất Dậu [1885] đều vẫn được xem như là còn thuộc năm Hàm Nghi thứ Nhất, mặc dầu vua Ðồng Khánh đã lên ngôi ngày 10 tháng 8, vì ". . . phương nam phương bắc đều vâng dụ vua Hàm Nghi dấy quân cần vương, những kẻ khởi sự đều cầm nắm làm cờ để khởi binh." (Ibid., 15, NQT nhấn mạnh)

 

Câu chuyện Bà Từ Dũ tích cực tham gia vào kế hoạch chống Pháp của hai ông Phụ chánh và Triều đình nói chung, còn dài.? Ngày 14-9-1885, hơn một tuần sau khi các ông Tường, Duật, và Ðính bị đưa đi đày, Tướng De Courcy điện về Pháp rằng:"Thể theo lời thỉnh nguyện khẩn khoản [voeux réitérés] của hoàng gia và của Hội đồng Cơ mật, và với sự chấp thuận của chính phủ Pháp"? , Hoàng tử Chánh Mông đã được tôn vương, là vua Ðồng Khánh. (Gosselin, op. cit., 221) Cùng ngày đó bên phía Việt, có một dụ của bà Từ Dũ công bố việc này và nói ám chỉ rằng sở dĩ chuyện đó phải được làm là vì áp lực của Pháp và của thời thế:

 

" . . . Nay tiếp triều đình Ðại Pháp điện báo rằng: cần có vua chúa mới trả thành trì. . . ?Ðại Pháp đô thống bảo hộ Ðại Nam quốc toàn quyền đại thần Cô-ra-xi, trú kinh khâm sứ đại thần Tham-bô, nhiếp lý quốc chính Thọ Xuân vương Miên Ðịnh, Cơ mật viện đại thần Nguyễn Hữu Ðộ, Phan Ðình Bình và bọn văn võ đình thần ở tôn nhân phủ tuân dụ xin rước lập con thứ hai của Dực Tông Anh hoàng đế là Kiên Giang quận công Ưng Kỹ làm tự hoàng đế . . . Khi vua Hàm Nghi trở về sẽ lại tập phong công tước, để thừa tự Kiên quốc công. . . ." (ÐNTL, XXXVI, 249-250; Gosselin, op. cit., 221-3)

 

Nỗi đau xót của bà Tự Dũ lúc đó đã được Ðại úy Gosselin thông cảm:

 

" Bà hoàng mẫu đau khổ ấy, mẹ vua Tự Ðức, đã phải tự trách mình biết bao khi thốt ra những lời lẽ như vậy. Cần phải vì lý do quốc gia trọng đại . . . bà mới đành tuyên bố phế bỏ ông Hàm Nghi bất hạnh mà bà yêu mến. Chúng tôi được biết từ một nguồn tin rất đặc biệt, cung cấp bởi những người, cho đến những ngày sau này, được cái vinh dự gần gũi với người đàn bà cao quí ấy trong một bầu không khí thân mật, rằng bà đã hết sức đau khổ trong suốt quãn đời còn lại của bà.? MỗI khi bà nói đến, hay nghe ai nói đến, tên Hàm Nghi, là bà rơi lệ dầm dề. Bà mất . . . năm 1901, . . . đui và điếc từ nhiều năm, lúc 94 tuổi" ?(Gosselin, op. cit. 223)

 

Vì vậy, khi vua Hàm Nghi khẳng định trong Dụ 'Thiên hạ Cần Vương'? rằng "Phàm những người đã được cùng dự chia mối lo này, tưởng cũng đã biết cả." (Bản dịch của Chu Thiên, Thơ Văn Yêu Nước nửa sau thế kỷ XIX [1858-1900]. Nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội, 1976, 522), thì Ðức Thái hoàng Thái hậu Từ Dũ phải được kể? là một người 'dự chia mối lo' quan trọng vào bậc nhất!? Ðó là chưa kể đến chuyện, vài tháng sau khi Toàn quyền Paul Bert qua thay Tướng de Courcy vào đầu năm 1886, bà đã ủy cho ông Phan Tôn, con ông Phan Thanh Giản, vô Sài gòn vận đông việc sửa đổi lại hiệp ước, dành cho người Pháp rộng quyền ở Bằc Kỳ để đổi lại sự tự trị tối đa cho Trung Kỳ, nhưng không thành (Devillers, op. cit., 322-334; Nguyễn Thế Anh, Monarchie et fait colonial au Viet-Nam [1875-1925]. Paris: Éditions L'Harmattan, 1992, 135-143). Cuộc vận động này có thể là một cố gắng tiếp tục tìm kiếm một trong những thế hòa mới mà NVT, ít lâu sau ngày Kinh thành thất thủ, đã trình trong một bản tấu không đề ngày lên Tam Cung:

 

"Rằng biết nhu biết cương lo đến cái thời và sự vật để tính kế ngày nay thì chỉ lấy vẻ mặt tươi cười mà chờ nắm tay hung bạo, mở sự thành thực để thông suốt đá cứng.? Tuy không có thể được mạnh nhưng còn có thể được lâu.? Nhà Chu dời về phía đông còn có hiệu lệnh thể thống gì mà có thể kéo dài việc phụng thờ tới 300 năm, chẳng phải là không dùng đường lối ấy chăng." (Bản tấu 'Bề tôi có tội là Nguyễn Văn kính tâu' )

 

Tóm lại, nếu mọi sự xảy ra như vậy thì những câu chuyện nói ông Thuyết ép vua Hàm Nghi đi, đòi chặt đầu vua khi vua đòi về, hay vua nhắn với một linh mục nhờ quân Pháp giải thoát vua, đều là các câu chuyện 'tiếu lâm' chẳng khác gì chuyện NVT tư thông với bà Học Phi để rồi đầu độc vua Kiến Phúc mà chạy tội.? Các chuyện này hầu hết đều do các thừa sai Pháp dựng ra vì mục đích chính trị.? Vì vậy, không phải vô cớ mà ông Khâm Sứ Rheinart, một tay thực dân nặng ký, sau khi nhận được quá nhiều tin tức tương tự do các vị này cung cấp, đã phải ghi trong nhật ký của mình:

 

". . .Những tin tức do các vị thừa sai cung cấp không bao giờ chính xác và thường hay không đúng sự thật. [Les renseignements donnés par les missionnaires ne sont jamais précis et sont souvent inexacts.]"? ("M. Rheinart . . .". BAVH, số 1 & 2, 1943, 33).

 

Charles Fourniau, trong một công trình nghiên cứu rất giá trị và công phu mới ra năm 2002 dẫn trên, đã tóm lược nguyên nhân quan trọng của các sự hiểu lầm của người Pháp về Việt Nam do các vị thừa sai gây ra, như sau:

 

" . . . phần chủ yếu của những kiến thức ít ỏi mà người Pháp có về nước này được cung cấp do các thừa sai của Hội Truyền Giáo Hải ngoại [Société des Missions étrangères] ở rải rác trong nhiều vùng trong vương quốc, đôi khi đã từ nhiều năm, và nói tiếng Việt. Nhưng nguồn tin tức đó thường đáng nghi ngờ [souvent douteuse].? Rigault de Genouilly đã nếm cái kinh nghiệm độc ác [cruelle expérience] do sự sai chậy của các tin tức do 'các ông ấy' ['ces Messieurs'] cung cấp, và đã biết cách hồ nghi. Bonard, cũng vậy, và còn có thái độ thách thức đối với họ.? Mặc dầu vậy, hình dung tổng quát mà người ta quan niệm về nước An Nam vẫn phản ảnh cái hình dung mà các thừa sai đã và? tiếp tục cung cấp cho họ.? Như thế, các thừa sai nuôi dưỡng mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 19 cái ý niệm một sự đối nghịch lưỡng phân, làm nền móng cho chánh sách của Pháp: sự đối nghịch giữa Bắc Kỳ và Trung Kỳ .. .và? sự đối nghịch giữa dân chúng và các quan lại. . . . Ý niệm Bắc Kỳ bị Trung Kỳ đàn áp là tiếng vọng của mối thù hiềm của những kẻ hướng về nhà Lê còn sót lại, mà các giáo sĩ đã ủng hộ. Còn về sự đối nghịch giữa quan và dân, mà nói chung cũng đã được giới thực dân xem như là chân lý vĩnh viễn . . . đã không còn giá trị nữa trước nạn ngoại xâm.? Dù sao, các quan niệm méo mó đó đã trở nên thuận lợi cho kẻ xâm lăng được đưa đến với sứ mạng giải phóng cho một số dân chúng bị áp bức, trong lúc chờ đợi 'giải phóng' Bắc Kỳ.? Do vậy, các ý niệm đó trở thành trường cữu, mặc dầu kinh nghiệm trái ngược lại. Rồi kinh nghiệm này lại bị làm sai lạc bởi sự khinh bỉ hầu như là phổ thông mà quân nhân và công chức Pháp bày tỏ đối với dân chúng Việt Nam . . . ." (Fourniau, Vietnam, 103-4, NQT dịch và nhấn mạnh)

????????????????????????????????

III.? Sự ngụy tạo, bỏ sót và bóp méo tài liệu trong việc bôi lọ Nguyễn Văn Tường

 

A.? Vua Hàm Nghi mạt sát Nguyễn Văn Tường qua "Chiếu Cần Vương 2" ?

 

Trong chiến dịch chống quan lại Việt chống Pháp, người thực dân có thể đã không ngần ngại sử dụng tư liệu ngụy tạo để ly gián và bôi lọ hai ông phụ chánh Tường và Thuyết.? Ðó là trường hợp bản 'Chiếu Cần Vương'? đề ngày 11 tháng 8 năm Ất Dậu [19-9-1885], thường được gọi là 'Chiếu Cần Vương 2'. Theo Giáo sư sử học Trần Viết Ngạc, văn kiện này được tác giả Capitaine Ch. Gosselin ghi chú trong phần phụ lục của cuốn Le Laos et le protectorat francais [Paris, 1990,? 320-326], với nhan đề 'Bản tuyên cáo được nhân danh vua Hàm Nghi phát đi trong nước Nam, sau khi vua dời khỏi Huế'? [Proclamation lancée en Annam au nom du roi Ham-Nghi après son départ de Hué].? ("Có hay không 'Chiếu Cần Vương' đề ngày 11 tháng 8 Ất Dậu'.' Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2[36].2002, 127). GS Ngạc đã khảo chứng tư liệu này, và đưa ra nhiều nhận xét rất tinh tường về tính cách giả mạo của nó: 'Gosselin không nêu xuất xứ nguyên bản cũng như không cho in nguyên bản chữ Hán' (Ibid., 128);? Bản văn chứa đựng nhiều sai lầm về hình thức mà một 'chiếu'? phải tuân theo, như chiếu thì chỉ có thể là của vua, chớ không thể do ai viết nhân danh vua; Bản vằn dùng danh từ 'An Nam', chứ không phải Ðại Nam để chỉ quốc hiệu, và mở đầu với ngày tháng ban hành, trái với thông lệ là ngày tháng để ở cuối.? Về nội dung, bản chiếu mắc phải nhiều sai lầm không thể chấp nhận được trong một văn kiện long trọng như vậy của vua, như thời điểm Pháp chiếm các tỉnh miền Tây Nam kỳ là 1862 thay vì 1867;? Việc thiêu hủy cái ấn vua Tàu xảy ra nhân hiệp ước 1883, thay vì 1884; Quân Pháp đóng ở Hoàng thành, thay vì ở một góc của Kinh thành; Vua Hàm Nghi không thể dùng chữ 'tiên đế'? để chỉ vua Tự Ðức; Bản văn kết thúc với những cụm từ không đúng với thông lệ trong một chiếu; Bản chiếu không hề được nhắc nhở đến trong cuốn L'Empire d'Annam, mà chính tác Gosselin xuất bản 4 năm sau, 1904, nơi mà đáng lý một văn kiện quan trọng như vậy phải được bàn tới; Các nguồn tư liệu quen thuộc khác như Ðại Nam thực Lục, Hạnh thục ca, Vè thất thủ kinh đô, Ðại loạn năm Ất dậu đều không hề đề cập đến bản chiếu này. (Ibid., 127-131)? Và GS Ngạc kết luận:

 

"Một tư liệu rất quan trọng lại chỉ do một nguồn thông tin cung cấp một bản dịch, không ghi rõ xuất xứ, không trưng ra nguyên bản, có quá nhiều sai lầm cả hình thức lẫn nội dung và chính người công bố lại không công bố 4 năm sau đó trong một cuốn sách đáng ra phải công bố, đủ để cho chúng ta khẳng định rằng tư liệu đó không đáng tin chút nào." (Ibid., 131)

 

Nội dung bản chiếu, ngoài việc kêu gọi nhân dân giúp vua chống Pháp xâm lăng, nói là Hội đồng Cơ mật có trù liệu là sau khi tấn công Pháp, nếu thắng thì NVT sẽ đón vua ra Nghệ An, Hà Tĩnh còn Tôn Thất Thuyết thì ở lại diệt hết luôn người đạo, bằng nếu thua thì cùng ra với vua mưu đồ khôi phục;? nhưng NVT đã phản phúc, lén vào Nhà Thờ Kim Long, rồi đánh lừa dụ vua về . . . Chiếu cũng cho biết thêm là hiện vua ở Ấu Sơn, Hương Khê. Chiếu được công bố gần 2 tuần sau khi NVT đã bị đi đày, và gần 1 tuần sau khi tin vua Ðồng Khánh lên ngôi đã được công bố, và vua đã được đưa vào Cung chờ làm lễ tấn tôn, mà không đả động gì đến các biến cố quan trọng này cả. (Xem bản chiếu đăng trong ?Việt - Sử của Tăng Xuân An,? 81-2, do Võ Ðức Hạnh dẫn, op. cit., 1404; hay Phan Trần Chúc, Vua Hàm Nghi. Nhà Xuất bản Thuận Hóa, 1995, 120-123)? Vì vậy, cũng theo sử gia Ngạc, chiếu Cần Vương giả hiệu nói trên "hình như chỉ có một mục đích là thóa mạ hết lời, hết chữ Nguyễn Văn Tường"? và gọi ông là "tên yêu quái, tên gian giảo, hèn mạt và giả dối, phản phúc!"? (Ibid., 129, NQT nhấn mạnh)? LM Delvaux? đã có khai thác bản chiếu này để mạt sát 2 ông Tường Thuyết, nhưng cũng có vẻ không tin gì lắm ở xác tính của nó,? vì? chính tác giả có đặt câu hỏi rằng, trong lúc vua đang bị lùng bắt mà chiếu lại nói vua hiện ở Ấu Sơn, thì? có phải đó là "một sự khiêu khích để khinh miệt phe địch, hay là một sự khôi hài để phá hỏng cuộc truy nã của họ?' ' ("Quelques précisions. . ." . BAVH, Ibid., 283, 293). Gần đây Devillers có đề cập đến chiếu đó, viện dẫn từ sách của Tướng Prud'homme (Devillers, op. cit., 308), nhưng chỉ lưu ý đến khía cạnh kêu gọi chống Pháp mà thôi.? Tính cách ngụy tạo của bản chiếu càng thể hiện rõ hơn nữa, khi chính tác giả Gosselin trong cuốn sách ra sau 4 năm, không những đã không nhắc nhở gì đến cái chiếu này, trong đó nói NVT có nhiệm vụ đưa vua đi Nghệ An theo quyết định của Viện Cơ mật, mà còn nói mình không biết rõ NVT nghĩ gì sau khi từ giã Ðức Cha Caspar ở Nhà Thờ Kim Long:

 

" Thật rất khó cho chúng tôi đưa ra một tài liệu, văn kiện gì để yểm trợ cho giả thuyết của chúng tôi, và chúng tôi rất ngần ngại đưa ra một ý kiến chính xác hơn, bởi vì tố cáo một người ở địa vị như vậy là đã phản lại vị vua của mình, mà chức chưởng của mình làm mình có bổn phận bảo vệ, là một chuyện rất hệ trọng."? (Gosselin, L'Empire, op. cit., 208).

 

Một điểm đáng lưu ý nữa ở đây là cuốn Le Laos et le protectorat francais của Gosselin trước đó đã được Hàn Lâm Viện Pháp khen thưởng [couronné], mà nay công nhận là nó có chứa đựng một văn kiện giả mạo thì cũng khó ăn , khó nói, chi bằng 'phớt lờ'? đi thì tiện hơn. Mặc dầu không 'ăn khách'? lắm, bản chiếu giả hiệu ấy đã có ảnh hưởng tai hại đến uy tín của NVT, vì nó có thể đã làm cơ sở để một số sử gia cho NVT là tham lam, gian xảo, phản phúc. Việc tai hại hơn nữa là sử gia ta sau này thường lầm lẫn chiếu Cần Vương giả hiệu này, đề ngày 11-8 Hàm Nghi 1 (19-9-1885) với một dụ đề ngày 2-6 năm Ất Dậu (13-7-1885) của vua Hàm Nghi ban hành từ Tân Sở, Quảng Trị khoảng một tuần sau ngày thất thủ kinh đô. Văn kiện thực này được chính sử xác nhận là dụ 'thiên hạ cần vương' (ÐNTL, XXXVI,? 221, 225), nhưng nguyên văn bản dụ không được đăng ra, như 2 dụ gởi NVT và hoàng tộc, có lẽ vì nội dung chống Pháp quá mạnh mẽ và lộ liễu của nó. Nguyên văn chữ Hán của dụ thiệt này, theo GS Ngạc, ''chỉ do một nguồn tư liệu duy nhất cung cấp là Trung Pháp chiến tranh tư liệu, tập 7. Chu Thiên dịch và in trong cuốn Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ XIX với nhan đề 'Hàm Nghi đế chiếu'. [ ] Cũng từ nguồn tư liệu trên, một bản dịch khác của Lê Thước, nhan đề 'Chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi' in trong phần phụ lục cuốn Bài ngoại liệt truyện [bản dịch] của Phan Trọng Mưu." (Ngạc, Ibid., 127)

 

?Sự lẫn lộn đó có thể khiến cho một số sử gia vô tình? tố cáo NVT là phản vua Hàm Nghi dựa trên một văn kiện giả mạo mà không biết. Thật vậy, việc chính tác giả Gosselin đã mặc thị phủ nhận tính cách trung thực của dụ Cần Vương II đã không ngăn cản biết bao sử gia đã dùng nó để mạt sát NVT phản vua, phản nước.? Sự chêm vào sử những tư liệu ngụy tạo như vậy cũng đưa đến hậu quả là sự tiền hậu bất nhất, lúc khen lúc chê NVT, trong những sử sách viết theo cách chắp nối, tài tử, thiếu sự phối kiểm cũng như sự phân tích, tiêu hóa và tổng hợp tài liệu.

 

B. Dụ Vua Tự Ðức 'khâm phục Công giáo' ?

 

Văn kiện giả mạo nói trên có thể đã được các viên chức Pháp thực dân, phụ trách việc phản gián, ngụy tạo ra để ly gián hai ông Tường, Thuyết, hay ly gián triều đình ở lại và triều đình lưu vong.? Ngoài ra, thời điểm văn kiện ngụy tạo được tung ra, non hai tuần sau khi NVT bị đưa đi đày, cũng có thể nói lên dụng ý bôi lọ NVT? là phản vua Hàm Nghi, hầu giảm bớt phản ứng bất lợi trong dân chúng cho phía Pháp.? Liền sau khi NVT bị bắt đưa đi thì ngày 10-9-1885, báo Avenir du Tonkin của phe Ðức Cha Puginier cũng đăng tin là vua Hàm Nghi bị đau nặng, hay đã bị đầu độc chết, hầu làm dễ dàng việc đưa vua Ðồng Khánh lên ngôi. (Delvaux, 'Quelques précisions. . .' .BAVH, Ibid., 277) Trong một cuộc chiến dai dẳng hàng chục năm trời, dùng mọi loại phương tiện, quân sự cũng như chính trị, sự ngụy tạo văn kiện do phe thực dân thực hiện, để vu cáo, hay đánh lạc hướng đối phương, không phải là một biệt lệ. Các ông Brière de l'Isle và Silvestre trong 'nhóm Hà Nội'? đã từng sử dụng phương tiện này, dưới nhiều hình thức, để buộc tội 2 ông phụ chính vi phạm hiệp ước, như dùng một cái văn kiện cho trưng thu gạo có ấn triện của? Triều đình, để chứng minh là Triều đình mật thông với quân Tàu. (S.O.M. A0 [72] 2/1885, dẫn do Fourniau, Annam-Tonkin, op. cit., 29, ct. 31).? Ngoài ra, cũng có trường hợp tính cách giả mạo của một tư liệu được nhận định tương đối dễ dàng hơn.

 

?Sử gia Mỹ Mark W. McCleod (The Vietnamese Response, op. cit., 89-95), chẳng hạn, đã nêu ra trường hợp một bản dụ do tác giả LM Phan Phát Huồn viện dẫn để chứng minh rằng vua "Tự Ðức ca tụng lòng trung thành của người công-giáo và công nhận là người công-giáo đã bị vu oan."? (Phan-Phát-Huồn c. SS. R, Viêt-Nam Giáo-Sử, Quyển I [1533-1933]. Saigon: Cứu Thế Tùng Thư, 1965, 513)? Vị linh mục kể rằng, sau khi một vụ loạn Văn thân bị diệt, thì có tin đồn rằng vua Tự Ðức lên Kim Long rửa tội, vô đạo Công giáo và sẽ giết tất cả những người không theo đạo. Rồi tác giả đưa ra khẳng định nói trên về sự thay đổi căn bản trong thái độ của vua Tự Ðức đối với đạo Ky Tô.? Sự thay đổi thái độ đó đã được suy diễn ra từ những đoạn sau đây trong một dụ của Vua Tự Ðức:

 

"Cách đây vài năm Pháp và Tây-Ban-Nha đã đến chiếm cứ đất đai của chúng ta, để kháng cự lại, chúng ta tất cả đã phải chịu bao nỗI khó khăn, các quan tâu với Trẫm rằng: 'Chính bọn Công-giáo vì không được tự-do giữ đạo đã cầu cứu hai nước ấy ' do đó, các ông bảo phải phân sáp, phải giam tù tất cả những người công-giáo để tránh một tai họa lớn lao.? Vì báo cáo sai lầm và đầy mâu thuẫn tình thế lại bấp bênh, Trẫm không biết đâu là sự thật, không biết phải nghe ai, nên Trẫm và các quan đại thần đã dùng những biện pháp nghiêm ngặt." (Phan Phát Huồn, op. cit., 510-1, NQT nhấn mạnh; người viết dẫn nguyên văn của tác giả Huồn, thay vì dịch đoạn Anh ngữ từ sách của McCleod, t. 90); hoặc:

 

"Phần các người công-giáo, Trẫm nhận rằng: Công-giáo ở vào một tình thế đau đớn, nhưng dù sao sự trung thành của công-giáo đối với Ðạo và luật nước làm Trẫm hết sức khâm phục." (Phan Phát Huồn, op. cit.,? 512)

 

Theo McCleod, không ai có thể phủ nhận sự đúng đắn của khẳng định đó của vị linh mục, nếu bản dụ nói trên có thật.? Tuy nhiên, tính cách xác thực của văn kiện đó rất đáng nghi ngờ.? Vì những tư tưởng nói trong dụ đó không phải là tư tưởng quen thuộc của vua, trước cũng như suốt thời chiến tranh với Pháp, tưởng linh mục tác giả có bổn phận tiết lộ nguồn gốc xuất xứ của bản dụ đó.? Nhưng việc đó, vị linh mục đã không làm, ngay cả ngày tháng dụ được ban hành cũng mù mờ: 'sau lúc khám phá được âm-mưu của Văn-Thân' (Huồn, op. cit., 510) tức, theo linh mục, có thể là sau vụ nổi loạn của thí sinh kỳ thi năm 1864 ở Huế.? Một số từ ngữ lạ lùng, khác thường và các mâu thuẫn văn hóa càng làm cho sự xác thực của bản dụ đáng nghi ngờ hơn. Thật vậy, vào cuối thế kỷ 19, vua Tự Ðức không thể dùng chữ 'Công giáo' để chỉ? Ky Tô Giáo La Mã, và 'người Công giáo'? để chỉ người Việt theo đạo này. Danh từ này mới được dùng về thời đại sau này, do chính người theo đạo Ky Tô đặt ra, với ý nghĩa rằng đó là một đạo của mọi người, đón nhận tất cả mọi cá nhân, đoàn nhóm, quốc gia chớ không phải chỉ dành cho một đoàn thể, quốc gia nào riêng biệt. Ý nghĩa đó đi ngược lại quan điểm của vua quan Việt Nam hồi thế kỷ 19, coi đạo Ky Tô như là 'tà thuyết'? [heterodox doctrine] riêng rẽ của các nước Tây phương, và liên kết chặt chẽ với cuộc xâm lược quân sự của họ chống lại Việt Nam. Về phương diện triết lý, một hoàng đế Việt Nam của thế kỷ 19 không thể dùng danh từ công giáo để chỉ đạo này, mà không thừa nhận nguyên tắc tôn giáo đa nguyên. Mà làm như vậy có nghĩa là phủ nhận sự bất khả phân giữa đạo đức Khổng Mạnh và quyền lực chính trị, cái nguyên tắc chính trị làm nền tảng căn bản cho vương quốc. Như vậy, gán vào miệng một vị vua Việt Nam của thế kỷ 19 danh từ công giáo là một sự bất hợp thời thật phi lý.? (McCleod, op. cit., 90-1). Quan điểm của sử gia McCleod về vấn đề danh vị này được chính sử nhà Nguyễn xác nhận, vì sau đó, vào gần cuối năm 1874, vua Tự Ðức:

 

"Chuẩn cho dân đi đạo đổi gọi là giáo dân, dân đi lương đổi gọi là bình dân. [Từ trước đến nay, dân theo đạo, hoặc gọi là dữu dân, hoặc gọi là tả -? đạo, từ khi bỏ cấm, bỏ các chữ dữu, chữ tả chỉ gọi đơn giản bằng chữ đạo.? Gần đây cứ lời khâm sứ đóng ở kinh nói rằng: lương, đạo đều gọi, chưa khỏi sĩ nhục giáo ấy.? Ðã chuẩn cho quan ở nha Thương bạc đem nghĩa 2 chữ ấy trả lời, nói: lương là an thường thủ phận, không làm gian ác. Ðạo là khuyên người làm lành, không làm bất chính 2 chữ đối nhau, văn nghĩa giống nhau, lại tốt xấu gì, đạo gọi là đạo mà lương không gọi là lương thì gọi là gì? Rồi sứ ấy đã biết chữ lương không thể bỏ được, lại yêu cầu phàm những người theo giáo ấy gọi là nghĩa dân, đức dân, quan ở nha Thương bạc cho là sứ ấy đã nói nhiều như thế, xin gọi là giáo dân. Vua y cho, nhân chuẩn cho dân lương cũng đổi gọi là bình dân]". (ÐNTL, XXXIII, 122-3, NQT nhấn mạnh)

 

?Sử gia McCleod viết tiếp rằng, như vậy, cái dụ, nói là của vua Tự Ðức, có thể là:

 

. . .một bản dịch ra tiếng Viêt, do tác giả Huồn thực hiện, của một văn kiện gọi là sắc dụ được công bố trong bản dịch ra tiếng Pháp của Annales de la propagation de la Foi, tập XXXVIII, 1865.? Cái văn kiện được công bố trong đó được trích từ một bức thơ của Linh Mục Bernard gởi cho Ðức Cha Sohier vào tháng 9 năm 1864.? LM Bernard không cung cấp ngày tháng chính xác hay một bản chính của bản dụ để so sánh với bản dịch của ông.? Dù sao, đặt tin tưởng vào sự xác thật của bản văn kiện tiếng Việt, do Phan Phát Huồn đưa ra như là một sắc dụ do vua Tự Ðức sáng tác, quả? là một chuyện nguy hiểm. (McCleod, op. cit., 91, NQT dịch và nhấn mạnh)

 

Thật vậy, nộI dung 2 đoạn trích dẫn nói trên của LM Huồn nằm trong bản dịch tiếng Pháp [trang 326 và 328] của 'Sắc dụ của Tự Ðức ưu ái giáo dân ' [ÉDIT DE TU-DUC EN FAVEUR DES CHRÉTIENS] kèm theo thơ ngày 17-9-1864 của LM Bernard gởi Ðức Cha Sohier.? Sắc dụ dài cả 10 trang, từ trang 325 đến 334, chỉ gồm bản văn mà không nói gì đến bất kỳ chi tiết gì khác cho phép phối kiểm được xuất xứ của nó. Bức thư dài 8 trang (t.318-325) cũng không cho biết gì thêm về? sắc dụ này, ngoài việc nói rằng, sau vụ nội loạn:

 

" Nỗi sợ hãi của vua không kéo dài lâu, và được thay thế bằng một sự phẫn nộ mà kết quả đầu tiên là cái sắc dụ mà tôi gởi cho ngài. Ðó là một văn kiện quan trọng, có thể được xem như là một sự công bố tự do tôn giáo: nó đã có một tác dụng vô cùng to lớn trên mọi tâm khảm, và ngài cần cho phổ biến. Tôi gởi nó cho ngài bằng tiếng An Nam; xin ngài thân hành dịch nó ra tiếng Pháp." (Annales de la Propagation de la Foi, Tome trente-septième, 1865, 323-4)

 

Ngoài ra, bức thư của Cha Bernard còn chứa đựng khá nhiều tin tức dựa vào lời đồn đãi và tưởng tượng hơn là sự thật. Thật vậy, trong lúc chính sử nhà Nguyễn kể rằng trong vụ loạn Hồng Tập này do vị linh mục tường thuật, Phủ Doãn Thừa thiên là NVT và Phủ Thừa là Nguyễn Hữu Dương vì "biết trích phát ra bọn gian, đều thưởng gia một cấp và cho mỗi người 1 cái nhẫn nạm vàng khảm hạt pha lê lóng lánh ", (ÐNTL, XXX, 156)? thì thơ LM Bernard lại nói ngược lại: Rằng vua " trách mắn gắt gao các ông ở phủ Thừa thiên [gourmanda vertement ces messieurs de la préfecture] vì đã không nghe theo các khiếu nại của tôi, và vì đã không biết gì đến vụ âm mưu, và vụ này sẽ không được ai hay biết nếu không có lời kêu nài của tôi' ' ; và vua? "cách chức viên phủ doãn vì đã không báo cáo gì cho ngài biết cả ' ' (Il cassa le préfet [le phu doan] pour ne l'avoir averti de rien );? còn " viên phủ thừa [sous-préfet], thuộc vào hàng ngũ phản động, mất chức và nhận 15 roi: bây giờ con người này mà, năm ngoái, đã chất vấn Ðức Cha, sẽ chết trong ngục." Rồi sau khi tường thuật việc trừng phạt các hoàng thân và quan lại đã âm mưu với Công Tử Hồng Tập để diệt đạo và giết các quan đóng vai quan trọng trong việc ký kết hiệp ước 1862, vị thừa sai Pháp kết luận :

 

?" Sự sợ hãi đã trở qua với người tà đạo; chúng nói rằng Trời có uy quyền mạnh, rằng người đạo Ky tô được vua thương mến, rằng vua muốn rửa tội và giết chúng như đã giết người đạo vậy; chúng lo sợ, và để cho chúng ta yên." [La peur a passé chez les paiens; ils disent que le Ciel est puissant, que les chrétiens sont aimés du roi, que le roi veut se convertir et les tuer comme il a tué les chrétiens; ils craignent, et nous laissent tranquilles.] (Annales, ibid., ?320, 324-5).

 

Mặt khác, về phía? Việt Nam, không thấy một văn kiện nào của vua Tự Ðức, trong Ðại Nam Thực Lục, Tự Ðức Thánh chế văn tam tập, hay Hợp tuyển thơ văn yêu nước của Chu Thiên, có nội dung tương tự như bản sắc dụ của LM Bernard. Trái lại, đúng như McLeod đã xác nhận sau khi phân tích các dụ ban hành về sau vào các năm 1874 và 1875 của Tự Ðức, nhà vua không có thay đổi ý kiến đối với bên đạo, mà vẫn chia xẽ với giới văn thân mối tin tưởng rằng đạo Ky Tô là một 'tà đạo'.? Nhưng nhà vua bị bó buộc phải diệt những người sát đạo là vì Triều đình có bổn phận thi hành hiệp ước 1862 mà mình đã ký với Pháp cho phép hành đạo. (McLeod, op. cit., 91-5)

 

Dù sao đi nữa, những văn kiện như loại đã kể có thể góp phần không nhỏ vào việc ly gián vua Tự Ðức và giới Văn thân, làm cho giới này đánh giá một cách nông nổi chánh sách của nhà nước, và càng thêm tin tưởng sai lầm rằng Triều đình đã đầu hàng Pháp với những khẩu hiệu như " Phan Lâm phản quốc, Triều đình khi dân ".? Mặt khác, căn cứ vào những tin tức như vậy, nhiều sử gia đã ngay tình phê phán rằng nhà vua chỉ thích văn chương thơ phú, còn về việc trị nước thì chỉ biết 'đánh võ rừng ' chứ không có đường lối, chánh sách gì để giữ nước cả. (Về sách lược chống Pháp của vua, xin xem bài 'Nguyễn Văn Tường và sách lược chống Pháp dưới Triều Nguyễn ' đã dẫn)? Trong vụ này, những kẻ 'chủ chiến' trong hoàng tộc, Triều đình, và dân gian, vì lòng yêu nước bồng bột, đã nổi loạn vì không thấu hiểu được lý do thầm kín tại sao vua đã bị bó buộc phải cho ký Hiệp ước 1862. Những việc làm sau đây chứng tỏ rằng vua Tự Ðức không phải là một ông vua nhu nhược, hay ngây ngô, bất tài vô tướng như sử sách thực dân đã mô tả. Việc đại quân của ta tập trung ở quanh vùng Sài Gòn dưới quyền của vị tướng tài ba nhất là Nguyễn Tri Phương đã thất bại trong việc giữ đất, và đồn Kỳ Hòa xây dựng với biết bao công của đã thất thủ, chứng tỏ rõ rệt ta không cón hy vọng gì đánh lấy lại các tỉnh miền đông bằng phương tiện quân sự. Với sự chiếm đóng các tỉnh miền đông, người Pháp đâu có để cho ta yên. Họ phong tỏa các cửa biển, ngăn cản đường trạm, việc thông thương, và chuyên chở tài nguyên trù phú, nhứt là lúa gạo, từ miền đông cũng như miền tây Nam kỳ ra Trung và Bắc. Ðồng thời, loạn Lê Duy Phụng, do các giáo sĩ? Y Pha Nho yễm trợ, bành trướng rầm rộ và dữ dội ở miền đông Bắc Kỳ.? Tình hình an ninh toàn quốc đã trở nên bi đát, hăm dọa đến cả sự tồn vong của quốc gia và triều đại. Sau khi ngầm để cho hai ông Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ký Hiệp ước 1862 để tạm hòa hoãn với Pháp, vua phủ nhận việc làm của hai vị đại thần này về bề ngoài để thoa dịu phe chủ chiến, nhưng nhân đó cho kéo đại quân của Nguyễn Tri Phương từ Nam Kỳ ra dẹp loạn ở Bắc.? Ðại quân của Triều đình đã phải vất vả nhiều năm mới bắt được Lê Văn Phụng, đem lại trật tự cho đất nước, và giữ vững được chế độ. Ðồng thời vua cho thương thuyết với Pháp xin chuộc lại các tỉnh đã mất. Cuộc điều đình đã đưa đến kết quả khá khả quan với tạm ước Aubaret. Theo tạm ước đó, Pháp bằng lòng trả lại các tỉnh đã chiếm, và Việt Nam thỏa thuận dành cho Pháp quyền tự do thông thương buôn bán? trên các sông Sài gòn, mở một số hải cảng cho tự do thương mãi, bồi thường chiến tranh, và cho tự do hành đạo. Giới thực dân và một số lớn các thừa sai Pháp đã mở một chiến dịch sâu rộng và quyết liệt để phản đối tạm ước này, nên Hoàng Ðế Nã Phá Luân đệ Tam đã thay đổi ý kiến và không phê chuẩn nó. Aubaret, người đã cùng ông Phan Thanh Giản soạn thảo tạm ước, tin tưởng chân thành rằng nó sẽ cho phép phía Pháp thực hiện mọi mục tiêu của mình một cách hòa bình, không phải tốn kém tài sản và nhân mạng: đem lại ánh sáng văn minh của người da trắng qua việc trao đổi thương mãi, và đem lại ánh sáng phúc âm cho ngưới Việt với sự tự do hành đạo.? Mặc dầu Aubaret là một người Công giáo nhiệt thành, muốn đem lại một sự hợp tác thân hữu thật sự giữa hai dân tộc Pháp Việt có lợi ích cho cả đôi bên, ông ta đã bị giới thực dân, và nhứt là các giáo sĩ Pháp, mạt sát thậm tệ vì việc làm này.? Ông Phan Thanh Giản, một vị đại thần đã 'chấp nhận vai trò phạm nhân' để giúp nước nhà thoát qua cơn hiễm nghèo, mặc dầu về sau đã tuẩn tiết để tỏ lòng trong trắng và trung nghĩa của mình, vẫn bị sử sách phê phán một cách oan nghiệt là chủ bại, đầu hàng, bán nước. (Về vấn đề này, xin xem chi tiết ở Fourniau, Việt Nam, op. cit., 91-160; và McCleod, op. cit.,? 41-59)

 

C.? Vừa đánh giặc ở đất Bắc, vừa bị giáng chức vì dân kiện ở Thừa Thiên?

 

Từ năm Tự Ðức 21, 1868 đến Tự Ðức 26, 1873, NVT được điều động đánh giặc dẹp loạn ở Bắc. Năm 1868, khi đang làm bang biện Thành Hóa, NVT được cử sung chức tán tương quân vụ đi theo 3 đoàn quân, do Ðô Thống Ðoàn Thọ tiết chế, ra Bắc dẹp loạn quân nhà Thanh bên Tàu tràn sang cướp phá. Tán tương là một "Chức quan được bổ nhiệm đến một đơn vị quân sự để hợp đồng thực hiện mệnh lệnh khẩn cấp của cấp trên, có nhiều trường hợp như phái viên Nhà nước, nhưng cũng có nhiều khi ở luôn đơn vị ấy với tư cách tham mưu." (Trần Thanh Tâm, Quan chức nhà Nguyễn. Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1999, 252)? Khoảng đời quân vụ này của NVT không được sử sách Pháp Việt thời Pháp thuộc biết đến.? Thay vì tường thuật những đóng góp, thành công và thất bại quan trọng của ông trong nhiệm vụ dẹp loạn liên hệ đến vận mạng đất nước, sử sách hầu hết chỉ nói như là ông đang đền tội, sau khi bị dân kiện, như thực dân đã dựng ra; hay là đền tội sau khi bị cách chức phủ doãn vì vụ loạn Chày Vôi, với nhiệm vụ bang biện, thấp hơn tri huyện, ở Thành Hóa, nơi ma thiêng nước độc; hoặc làm một việc gì khác, không rõ ràng và đáng kể, hay bị cho về vườn. Ðây cũng là một trường hợp cách biệt giữa hai cách viết sử: một, dựa vào tài liệu thứ ba, thứ tư của người Pháp thực dân, hai, dựa vào tài liệu gốc hoặc sát gốc, như thơ văn, tấu sớ của chính nhân vật lịch sử đó, hay bộ Ðại Nam Thực Lục, chính sử của nhà Nguyễn, cái triều đại mà chính nhân vật lịch sử đã phục vụ suốt đời mình. Vì vậy, quãng đời quân vụ? của NVT, mà rất ít người biết đến, sẽ được trình bày sau đây, rồi so sánh với những gì sử sách quen thuộc, bị thực dân chi phối, thường nói để tỏ rõ sự thiên lệch, cố ý bôi lọ, của nền sử học thực dân.

 

Ðược vua Tự Ðức cử ra Bắc với chức tán tương, NVT đã phục vụ khắp nơi ở chiến trường đông bắc, Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên, và Bắc Ninh. Có khi thì ông cầm quân ra trận, khi thì bàn định kế hoạch quân sự trong bộ tham mưu của các đô thống? Ðoàn Thọ, Võ Trọng Bình, Hoàng Kế Viêm, khi thì tiếp xúc với quân tướng nhà Thanh lúc ở đất Tàu, lúc ở đất Việt theo lệnh vua Tự Ðức, để cùng hoạch định mưu lược dẹp quân phản loạn Trung hoa, biến thành giặc cướp, từ Lưỡng Quảng tràn sang.? Khi thất trận, NVT đã từng bị khiển trách, cách chức, rồi khi thắng trận lại được khai phục và khen thưởng, cũng như hầu hết mọi đồng nghiệp của ông.? NVT luôn luôn chấp nhận sự thưởng phạt như là một phương lược cần thiết để khích lệ sự cố gắng hầu thực hiện mục tiêu công ích, như ông đã trình bày lên vua là 'sấm sét hay mưa móc thảy đều ngụ ý sinh thành. (Bản tấu lên Tự Ðức ngày 17 tháng 6 nhuận năm Tự Ðức 26, 1873)? Giai đoạn lịch sử này, mặc dầu chính sử chỉ tường thuật các sự kiện một cách khô khan, rời rạc, và vắn tắt, có thể được xem như là một bằng chứng hùng hồn cải chính mọi luận cứ xuyên tạc bội lọ của phe thực dân về sự bất lực, hèn nhát của quan quân Việt. (ÐNTL, XXXI, XXXII, passim) Thật vậy, chỉ kể? sau vài năm chiến đấu, vào mùa xuân năm Tự Ðức thứ 23, 1870, lúc tướng nhà Thanh là Phùng Tử Tài [chỉ huy quân Tàu được phái sang để cùng dẹp giặc Cờ Ðen, Cờ Vàng, và Cờ Trắng . . .], rút quân về cửa quan vì tình hình đã tạm yên, quân đội Việt có thể đã chết đến độ hai mươi lăm phần trăm [25%], giống như quân đội Tàu được phái sang, (ÐNTL, XXXII, 32) gồm khá nhiều quan lại văn võ cao cấp, trong quân thứ do Triều đình cử ra cũng như tại địa phương, chưa kể những kẻ bị thương tích hay bệnh hoạn. Số quan lớn hy sinh tính mạng không phải là hiếm, có người chết vì đánh trận, như Tổng thống Ðoàn Thọ ở Lạng Sơn (Ibid., 61), Tri phủ Nguyễn Thận ở Hưng Hóa (ÐNT L , XXXI, 330), Phó Lãnh binh Vũ Văn Phùng ở Bắc Ninh (XXXII, 46), Phó Vũ học Hoàng Hữu Tài (Ibid., 94), người thì tự tử sau khi bị bắt mà không chịu đầu hàng giặc, như Ðề đốc Phan Bân (Ibid., 11), Án sát Hoàng Tạo ở Cao Bằng (Ibid, 46), Lãnh binh Lê Văn Dã ở Lạng Sơn (Ibid.I, 61, 72).? Thật là bao nhiêu anh hùng vô danh mà đáng lẽ sử sách ngày nay phải đề cao!

 

Trong bối cảnh loạn lạc, đầy nguy biến, bất trắc suốt 5 năm ở miền biên giới Việt Bắc, NVT đã chiến đấu với tất cả bầu nhiệt huyết của một kẻ sĩ ý thức đầy đủ nhiệm vụ của mình với vua, với nước. Lòng trung quân ái quốc của ông đã được biểu lộ trong một số bài thơ bằng chữ Hán mà các tác giả Trần Viết Ngạc, Trần Ðại Vinh, và Vũ Ðức Sao Biển đã sưu tầm, phiên âm, và dịch. (Kỳ Vĩ Quận Công Nguyễn Văn Tường Thi Tập. Tài liệu đánh máy trình bày ở HNNVTDHSP96; Hoàng Liên, "Một cuốn thơ'.' Văn Học, số 129 & 130, 22-32).? Trước nỗi cơ cực của đồng bào đất Bắc vì nạn cướp bóc lúc đó, NVT đã than thở: Bốn thành cỏ lúa sờn kêu khóc. Rồi ông nhận thức ngay nhiệm vụ của mình khi mới vừa đến Lạng Sơn là lo cho dân chúng khỏi bị áp bức:

 

?????? Tuy nhiên lòng chó sói,

??????? Há để kề bên hông.

??????? Bọn ta thẹn ngồi không

??????? Kẻ nào đáng hưởng lộc

??????? Nguyện cùng nhau lo toan

??????? May dân khỏi bức bách.

 

Cũng ở Lạng Sơn, hồi tưởng lại chuyến du hành vừa qua vào Gia Ðịnh đàm phán với Pháp, ông mơ ước diệt hết quân xâm lăng:

 

???????? Diệt hết lũ cừ khôi,

???????? Khỏi ô uế bờ cõi.

???????? Dẹp loài ranh khác tộc,

???????? Nam bắc cùng một mối.

 

Vốn lạc quan và dầy nhiệt huyết, ông khao khát chiến thắng cuối cùng:

 

???????? Bao giờ sông núi ghi công đó

???????? Chẳng phụ giang sơn mấy nỗi niềm.

 

Sau 5 năm lặn lội trên một chiến trường gian nan và bế tắc ở miền biên giới Việt-Hoa, nơi giặc cướp lúc ẩn lúc hiện, ông đã nhận định nhiệm vụ phức tạp và khó khăn của mình:

 

???????? Năm năm bảy lượt trẫy sông Xương,

???????? Cam chịu gian truân mấy đỗi đường,

???????? Cứu hiểm chẳng rành tài sông nước,

???????? Lái cầm chưa vững cột buồm rung.

???????? Việc đời cuồn cuộn vời con nước,

???????? Bế tắc lòng tôi đọng tợ sương.

 

Sau đây là một vài chiến trận thử thách khả năng quân sự của một người gốc là văn quan như NVT. Vào mùa thu năm Tự Ðức thứ 23, 1870, thành Lạng Sơn bị giặc họ Tô đánh úp ban đêm. Lãnh binh Lạng Sơn Lê Văn Dã, và Tổng thống đạo quân thứ Thái Nguyên Ðoàn Thọ bị giặc giết. Tổng thống đạo quân Lạng, Bằng Võ Trọng Bình cùng Tuần vũ Lạng Sơn Ðặng Toán và Tham Tán NVT vượt qua thành chạy, bơi qua sông đến họp với Tán lý Ông Ích Khiêm và Án sát Lạng Sơn Hoàng Tướng Hiệp. Hai ông Khiêm và Hiệp mới dẫn quân về đến Kỳ Lừa, sau khi đem đại binh đánh sào huyệt giặc ở Nà Dương rồi? nghe tin thành Lạng có biến. Mất thành, Võ Trọng Bình bị vua Tự Ðức cách chức, tạm cho hàm hồng lô tự khanh, NVT bị giáng xuống hàm trước tác, Ðặng Toán xuống làm Thị độc, đều được giao cho tổng đốc Bắc Ninh tùy nghi sử dụng. Sau đó, NVT được vua chuẩn cho quyền sung chức Tán tương, và sai viết quốc thư trao cho Tuần phủ Quảng Tây và Ðề đốc Phùng Tử Tài, yêu cầu trợ giúp đắc lực hơn. (ÐNTL, XXXII, 61-2) Vào cuối thu năm ấy, đầu mục giặc Tô Quốc Hán, theo lời phủ dụ của quan quân ta, xin ra hàng và trả lại thành Lạng Sơn.? Thống đốc quân vụ đại thần Hoàng Kế Viêm và NVT cùng Nguyễn Bính và Nguyễn Huy Kỷ, vì có công chiêu dụ, đều được vua khen thưởng, cho gia cấp, và tặng mỗi người một đồng kim tiền. (ÐNTL, XXXII, 81)? Vào đầu năm sau, giặc đã ra hàng rồi, lại nổi lên lại, vây thành Lạng Sơn và quấy nhiễu Bắc Ninh.? Phó Vũ học Hoàng Hữu Tài, do quân thứ phái, đánh nhau với giặc và bị chết trận.? NVT được Thống đốc Hoàng Kế Viêm ủy cho đem hơn hai ngàn quân, hợp lại cùng với quân thủ dõng của Bố chánh sứ Bắc Ninh là Phạm Thận Duật, đánh nhau với giặc ở xã Tiên Dược, huyện Kim Anh.? Bọn giặc tan vỡ.? Sau chiến thắng khá lớn này, NVT được vua cho khai phục hàm Quang lộc tự khanh; Hoàng Kế Viêm và Phạm Thận Duật được thưởng quân công. (ÐNTL, XXXII, 94)? Vào cuối xuân năm Tự Ðức thứ 25, 1872, NVT cùng phó Ðề đốc Trần Mân, Tham tán Ông Ích Khiêm dẹp tan giặc trốn từ Trung quốc sang ở đồn Thanh dã, Thái nguyên, và được thăng thưởng. (ÐNTL, XXXII, 189)

 

Tinh thần hợp tác, cũng như khả năng và nhiệt tâm chiến đấu của NVT, đã được vua và các đồng nghiệp nhìn nhận.? Thật vậy, sau khi đoàn quân thứ đến đất Bắc được ít lâu, và NVT đang giữ chức tham tán quân thứ Tuyên Quang, thì được vua y cho ở lại quân thứ Lạng Sơn để bàn tính kế hoạch, theo lời xin của Thống đốc Võ Trọng Bình. (ÐNTL, XXXI, 325) Tổng đốc Sơn, Hưng, Tuyên Nguyễn Bá Nghi cũng tâu vua rằng Tán tương quân thứ Tuyên Quang Nguyễn Văn Tường giỏi giang hiểu biết, xin cất lên chức đốc phủ. (ÐNTL, XXXI, 330-1).? Vua Tự Ðức lại rất? tin cậy vào tài giao thiệp của NVT nên đã ủy thác cho ông việc thương thuyết với tướng Tàu Phùng Tử Tái.? Vào mùa thu năm Tự Ðức thứ 22,? 1869, tuân lệnh vua, Võ Trọng Bình và NVT bàn với họ Phùng gấp đem quân đến Thái Nguyên, Bắc Ninh, Sơn Tây, và Tuyên Quang để cùng đánh giặc thổ phỉ. (ÐNTL, XXXI, 357) Khi tướng họ Phùng mang quân đi Thái Nguyên từ nơi nghỉ quân là Bắc Ninh, Võ Trọng Bình và NVT, với sự chấp thuận của vua, đã tiễn đưa đến tỉnh Thái rồi mới về lại Bắc Ninh.? Vào muà xuân năm Tự Ðức thứ 23, 1870, vua sai Võ Trọng Bình cùng NVT yêu cầu tướng họ Phùng tiến quân ngay đến thành Tuyên Quang để cùng dẹp giặc, và họ Phùng đã sốt sắng nghe theo.? Vua ngợi khen Bình, Tường giỏi về ứng đối, đặc cách cho chuyên sung việc hộ dẫn, theo bàn mưu kế đánh dẹp vỗ về. (ÐNTL, XXXII, 11) Ðược tin Tổng trấn Tàu Quan Tùng Chi đau chết, vua Tự Ðức ủy cho NVT làm Khâm mạng phúng điếu bạc 200 lạng, và một số quí vật như trầm hương, quế Thanh, và 3000 lạng bạc cho các quân doanh nước Thanh. (ÐNTL, XXXII, 30).? Sau khi quân Tướng Phùng rút về, vì tình thế đã tạm yên, NVT tâu vua công việc cần làm về sau là nên chọn lọc quan văn võ thanh liêm, mẫn cán bổ nhiệm vào các chức vụ tổng đốc và đề đốc ở mỗi tỉnh, và cấp cho 500 quân tinh nhuệ. Quan tốt và chính, theo NVT, thì dân kính nể và không có phản nghịch lớn.? Ở Hà Nội thì ông thấy cần một kinh lược đại sứ, được cấp cho 2000 quân tinh nhuệ. Vị quan này phải là người có lòng công bằng, chính trực, và tài cai trị với uy vọng lớn như Nguyễn Tri Phương. (ÐNTL, XXXII, 31-2) Ý kiến này về sau được vua áp dụng cho thành Hà Nội. Nhưng không bao lâu thì tình hình? sôi động lại tái diễn.? Quân phiến loạn, lâu nay trốn về lại Tàu, hoặc ẩn núp trong vùng núi rừng, lại xuất hiện và cuộc chiến kéo dài.

 

Ðầu năm Tự Ðức 26, 1873, thống đốc Pháp ở Nam Kỳ gởi thơ yêu cầu lập hiệp ước mới, hầu hợp thức hóa việc nhượng giao 3 tỉnh miền Tây.? Ðình thần cho là việc ấy chắc không phải do quốc trưởng Pháp quyết định, nên xin cho sứ bộ sang Pháp hỏi rõ rồi sẽ liệu biện.? Vua y theo và, nhận thấy khả năng ngoại giao của NVT, cho triệu ông về Kinh đợi tham gia phái bộ, cùng với Kinh lược Lê Tuấn.

?

D.? Sử thực dân bỏ lơ thời gian Nguyễn Văn Tường đánh giặc ở Bắc

 

Bouinais và Paulus, trong sách dẫn trên, xuất bản năm 1885, trong một bản tiểu sử của NVT, không cho biết dựa vào nguồn gốc, xuất xứ nào, (mặc dầu, như đã nói, ông có thể đã dựa vào tài liệu mật vụ giữ trong văn khố Pháp, CAOM, Amiraux, F44, 11785, hồ sơ số 7) đã kể rằng từ 1867 đến 1873, NVT vẫn làm doanh điền sứ tại Quảng Trị, rồi đổi qua làm Tham Tri bộ Lễ, rồi làm phó sứ trong phái bộ đi Sài gòn điều đình với Pháp.? Mặc dầu Bouinais không nói rõ NVT đổi qua bộ Lễ lúc nào, chính sử cho biết rằng khi NVT được triệu hồi từ Bắc về thì mới được tạm cho hàm? Tham Tri? để tham gia sứ bộ Lê Tuấn đi vào Nam. (ÐNTL, XXXII, 304)? Như vậy có nghĩa là theo Bouinais, từ 1867 đến 1873, NVT bị đày ở Cam Lộ để đền cái tội nịch chức của người tiền nhiệm, mà y đã gán cho NVT.? Sự sai lầm ấy tiếp diễn dài dài về sau, mãi cho đến ngày nay. Tác giả Cosserat đã ghi lại nguyên văn tiểu sử ấy của sách Bouinais trong tập san của Ðô Thành Hiếu Cổ [BAVH, số 3, 1924, 278-9] như đã nói trên.? Gần đây, trong cuốn Những nhân vật lịch sử nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, các nhà biên soạn cũng nói rằng NVT làm Khâm phái tại Quảng Trị suốt 7 năm, từ 1866, lúc ông bị giáng chức vì vụ loạn Ðoàn Trưng khi làm phủ doãn Thừa Thiên, cho đến khi được cử làm phó sứ vào Sài gòn thương thuyết về vụ Francis Garnier năm 1873, không biết gì đến việc ông đánh giặc ở Bắc trong gần suốt cả thời gian đó. (Tôn Nữ Quỳnh Trân, chủ biên, TPHCM: Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 1993, 242) Rồi mới đây, trong một bộ sử tương đối có giá và đứng đắn, nghiên cứu đúng qui tắc dựa theo nhiều tái liệu gốc và đầu tay, như Ðại Nam Thực Lục, Mục Lục Châu bản, và? văn khố Pháp, tác giả Vũ Ngự Chiêu cũng quên thời gian quân vụ của NVT, và chỉ nói, có lẽ dựa theo văn khố Pháp đã dẫn trên, rằng hồi 1862, NVT về làm việc ở Bộ Công; rồi chịu tang cha khá lâu.? Mãi tới năm 1867 mới ra làm quan trở lại,? giữ việc trị nông ở Quảng Trị.? Năm 1869, Tường về Bộ Lễ.? Năm 1873 . . . Tường làm Phó sứ vào Sài-gòn dàn xếp vụ Dupuis . . . (Các vua, op. cit., 317).? Phải đợi đến năm 2002, trong một cuộc hội thảo ở Huế về nhân vật này, mới xuất hiện một 'Niên biểu Nguyễn Văn Tường [1824-1886]'? tương đối đầy đủ và chính xác, dựa vào gia phả gia đình NVT và Ðại Nam Thực Lục, của? tác giả Lê Tiến Công, Ðại học Khoa học Huế. (HTNVTHUE02, 141-149)

 

Lý do của sự sơ sót này của sử gia ta cũng khá dễ hiểu.? Tài liệu gốc của ta bị mất mát quá nhiều.? Châu bản các triều Nguyễn chỉ tìm được lại may lắm độ gần một phần năm, và trong số đó phần đã được khai thác, xếp đặt để cho độc giả sử dụng, còn quá ít ỏi. Còn về? tài liệu đầu tay là bộ Ðại Nam Thực Lục thì bản dịch ra từ chữ Nho chỉ mới hoàn thành vào năm 1978.? Các bộ Ðệ Tứ, Ngũ, Lục liên quan đến các triều từ Tự Ðức đến Ðồng Khánh đều được soạn xong dưới thời Pháp thuộc, nhưng? rất ít người dùng, vì lẽ không còn mấy người biết chữ Nho, và Triều đình, vì lý do chính trị, chỉ dùng các bộ sử trong nội bộ, và không phổ biến ra ngoài, để cho các học giả được dễ dàng sử dụng. Riêng bộ Ðệ Lục kỷ liên quan đến thời Ðồng Khánh, thì sự phổ biến có phần rộng rãi, vì vào thời này mọi sự đã được Nam Triều làm và viết theo ý muốn của người Pháp rồi, không có gì cần giấu giếm.? Các sử gia thường dùng cuốn Quốc Triều Chính Biên Toát? Yếu của Cao Xuân Dục, là cuốn sử đã tóm lược một cách quá vắn tắt toàn bộ Ðại Nam Thực Lục? 38 cuốn.? Sử gia Trần Trọng Kim, khi viết về một giai đoạn lịch sử rất quan trọng, như các năm trước và sau ngày thất thủ kinh đô, có chú giải rằng " Những truyện trong Triều lúc bấy giờ phần nhiều là lấy ở quyển "Hạnh Thục Ca . . .", (op. cit., 220, ct. 171), tức một bài vè, chớ không phải từ Thực Lục!? Dùng Ðại Nam Thực Lục phải mất rất nhiều công phu.? Bộ sử không phải dễ tìm, vì ở Mỹ bản dịch ra Việt ngữ chỉ có lưu trữ ở Thư Viện Quốc Hội, và độ 5 đại học, (Berkeley, Cornell, Michigan [Ann Arbor], Washington [Seattle], Hawai). Rồi việc một số cuốn trong toàn bộ bị thất lạc là chuyện thông thường, và vấn đề đi đến thư viện để đọc tại chỗ cũng hết sức tốn kém.? Cuộc đời NVT được ghi chú rải rác trong cuốn 23 rồi từ cuốn 27 cho đến 38, mỗi cuốn trung bình 350 trang.? Như vậy, lấy tiểu sử làm sẳn trong sách nào đó, Tây hay Việt gì cũng gọn cả, đỡ công biết bao nhiêu. Mà sách của Pháp thì nhiều vô số, nhứt là sách của Giáo hội Công giáo.? Sử gia Chiêu đã phải than thở rằng tài liệu về các thiệt hại bên đạo thì đầy dẫy, mà không thấy sách nào nói về thiệt hại bên lương. (Các vua, Tập 2, op. cit., 496, ct. 85) Thật là 'cái khó bó cái khôn' của sử gia một nước nghèo!? Rồi còn vấn đề viết sử theo đúng qui tắc, với đầy đủ lương tâm chức nghiệp, có giúp cho người viết sống nổi không??

 

Tóm lại, cái vòng lẩn quẩn do sự chậm tiến của quốc gia đã tác hại biết bao đến danh dự, uy tín của tiền nhân ta nói chung cũng như riêng của NVT.

 

?E. ?Nguyễn Văn Tường vi ước, hiếp Vua , và ăn hối lộ của nhà buôn Tàu?

 

Năm 1874, NVT đã ký các hiệp ước chính trị và thương mãi với Pháp, chính thức hóa việc nhường đất Nam kỳ, để: Thu hồi 4 tỉnh Bắc Kỳ; Nước nhà khỏi phải tiếp tục trả số bồi thường chiến phí hàng năm cho Pháp; Nhận được 5 chiếc tàu chiến và một số khá nhiều súng trường và đại bác của Pháp tặng; Ðược Pháp bảo vệ chống ngoại xâm hay nội loạn nếu Việt Nam yêu cầu; Và, trên hết, giữ được chủ quyền ở Trung và Bắc kỳ, hầu thực hiện sách lược 'hòa để thủ, thủ để mưu chiến', mà NVT đã từng đề nghị lên vua.

 

1. Ngăn trở việc thi hành hiệp ước 1874 đã ký?

 

?Sau đó, NVT đã được vua Tự Ðức tin dùng và ủy cho phụ trách công tác ngoại giao, tài chánh, và an ninh quốc gia, để thực thi sách lược đó trong trường kỳ. Với tư cách Thương bạc viện đại thần phụ trách về ngoại giao, NVT? áp dụng chiến thuật hòa hoãn, lúc nào cũng 'chịu nhục' nhẫn nhịn, mềm dẽo, vồn vã tươi cười với 'rợ Phú', nhưng không bao giờ để cho Pháp lấn áp và xâm phạm? vào chủ quyền của Triều đình. Với tư cách là thượng thư bộ Hộ, NVT đã giúp vua? thi hành kế hoạch sơn phòng, phối hiệp việc phát triển kinh tế, khai khẩn đất hoang với việc phát triển những căn cứ quân sự ngầm trong rừng núi, cải tiến chế độ thuế khóa hầu tăng gia tài nguyên để chế tạo và nhập cảng võ khí tân tiến và canh tân binh đội.? Về phía Pháp thì sau khi hiệp ước 15-3-1874 được Quốc hội Pháp phê chuẩn, Rheinart được cử làm Ðại lý Ðại sứ (Chargé d'affaires) tại Huế để theo dõi việc áp dụng hiệp ước. Rheinart, một sĩ quan hải quân chuyển qua ngạch hành chánh, là một viên chức rất tự phụ, kiêu ngạo, và kiên trì trong việc lấn hiếp để áp đặt một nền bảo hộ trên phần đất còn lại của nưóc Ðại Nam. Ông Ðại lý muốn buộc vua quan áp dụng hiệp ước theo ý ông, nghĩa là chịu sự bảo hộ của Pháp, nhưng NVT đã cương quyết và khéo léo từ chối mọi đòi hỏi đi quá hiệp ước.? Vì vậy Rheinart rất bất bình với NVT và nguyền rũa quan Thương bạc thậm tệ trong nhật ký và thư từ của ông. Trong phúc trình gởi Thống đốc Nam kỳ ngày 30-11-1881, ông Ðại lý Pháp nói: "Trở thành thủ lãnh phe cứng rắn, chính Tường đã xúi dục Tự Ðức bất chấp hiệp ước 1874, làm cho cuộc bang giao ngày càng suy thoái." (AOM Aix, Amiraux 12940, dẫn do Tsuboi, Yoshiharu, L'Empire vietnamien face à la France et la Chine, 1847-1885. Paris: L'Harmattan, 1987, 235, NQT dịch) . Rồi trong một bức thư sau, ngày 15-1-1883, ông nói thêm:

 

?" . . . Vai trò của Ðại lý [ở Huế] sẽ hoàn toàn vô dụng trong một thời gian lâu dài, bới vì người ta chỉ chỉ chịu nhượng bộ trước vũ lực mà thôi . . . Về phần tôi, thật rất hết sức khó cho tôi, hơn bất kỳ ai hết, để kiếm được bất kỳ một chút nhân nhượng nào.? Tôi đã gặp quá nhiều khó khăn với Triều đình, trong thời gian đầu tiên ở Huế, và từ lúc đó, ông thượng thư bộ Hộ [Nguyễn-Văn-Tường], người hiện có uy thế và ảnh hưởng nhất đến vua, chống đối tôi một cách đặc biệt, sau rất nhiều cuộc cãi vã với tôi." (Livre jaune. Affaires du Tonkin, Phần 2, 12-1882 đến 1883, 68 & 69; dẫn do Delvaux, Adolphe, "La légation de France à Hué et ses premiers titulaires". BAVH, số 1, 1916, 45).

 

Thái độ trịch thượng của Rheinart bị vua Tự Ðức công khai tố cáo sau khi ông Ðại lý cùng một đoàn tùy tùng lên vùng Dương Xuân, Nguyệt Biều, nơi được xem như là long mạch của nhà Nguyễn, dẫy đất định làm sứ quán. (Về sự lộng hành của Rheinart, xem Cao Huy Thuần, op. cit., 217-242)

 

Vì chính phủ Pháp lúc đó chưa chủ trương nới rộng cuộc chinh phục ra Trung và Bắc Kỳ nên ít lâu sau, gần cuối 1876, cử Philastre ra thay thế Rheinart.? Philastre, hay Hoắc Ðạo Sinh, là người đã cùng với NVT đóng góp nhiều nhất vào việc giao hoàn các tỉnh Bắc Kỳ bị Garnier chiếm, và việc soạn thảo, ký kết các hiệp ước 1874. Trái hẳn với Rheinart, Philastre chủ trương áp dụng hiệp ước một cách đúng đắn, và tôn trọng chủ quyền của Triều đình. Ông đã viết cho Thống đốc Nam kỳ rằng:

 

"Cái hiệp ước mà chúng ta đã ký sẽ không cho phép chúng ta tham gia vào các cuộc âm mưu chống lại chính phủ hiện tại mà không khỏi mang tiếng là bất chính, vả lại hành động của chúng ta sẽ không có mảy may hy vọng thể hiện với khá đủ bảo đảm để nó khỏi bị khám phá tức thì." (AOM Aix, Amiraux 12865 [2], Philastre, Hué, 11/1878, dẫn do Tsuboi, L' Empire, op. cit., 91, ct. 118, NQT dịch).

 

Với Philastre, NVT và Triều đình hưởng được một thời gian tương đối dễ thở hơn cho đến giữa năm 1879 thì Philastre, khi ấy mới 42 tuổi, xin hồi hưu và về Pháp.(Tsuboi, op. cit., 91-2) Lúc đó, nước Pháp đã hồi phục sau cuộc bại trận 1870, phe thực dân được lần hồi thắng thế trong quốc hội và chính phủ Pháp, và xu hướng muốn can thiệp quân sự vào Bắc Kỳ càng ngày càng thịnh hành dần.? Trái với hầu hết mọi đồng nghiệp của mình, Philastre phản đối việc xâm chiếm Bắc kỳ và trình bày với Thống đốc Nam kỳ rằng:

 

". . .sự can thiệp của chúng ta ở đó chỉ làm cho chúng ta càng trở nên thất nhân tâm và bỉ ổi hơn."? (Ibid., 90)

 

2. Nguyễn Văn Tường lộng quyền, lấn vua?

 

Pháp cử Rheinart trở lại Huế thay Philastre. Chính sách lấn áp của Rheinart bây giờ thích hợp hơn ở nhiệm kỳ trước của y, vì tình thế đã xoay chiều thuận lợi cho sự nới rộng cuộc chinh phục thuộc địa. Và Rheinart được cấp nhiều phương tiện hơn để làm áp lực với Triều đình.? Trong vòng một hai tháng sau khi đến Huế, Rheinart đã tăng cường nhân viên văn phòng một cách mạnh mẽ. Ông ghi trong nhật ký ngày 30-8-1879 rằng:

 

"Sứ quán cần canh cải: thêm một phó sứ và cả một đoàn nhân viên bản xứ với một chỉ huy, để nghiên cứu người và vật. Hiện bây giờ, sứ quán bị cô lập và chẳng làm được gì cả."?? [Légation à modifier: ajouter un adjoint et tout un personnel indigène avec chef, pour étudier gens et choses. En ce moment elle se trouve isolée et ne peut rien.] ????('M. Rheinart . . .' BAVH, Ibid., 64 , NQT dịch và nhấn mạnh).

 

Với số lượng nhân viên tăng cường này, Rheinart và các kẻ kế vị tìm cách mua chuộc và lũng đoạn hàng ngũ vua quan và hoàng thân quốc thích.? Sách Pháp viết thời đó có kể chuyện các ông hoàng bà chúa, mặc dầu có lệnh vua triệt để cấm lai vãng trước sứ quán Pháp, đã thay hình đổi? dạng lẽn vào toà sứ, để xin chữa bịnh theo tây y, vì đông y ta không hiệu nghiệm.? Nhân khi chẫn bịnh, một số những người trong hoàng tộc trình bày hoàn cảnh cơ cực của họ, sự keo kiệt của vua Tự Ðức, và sự nghèo túng xơ xác của họ, gián tiếp nói khéo là họ sẵn sàng làm việc cho phía Pháp để lấy thù lao. Qua sự trung gian của các người này, sứ quán Pháp thu dụng được một số 'nhân viên mật vụ'? nằm trong hàng ngũ các nhân vật lớn trong Triều. (Deschannel,? Paul, La question du Tonkin. Paris: Berger-Levrault et Cie, 1883, 348-350)? Rheinart cũng có ghi trong nhật ký, và báo cáo lên thượng cấp là mình đã nhận được tin tức quan trọng do một hoàng tử, với bí danh là 'B.', ?cung cấp. ("M. Rheinart . . .".BAVH, Ibid., 94-5,, 99, 100, 104, 124-5, sẽ được bàn nhiều trong một dịp khác)? Ðồng thời, Rheinart dò xét? các hoàng thân có cơ kế vị vua Tự Ðức, và tìm cách chính thức xen vào vấn đề thừa kế ngôi vua, nhân danh nghĩa vụ bảo hộ của nước Pháp, vì theo điều 2 hiệp ước 1874, Pháp có bổn phận giúp Việt Nam chống ngoại xâm hay nội loạn, nếu Việt Nam yêu cầu. Vị Ðại lý quả quyết với quan Thương bạc rằng Pháp sẽ dành quyền làm kẻ thi hành di chúc của vua [son exécuteur testamentaire] và yêu cầu vị quan trình vấn đề lên vua để cho y biết ý kiến. Không được quan Thương bạc thỏa mãn, Rheinart đặt thẳng vấn đề với vua Tự Ðức nhân khi gởi thơ để chúc mừng sinh nhật của mẹ vua. Vị sứ Pháp cũng tỏ ra rất lo lắng về việc Hoàng tử Dục Ðức, người đã bị Pháp mua chuộc, phạm lỗi lầm làm cho ông thất sủng, và hai hoàng tử trẻ, Tríu và Mến [sẽ là Ðồng Khánh và Kiến Phúc] là em ruột cùng mẹ của dâu của NVT, sẽ có thể lên ngôi.? Rheinart ghi rằng Pháp chỉ có thể chấp nhận một ông vua hoàn toàn độc lập với Thượng thư bộ Hộ NVT, và nhất thiết không cho ông Tường giữ bất kỳ một chức vụ gì, dù là công khai hay bí mật. (Ibid., 86, 120, 128,? & ct. 1 của Sogny, 138).

 

3.? Ăn hối lộ của người Khách lãnh trưng mỏ than Quảng Nam?

 

Vì vậy, Rheinart tìm cách gởi thơ thẳng cho vua Tự Ðức, vu cáo NVT ăn hối lộ của nhà buôn Tàu về việc đấu thầu khai thác mỏ than Quảng Nam.? Hành vi thô bạo đó bị Triều đình tố cáo với Thống đốc Nam kỳ.? Sau đây là nguyên văn lời tường thuật của chính sử:

 

"Sứ nước Pháp nghe nói tỉnh Quảng Nam có mỏ than [Khách buôn lãnh trưng], yêu cầu xin đến khám: chưa cho, sứ ấy lại thác ra việc mật đưa thẳng lên vua, nhằm gièm quan viện bạc đại thần [NVT, NQT ct.], [trong thư nói: có người bất trung, bất công, đến nỗi ngờ nước ấy có ý gì khác, lấy nhiều của lót giả ơn của người nước Thanh; lại nói: người cho lái buôn nước Thanh khai mỏ ấy chỉ mưu lợi cho mình, không làm lợi cho nhà nước], quan viện bạc xin đưa thư cho chủ súy Pháp, và sao bức thư của sứ ấy ghim vào gởi đi, để cho biết sứ ấy có sự không phải, để khỏi nghe một bề về sau. [ ] Vua bảo rằng: nay nếu đem lời nói không phải của hắn, không khỏi bênh nhau bỏ đi, ích gì đến ta; thế là đều không nhịn sự giận nhỏ, để lỡ việc lớn, không phải là khéo xử. Nên mật tư từ đầu cuối việc ấy giao cho Nguyễn Thành Ý? [Khâm sai đại diện Triều đình tại Sài gòn, NQT ct.,] theo thế nói cho chủ súy hắn biết." (ÐNTL, XXXIV, 341, NQT nhấn mạnh)

 

Ði sâu hơn, vấn đề này nằm trong khuôn khổ chính sách kinh tế thuộc địa của người Pháp lúc bấy giờ. Từ 1875, Rheinart đã từng lưu ý tới các mỏ than gần cửa biển Hải Phòng và mỏ kim khí ở một số tỉnh Bắc Kỳ. Vào năm sau, 1876, 2 người Pháp, Epistolier và Pepbau tìm ra thêm 4 mỏ than ở Bắc Kỳ. Người Pháp đã có ý muốn dành độc quyền khai thác các hầm mỏ này cho mình, nên rất tức tối nhận thấy rằng từ 1878, Chiêu Thương Cuộc, [China Merchant Steamer Navigation Company, sẽ bàn sau], một công ty bán công bán tư của người Tàu, cũng như doanh nhân Ðức, cạnh tranh với doanh nhân Pháp xin khai thác các mỏ than này ở đất Bắc. Sự giận dữ này biến thành một sự thù nghịch thật sự khi nghe tin doanh nhân Tàu Châu-thin-muc xin Triều đình cho lãnh trưng khai thácmỏ than Nông sơn ở Quảng Nam trong 28 năm với giá 190.000 quan tiền. (Tsuboi, op. cit., 260-1; ÐNTL, XXXIV, 169) Tin này khiến cho Rheinart phản ứng một cách đột ngột và thô kệch như vậy: tố cáo với Vua Tự Ðức rằng NVT ăn hối lộ của người Khách lãnh trưng có thể là một phương kế của y để ám hại NVT, đồng thời để loại trừ sự tham gia của người Tàu ra khỏi ngành hầm mỏ, hòng dành quyền lợi cho doanh nhân Pháp.? Tuy nhiên, Triều đình, vì lý do an ninh, không muốn cho doanh nhân Pháp vào làm ăn trong nội địa Ðại Nam, nhứt là trên vùng thượng du Bắc Việt để rồi nhân đó âm mưu xúi giục nội loạn. (ÐNTL, XXXIV, 328) Hơn nữa, thái độ lộng hành và trịch thượng của người Pháp, nói chung, và Rheinart, nói riêng, trong lúc họ chuẩn bị xâm chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai, đã làm cho vua quan lo sợ, và tìm cách đề phòng bằng cách hạn chế sự hiện diện của người Pháp tại mọi nơi trong nước.? Rút cục, Triều đình đã chiếu theo tiền lệ cho kẻ nào trả giá cao nhất được trúng thầu, và vào mùa Xuân 1881" Người buôn nước Thanh là Lương Văn Phong lãnh trưng mỏ than ở Nông Sơn ở Quảng Nam. [Trưng luôn 28 năm cộng số tiền thuế là 311.500 quan]." (ÐNTL, XXXV, 14, NQT nhấn mạnh) Trước đó, người Tàu cũng đã được lãnh trưng mỏ than tại nhiều nơi khác, như Ngô Nguyên Thành ở Quảng Yên. (Ibid., 114)? Vào đầu năm 1883, De Champeaux phàn nàn với thượng cấp rằng Pháp đã bỏ lỡ mất cơ hội khai thác mỏ than Quảng Nam, để cho nó lọt vào tay người Tàu, và khẩn khoản yêu cầu có biện pháp ngăn chận cụ thể về sau, vì tính cách tối quan trọng của than đá về phương diện quân sự, và kinh tế. (AOM Aix, Amiraux 12972, Champeaux gởi Thống đốc Nam Kỳ, Huế, 10-2-1883, dẫn do Tsuboi, op. cit., 262)? Vì vậy, Ðại tá Rivière, sau khi chiếm Hà Nội vào tháng 4 năm 1882, đã được lệnh canh chừng mỏ than Hòn Gay. Ðầu năm sau, 1883, công ty Tàu khai thác mỏ than Nông Sơn lại xin Triều đình lãnh trưng luôn mỏ than Hòn Gay. Rivière liền chiếm Hòn Gay vào giữa tháng 3 1883, để ăn chắc. (Tsuboi, op. cit.,? 261-2)? Mọi sự đã sáng tỏ, khi Ðại tá Rivière giải bày lý do chiếm Hòn Gay với thống đốc Nam Kỳ như sau:

 

" Vì nhận được thư của ông Rheinart về việc vịnh Hòn Gay và các mỏ than, vì nhu cầu cần hành động gấp, nếu ta không muốn rằng các hầm mỏ đó, mà Triều đình Huế sắp nhượng cho một công ty Tàu lớn ở Quảng Ðông, sẽ lần lượt được nhượng lại cho một công ty Anh, hay nói khác cho nước Anh, vì những tin tức rất chính xác mà ông Roque thân đến cho tôi biết, và những tin này phù hợp với những chỉ dẫn của ông Rheinart, để giảm thiểu những hậu quả tai hại, theo ý tôi, của dự án phân chia Bắc Kỳ với Trung quốc, trong đó ông Bourée hình như phải bỏ miền 'Bắc Kỳ mỏ' cho Tàu, mà ta thì giữ miền 'Bắc Kỳ gạo', tôi đã quyết định chiếm đóng vịnh Hòn Gay . . ." (Thơ gởi Thomson ngày 17-3-1883, trong Masson, Correspondance politique du Commandant Rivière au Tonkin, 1933, 198, dẫn do Fourniau, Vietnam, op. cit., 321, NQT dịch và nhấn mạnh; Xem thêm thơ Rheinart gởi Rivière ngày 2-2-1883, CAOM, Indo, GGI, Etat Major, Cabinet Militaire, Archives historiques, 1883, số 9)

 

Roque là một trong 2 anh em sáng lập các công ty lớn ở Nam Kỳ khai thác việc đóng và sửa tàu thủy, cùng sự chuyển vận trên sông lạch miền Nam, và ngoài biển Thái bình dương: Hải-phòng, Hồng Kông, Ðà Nẵng. Tự nhiên, nhóm tư bản này cạnh tranh với Chiêu Thương Cuộc trong việc chuyển vận cũng như việc khai thác mỏ than, một nhiên liệu tối cần cho tàu bè quân sự cũng như thương mãi thời đó. Jean Dupuis, sau khi cùng quân Pháp rút lui khỏi Bắc Kỳ, đi theo với nhóm Roque để làm ăn. (Fourniau, Vietnam, op. cit., 321-2) Tuy nhiên, ở Bắc Kỳ giới doanh thương Pháp không cạnh tranh nổi với các đồng nghiệp người Anh và các cường quốc khác, và ngay cả với người Tàu. Thật vậy, về lục cá nguyệt đầu của năm 1877, chẳng hạn, Pháp không có một chiếc tàu nào ra vào bến Hải phòng, theo báo cáo của lãnh sự Turc. Trong lúc đó thì? số tàu Anh vào là 15 chiếc, và ra là 15, với? trên 4.000 tấn hàng nhập khẩu, và trên 4.000 xuất khẩu; số tàu Ðức là 9 vào và 9 ra, với gần 3.000 tấn nhập và 3.000 tấn xuất , và số thuyền của nước Thanh là 168 vào và 131 ra, với trên 5.500 tấn nhập và trên 4.200 tấn xuất. Trong một báo cáo khác vào cuối 1881, lãnh sự Pháp ở Hải Phòng cho biết số người Tàu ở thành phố này tăng từ con số không lên 5.000, trong lúc đó số người Pháp vẫn là con số không. (Tsuboi, op. cit., 245-6) Trong bức thư ngày 6-9-1881 gởi cho người anh ruột ở Pháp, Trung úy Roget, ở Hải Phòng, đã xác nhận tình trạng đó khi mô tả quang cảnh đô thị này như sau:

 

" Chúng tôi chỉ có ở đây một mảnh nhượng điạ nhỏ với vài cái nhà, nhà chúng tôi [câu lạc bộ sĩ quan], nhà Lãnh sự, nhà Thương chánh và nhà Thương. Ðó là hết. Ngành thương mãi gồm có hai hãng Ðức, một hãng Anh, và độ một trăm nhà buôn Tàu. Về phần nước Pháp, thì được đại diện, cũng như ở mọi thuộc địa khác, bằng hai quán bán rượu tồi tàn [deux infimes mastroquets]. Nền thương mãi Pháp trong tất cả các nước này cho thấy sự tồi bại của nó, nó chỉ gởi đi những tên cướp biển [Frères de la Cộte] mà tên nào cũng trốn nợ sau khi lừa bịp đủ người, hoặc dấn thân vào một mớ kỹ nghệ ít nhiều bất hợp pháp. Do đó, chỉ mới vừa rồi có ba tay,mà một, tên là ông De Villeroi, . . . đi Vân Nam nối gót loạn quân Tàu, với môt số hàng hóa là súng đạn và một lũ Mã Lai, nhằm một mục đích không cần che đậy, là thực thi một cuộc hành quân cướp giật nho nhỏ giữa cảnh loạn lạc. Mong rằng chúng bỏ thây lại nơi đó."? ('Lettres du Capitaine Roget'. BAVH, số 3, 1932 , 290, NQT dịch và nhấn mạnh)

 

Về vụ này, sử nhà Nguyễn kể lại một cách ngay tình rằng:

 

"Người buôn nước Tây [lũ Cô, Ra, Tinh 3 người] theo đường Hưng Hóa đi Vân Nam, đền đồn Lũng Lỗ, cùng khiêu khích với đoàn quân Lưu Vĩnh Phúc rồi trở về.? Lãnh sự Pháp đem việc ngăn trở việc buôn trách ta. Quan tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa đem việc tâu lên. Vua sai quan tỉnh Hà Nội, Hải Dương hỏi nguyên ủy việc ấy biện bạch với họ, cốt cho phải nghe." (ÐNTL, XXXIV, 66)

 

Trong lúc đó thì sử học thực dân kể rằng Villeroi cùng với Courtin là 2 người Pháp đã đi thám hiểm khoa học ở miền Thượng Du và bị quân Cờ Ðen hành hạ, làm nguyên cớ khởi thủy cho vụ xâm chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai của Ðại Tá Rivière. (Fourniau, Vietnam, op. cit., 302) Jean Dupuis, người đã gây ra cuộc xâm chiếm Bắc Kỳ lần thứ nhất, cũng không kém gì Villeroi. Lúc ở Hán Khẩu, có một giai đoạn y không nói , mà cũng không ai rõ, là y làm nghề ngỗng gì trong lúc nước Tàu đang bị loạn lạc liên miên.? Sau đó, Dupuis cung cấp khí giới và chuyên viên cho Thống Chế Mã Như Long, Ðề đốc Vân Nam, một thủ lãnh loạn quân Hồi [Musulman] đã đầu hàng Triều Ðình nhà Thanh, và giết độ một triệu quân Hồi đã từng theo mình. Dupuis đã dùng thanh thế của Thống chế Mã để hăm dọa quan quân Việt Nam, và đi đôi với Garnier và quân Cờ Vàng để chiếm Bắc Kỳ. (Ibid., 237-241) Dupuis buôn bán rất dễ dàng, không cần cạnh tranh với thương gia Tàu để đấu thầu lãnh trưng gì hết. Dưới thời Vua Ðồng Khánh và Phó Vương Nguyễn Hữu Ðộ, Khâm sứ Pháp tư qua cho Nam Triều làm khế ước thẳng cho y lãnh trưng thuế sản vật đầu nguồn ở Thanh Hóa và Nghệ An, khỏi cần qua cuộc đấu thầu nào hết. (ÐNTL, XXXVIII, 105-6). Khi đóng ở Hà Nội, y chở khí giới, gạo và muối lên Vân Nam, rồi chở? đồng và thiếc từ Vân Nam qua Hồng Kông dùng đường sông Hồng,? bất chấp luật lệ cấm xuất cảng gạo và muối của Việt Nam và sự ngăn cản, phản đối? của các quan địa phương. Với cách buôn lậu công khai như vậy, y thực hiện những số lời khổng lồ. Lúc Garnier chiếm các thành ở Bắc Việt thì Dupuis được Garnier 'bồi thường thiệt hại ' với tiền bạc của cải tịch thu được trong các thành, với một số tiền thổi phồng và không cần giấy tờ chứng minh. Về sau, bắt đầu thời Pháp thuộc, y được hưởng quyền khai thác các mỏ than gần Kế Bào, cũng với danh nghĩa là được 'bồi thường thiệt hại '. Nhưng chỉ được vài năm thì doanh nghiệp này khánh tận. (Fourniau, Vietnam, op. cit., 243, 262, 656)? Tóm lại, người Pháp lúc đó không cạnh tranh nổi trên thương trường quốc tế, mà phải cần có sự bảo hộ mậu dịch bằng quyền lực chính trị. Do đó, sự vu cáo ông Thượng Thư bộ Hộ NVT ăn hối lộ của nhà buôn Tàu để dành mối lợi kinh tế bằng áp lực chính trị, chẳng có gì là lạ lùng cả.

?

Không lâu sau khi Triều đình tố cáo với Thống đốc Nam Kỳ vìệc Rheinart vu cáo NVT? về vụ mỏ than Quảng Nam, De Champeaux được cử ra thay thế Rheinart để ông này về Pháp nghỉ phép. Làm Ðại lý từ tháng 10 năm 1880 đến tháng 8 năm 1881, De Champeaux, cũng là một cựu sĩ quan hải quân chuyển qua ngành hành chánh, tiếp tục làm? áp lực với vua quan, với hy vọng biến họ thành tay sai, sẵn sàng thi hành Hiệp ước 1874 theo một chiều hướng bảo hộ về thực tế.

 

4.? Nguyễn Văn Tường bưng bít? không cho Sứ Pháp gặp vua?

 

?Vì đã từ lâu không lay chuyển được NVT,? De Champeaux tiếp tục áp dụng đường lối của Rheinart là tìm cách loại bỏ ông này, và làm áp lực thẳng vào vua Tự Ðức, bằng cách đòi cho được quyền diện kiến riêng Vua [audience privée].? NVT và Triều đình nhứt quyết từ chối, vì hiệp ước không cho phép việc yết kiến riêng, và đề nghị cho De Champeaux được gặp vua trong một buổi triều kiến long trọng chung [audience solennelle], và cần gì thì tâu lên vua như mọi quan khác. De Champeaux không chịu, vì cho rằng đại diện một đại cường quốc như mình không thể chịu quỵ lụy như vậy được, và tin rằng NVT là nguyên nhân chính yếu của sự bế tắc này.? Sau khi vận động với Cơ mật viện Trưởng? Trần Tiễn Thành để bãi chức NVT, De Champeaux? báo cáo với vị Thống đốc thượng cấp rằng:

 

"Quan thương bạc đến thăm tôi hôm qua và cho biết đã từ bỏ chức thượng thư ngoại giao . .? Tôi không ngờ đã đạt được kết quả mau chóng như vậy trong cuộc vận động nhỏ chống lại vị thượng thư ấy . . . Nhận thấy không có cách nào cải tiến cuộc bang giao chính trị, chừng nào mà ta còn phải giao dịch với vị thương bạc đó, tôi đã nghĩ cách buộc vị ấy phải rời bỏ chức vụ, và thay thế ông bằng một người ít thù nghịch hơn với ta? . . . Quan thương bạc vẫn còn giữ chức Hộ bộ thượng thư và Cơ mật viện phó.? Nhứt là với chức chưởng sau này, ông sẽ vẫn có thể chống đối chúng ta. Chúng ta còn cần phải triệt hạ ông trong tư cách ấy mới mong yên ổn được."? (AOM Aix, Amiraux 12923, Champeaux, Hué, 6/2/1881, dẫn do Tsuboi, op. cit., 236; NQT dịch và nhấn mạnh)

 

Vì vậy, vị Ðại lý Pháp tiếp tục làm áp lực mạnh hơn nữa để loại NVT ra khỏi Cơ mật viện, tung tin là NVT lấn quyền vua, bưng bít không cho vua gặp nhà chức trách Pháp, và Pháp sẽ cho chiến hạm đến Huế để buộc vua phải thỏa mãn những điều kiện mà họ đòi hỏi, tức quyền 'diện kiến', và sự cách chức NVT. LM Nguyễn Văn Hoằng, làm Chủ sự tại viện Thương bạc, chuyên việc thông dịch, lo sợ mọi sự đổ vỡ, mật trình với các quan Viện Cơ Mật và Thương Bạc lời hăm dọa của phía Pháp, để tấu trình lên vua xử trí, hầu tránh mọi hậu quả tai hại.? Vua Tự Ðức sai quan thương bạc mới thay thế NVT, là Bùi Ân Niên, đến gặp hỏi thẳng De Champeaux [không có Cha Hoằng] là câu chuyện có thật vậy hay không.? Trước sự trả lời 'ngoại giao', úp úp mở mở, lanh quanh lẹo quẹo, của vị Ðại lý Pháp, vua ra dụ quở trách cha Hoằng là 'bịa đặt để bịp', cách chức, và bắt về quản thúc tại nguyên quán ở Nghệ An. (Thơ văn Tự Ðức, Bài dụ 'Ðuổi viên hành nhân Nguyễn Hoằng', 174-8)? Vua cũng nhân dịp này mạnh mẽ trách cứ người Pháp đã không thành thật trong việc thi hành hiệp ước, và chỉ trích De Champeaux mới làm "chưa lâu gì mà đã xảy ra điều kia tiếng nọ". (Ibid., 177)? Về vấn đề Pháp đòi loại trừ NVT, theo lời của Thống đốc Nam Kỳ, thì De Champeaux có trả lời rằng: "Việc ấy chẳng phải là một điều gì bí mật cho ông đó, cũng như cho mọi người khác . . . và ông đó được xem như là người đã gây ra ở vua một ảnh hưởng tai hại, mỗi một khi mà chính phủ Pháp cố tìm cách đạt thêm được lòng tin cậy của Hoàng thượng."? (Vo Duc Hanh, Tome I, op. cit., 350, NQT dịch)? Trong lúc đó, vua Tự Ðức hỏi rằng, trong bản sớ, Nguyễn Văn Hoằng

 

"Lại còn nói rằng, người Pháp rất ghét viên Bạc thần trước là Nguyễn Văn Tường, tất rồi sẽ dùng thế lực cưỡng bách truất thoái để đẫy đi xa, vậy câu nói này là nói thế nào? [ ] Ôi! Người làm tôi ai cũng vì chủ nấy, Nguyễn Văn Tường giúp vì nước nhà, tức cũng như viên sứ Pháp giúp vì nước Pháp, cái đạo làm tôi tất phải như thế, có gì mà đáng ghét? Trước kia viên ấy tuy sung chức ở Thương Bạc, cùng với ngày nay đã giải nhiệm, song phàm việc gì đều có các quan đại thần hiệp thương rồi tâu lên mới quyết định, viên ấy có thể nào độc đoán để ngăn trở việc?? Và giả sử có thể làm độc đoán thì hạng bề tôi như vậy còn nước nào mà chẳng thích dùng? Tướng nước Pháp cũng nên ban thưởng để khuyến khích cho những kẻ làm tôi trong thiên hạ và để gương đời sau vậy.? Như Hán Cao Tổ phong cho Quý Bố và chém Ðịnh Công, Tống Thái Tổ phong tặng cho Hàn Thông và truất phế Ngạn Thăng, như thế mới hợp cái đạo trị nước, chớ khi nào lại xua đuổi bỏ đi, nếu như thế thì bao nhiêu kẻ làm tôi tha thiết vì vua mình cũng đuổi bỏ cả hay sao? Và còn lấy gì mà tỏ sự khuyến trừng? Vậy quyết nhiên không có lẽ ấy? " (Ibid., 176-7;? về câu chuyện này nói chung, xin xem thêm: ÐNTL,? XXXV, 15, 32-3;? Vo Duc Hanh, Tome I, op. cit., 349-351)

 

?5.? Nguyễn Văn Tường cho nhập cảng tiền giả để lấy của lót?

 

Thành công trong việc truất phế NVT trong chức vụ Thương bạc, nhưng thất bại trong âm mưu bãi bỏ chức Cơ mật viện phó của ông,? Ðại lý De Champeaux vẫn tiếp tục kiên trì đánh phá NVT, và bây giờ, trong nhiệm vụ Thượng thư bộ Hộ. Quả nhiên, tin đồn được rầm rộ tung ra là NVT đã ăn tiền hối lộ của thương gia Tàu bằng cách cho phép họ nhập cảng ?tiền giả ?vào tiêu ở Việt Nam.? Ðơn vị tiền tệ thời đó là đồng tiền bằng đồng, hay bằng kẽm.?? Các đơn vị này, có một lỗ vuông ở giữa, được xâu chung vào từng 600 đồng thành một quan. Mỗi quan gồm có 10 tiền, mỗi tiền gồm? 60 đồng. Trị giá của mỗi quan tiền lại khác nhau, vì kích thước và bản chất đồng tiền khác nhau, tùy theo là tiền đồng loại lớn hay tiền đồng loại nhỏ, hay là tiền kẽm.? Nhân khi đồng khan hiếm, sở đúc tiền ở Huế và Hà Nội lại đúc thêm loại tiền kẽm càng ngày càng lớn hơn. Sự lưu hành các loại tiền khác nhau như vậy đã cho phép chính quyền thỉnh thoảng thực hiện các cuộc phá giá. Năm 1867, chẳng hạn, trị giá của đồng tiền đồng nhỏ được tăng lên bằng 4 đồng tiền kẽm, thay vì 3, và của đồng tiền đồng lớn bằng 6 đồng kẽm, thay vì 4. Ðến 1870, nhà nước lại cho đúc thêm 6 loại tiền đồng, ăn 10, 20, 30, 40, 50, 60 đồng tiền kẽm, với loại ăn 60 đồng kẽm nhiều nhất để dân chúng mang đi đường cho tiện.?? Sau khi các tỉnh Bắc kỳ bị nhóm? Dupuis - Garnier xâm chiếm năm 1873, sở đúc tiền Hà Nội phải ngừng hoạt động và Triều đình phải thuê đúc tiền ở Macao, Trung quốc. Ðồng thời, lúc này các hải cảng Ninh Hải [Hải Phòng], Thị Nại [Qui Nhơn], và Hà Nội được mở cho ngoại quốc thông thương, buôn bán.? Nhà buôn Tàu, nhân dịp đó, mang vào đồng tiền Trung quốc đủ loại, đủ kiểu, chưa kể đồng tiền xấu, giả đúc lậu ở Hồng Kông. Sự tràn ngập thứ tiền giả, xấu này, đồng thời với sự khan hiếm các đơn vị đổi chác quí hơn, như vàng và bạc do con buôn Tàu độc chiếm, đưa đến một tình trạng xáo trộn tiền tệ khá trầm trọng, và việc vật giá gia tăng nhanh chóng.?? Sau khi cho phép nhập cảng loại tiền Trung quốc để trả thuế vào năm 1878, Triều đình đã trở lại, từ 1879 đến 1881, tuyệt đối thi hành lệnh cấm nhập loại 'đồng tiền dị dạng'? này, và viết thơ nhờ Tổng đốc Lưỡng Quảng, Thống đốc Nam kỳ, và Thống đốc Hồng kông trợ giúp.? Theo sử gia Nguyễn Thế Anh, sự xáo trộn tiền tệ đó là một trong những căn bệnh kinh niên nan giải của triều Nguyễn thời ấy. (Nguyễn Thế Anh, op. cit., 24-5; ÐNTL,? XXXII, 48- 50; XXXIV, 176-7, 279-280, 355-6; XXXV, 47-8)? Ông Tôn Thất Thuyết, ở Bắc đánh giặc mới về Kinh, nghe tin đồn rầm rộ rằng NVT ăn hối lộ, làm nguy hại đến nền tiền tệ quốc gia, sốt ruột, tâu trình lên vua.? NVT xin vua cho đổi qua bộ khác vì thấy mình bị gièm pha.? Sau khi điều tra, vua Tự Ðức không nghe theo và dụ rằng:

 

"Thuyết ít học không thông, lại có tật nóng nẩy, nói càn, sao đáng kể; lời đồn ở kinh đô cũng không căn cứ; . . . Nguyễn Văn Tường từ lúc giữ việc ở bộ Hộ đến giờ, có phần hết lòng trù tính, thuế khóa của nước có hơn lên; đương lúc phải giữ đà về quân nhu bận rộn, đều được ổn thỏa cả.? Trẫm đang trách ủy cho làm có thành hiệu sao nên tự đẩy đem thoái thác."? (ÐNTL, XXXIV, 370, NQT nhấn mạnh)

 

Vào lúc đó, để đối phó với chiến dịch ly gián và lũng đoạn vua quan bằng tin đồn đãi do sứ quán Pháp tung ra, vua ra một bản dụ ngày 24 tháng 2 năm Tự Ðức 34, 1881? 'Lưu ý các bề tôi nghe lầm các lời đồn nhảm'? rằng:

 

"Gần đây các bề tôi giữ chức ở viện hay ở bạc là các viên Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Chính, Phạm Thận Duật, Bùi Văn Dị, Trần Thúc Nhẫn và viên Tham biện Nội các Ðào Ðăng Tiến hoặc giao du với quân giặc, hoặc cùng nhau bàn riêng việc công, khinh xuất cả nghe những lời đồn vô căn cứ, tâu nhàm tai trẫm, như thế đều là không biết cẩn thận giữ chức phận của mình.? Dẫu nói rằng, đối với quân phụ không nên che dấu, song cũng không nên nói hão tin càn, để làm phiền lụy về sau như thế."?? Và vua phạt mỗi vị quan kể trên giáng 2 cấp, . . ." (Thơ văn Tự Ðức, op. cit., 166-7)

 

6.? Nguyễn Văn Tường ăn của lót để cho phép và cấm nhập cảng 'đồng tiền dị dạng' ?

 

Như trên đã nói, sau khi mở các hải cảng cho phép thông thương buôn bán, thương gia Tàu mang nhiều tiền đồng khác kiểu vào,Triều đình đã cấm rồi lại cho lưu hành, và cho phép dùng tiền lạ đó để trả thuế. Thượng thư bộ Hộ NVT liên hệ gì đến vụ cho phép đó để bị gièm là ăn của đút của người lái buôn Khách?? Chính sử đã thuật lại câu chuyện, xảy ra gần cuối 1878, khá rõ ràng như sau:

 

" Bỏ lệ cấm tiền đồng khác kiểu, để đánh thuế, gần đây, các người buôn nước Thanh, thu nhiều tiền đồng khác kiểu, tải đến các cửa biển từ tỉnh Quảng Nam trở vào Nam, để trao đổi với nước ta, tháng trước đã chuẩn cho nhân dân, nếu có lấy nhầm, thì cho thu nhập ở tỉnh đổi cho tiền kẽm [mỗi quan tiền đồng đổi lãnh 2 quan tiền kẽm, tiền đồng ấy đúc thành đồng để vào kho]. Ðến đây bọn Khâm sai ở Quảng Nam là Hoàng Diệu, hộ phủ là Lâm Hoành, Khâm phái Quảng ngãi là Ðàm Khắc Nhượng, bố chính là Ðoàn Dao tâu lên nói: người buôn nhân đó chọn lấy, dân nghèo mua gạo không được, tình lại càng khổ, đều xin bỏ cấm. Bộ Hộ nghị lại, cho là tiền như nước suối, phép phải lưu thông luôn, tìm hiện nước ta, lưu hành ở các xứ Bằng Tường, Ninh Minh tỉnh Quảng Tây và Mã Cao tỉnh Quảng Ðông rất nhiều, họ dùng mà ta cấm, không những hại cho dân ngay ở trước mắt, sợ đến khi ta thiếu mà họ thừa, nếu, hoặc lo họ trà trộn, thì chỉ trong khoản 5,6 phần, trà trộn được bao nhiêu, thà rằng cấm mà không tiện không chú đáo, sao bằng cho lưu thông để tìm tòi rồi rào thì hơn, nay xin không cứ thuyền buôn nước nào, nếu có hiệu kiểm tiền đồng, tiền kẽm nước ta, đều cho đem đến buôn bán, nhưng khi vào cửa biển phải báo ngay cho quan coi cửa biển xét thực, chiếu lệ đánh thuế [trăm phần trăm thu 10 phần], nếu có ẩn lậu, chiểu thương ước tịch thu cả tiền trong thuyền vào nhà nước, viên quan tỉnh và coi cửa biển không kiểm soát được, chiểu luật trị tội, người tố cáo ra mà được sự thực trích một nửa tiền ở thuyền để thưởng cho như thế thì người buôn tham lợi tranh nhau mà đến, tốn đồng kẽm, công thợ, vật liệu của người, mà sung vào tiền hiệu thuế quan của ta, tưởng cũng hơi tiện. [ ] Vua bảo rằng: 2 hạt Lạng Sơn Cao Bằng, quen dùng tiền nước Thanh, từ trước đến nay, cũng cho, chuẩn cho lục sức thi hành ngay để giúp sự cấp bách cho dân." (ÐNTL, XXXIV, 176-7, NQT nhấn mạnh)

 

Như vậy, nguyên ủy? của sự cho phép nhập cảng tiền đồng là do ở lời yêu cầu của các quan ở địa phương, như Khâm Sai Hoàng Diệu, Hộ phủ Lâm Hoành tâu lên vua để giúp dân nghèo. Vua giao cho bộ Hộ dưới quyền của Thượng thư NVT để xét trình.? Bộ tán thành việc bỏ cấm, không những để giải quyết vấn đề cho dân nghèo, mà còn để nhân đó thâu thêm được thuế, và có thêm tiền tệ lưu hành mà khỏi phải tốn chi phí đúc tiền. Hơn nữa, sự thi hành lệnh cấm lại tốn kém mà khó lòng đạt hiệu quả 100%.? Mọi sự đều được quyết định và thi hành một cách quang minh chánh đại, vì quyền lợi chung, và do nhiều người và cơ quan của Triều đinh điều nghiên, và vua Tự Ðức quyết định tối hậu, đúng theo thủ tục, luật lệ thời đó.? Tuy nhiên, nhân dịp được phép đó, một số gian thương mang vào tiền giả làm ở Hồng Kông, gây xáo trộn trên thị trường tiền tệ, nên vào năm 1879 và 1880, Triều đình lại phải lặp đi lặp lại lệnh cấm nhập khẩu tiền giả xấu này, kêu là 'tiền dị dạng': (ÐNTL, XXXIV, 279, 304).? Một dụ cấm ban hành vào giữa 1880 có nói là tất cả những kẻ vi phạm đều phải bị tội trượng, không trừ người Âu, tức trái với điều 17 của Hiệp ước 1874. Rheinart đưa tối hậu thư của Pháp hăm phong tỏa các hải cảng, nếu trừng phạt trượng đó được áp dụng cho người Âu. (Livre Jaune A, 156, dẫn do Delvaux, 'Quelques précisions . . .', BAVH, Ibid., 221? ; 'M. Rheinart . . .'. BAVH, Ibid., 79-80)?? Lệnh cấm được tu chỉnh vào cuối 1880 như sau cho thích hợp với Hiệp ước 1874, và làm vừa lòng phía Pháp:

 

"Ðịnh rõ lại lệ cấm chở trộm tiền dị dạng. [Từ nay trở đi, tiền dị dạng, thuyền buôn nếu có chở trộm đến cửa biển, là thuyền của nước ta, thì chiểu luật lệ nước ta, thuyền và hàng hóa tịch thu hết, xử phạt hết mức trưởng đem đi lưu; nếu là người nước ngoài thì đều chiếu theo khoản thứ 24 trong thương ước tra bắt tịch thu hết, không được đến buôn nữa]." ?(ÐNTL, XXXIV, 355-6, NQT nhấn mạnh)

 

Ðồng thời, Triều đình có gởi thơ nhờ các nhà chức trách Pháp, Tàu, và Anh trợ lực trong việc bài trừ vụ tiền giả mạo này, và kết quả có đôi phần khích lệ khi vào hè 1882, vua Tự Ðức:

 

" Cho đem đồ vật tặng tổng đốc án sát nước Anh ở Hương Cảng. [Trước đây viện Cơ mật và Thương bạc bàn rằng tiền giả đem vào nước ta, là do người buôn nước Thanh đúc ra ở Hương Cảng, muốn ngăn tệ ấy, trước lấp tự nguồn, tâu xin đưa thư cho quan nước Anh xem xét bắt được thực tang xét xử trị tội, do phái viên sang Hương Cảng báo cho biết.? Vua cho đem phẩm vật để tặng . . .]" (ÐNTL, XXXV, 157)

 

Ngoài ra, không có một chỗ nào trong toàn thể bộ chính sử nói rằng NVT có liên can gì, ngoài sự bị gièm pha đã kể, đến một vụ hà lạm, hay hối lộ nào về tiền tệ, thuế má, hay thương mãi nào cả, mà chỉ có sử sách của người Pháp thực dân bịa đặt, xuyên tạc, hay bóp méo câu chuyện để bôi lọ NVT mà thôi. Một người viết sách dựng ra câu chuyện dựa vào tin đồn thất thiệt nằm trong khuôn khổ chiến dịch chính trị xuyên tạc của thực dân, rồi các người khác ùa theo người đó viết như vậy, có khi viện dẫn xuất xứ, có khi không. Rồi họ thêu dệt thêm, bóp méo, tiểu thuyết hóa, thi vị hóa, kéo dài mãi mãi chứng nào mà nền sử học thực dân cón tài nguyên, phương tiện để bênh vực, phát triển đường lối thực dân trên thế giới. (Xin xem một trường hợp xuyên tạc điển hình người viết đã trình bày: 'Nguyễn Văn Tường có tư thông với bà Học Phi và giết vua Kiến Phúc không?' ở cùng chỗ trên mạng lưới này)? Mãi về sau, vào 1941, cũng trong khuôn khổ hệ thống tuyên truyền đó,? LM Delvaux, tiếp tục vu cáo NVT ăn hối lộ như sau:

 

" Vào cuối 1884, Nguyễn Văn Tường cho cưỡng bách tịch thu những đồng tiền lớn bằng đồng và thay thế bằng những đồng tiền mới quá nhẹ đến nỗi chúng có thể lội trên mặt nước [nagent sur l'eau]. Những nhà buôn và người khá giả nào không muốn nhận đồng tiền mới, bị hà hiếp rất dữ và tất cả các chợ bị bỏ hoang.? Rút cục, một trong những người Hoa đã đúc tiền đó, theo lệnh của chính Tường, bị xử tử ở chợ An Hòa để thoa dịu lòng phẫn nộ của quần chúng đã đi đến chỗ nổi loạn, trong lúc mà Tường đã thâu vào túi một số tiền ngoạn mục [alors que le Régent Tường avait réussi un superbe coup de bourse]. " (Delvaux, 'Quelques précisions . . .'. BAVH, Ibid., 254-5, NQT dịch và nhấn mạnh)

 

Tác giả không cho biết tin này xuất xứ từ đâu, mặc dầu trong toàn bài khảo luận, vị linh mục có đưa ra nguồn tin tham khảo ở nhiều chỗ khác.? Trong đoạn dẫn trên, tác giả có đánh chú thích số 2 [sau chỗ 'nagent sur l'eau'? ], và giải thích rằng LM Max de Pirey đã có biểu diễn việc đồng tiền bơi trên nước trước nhiều khán giả. Tại sao lại có một ông Cha Tây sách động quần chúng Ðai Nam? chống chính phủ của họ, mà không phải là một linh mục bản xứ?? Phải chăng vì Triều đình, theo hiệp ước, không có quyền xử tội một người Pháp mà phải giao trả họ cho nhà chức trách Pháp?? Việc này có thể có liên quan mật thiết đến những âm mưu ngấm ngầm của nhà cầm quyền Pháp, nhằm lũng đoạn nền tài chánh của Việt Nam qua vấn đề tiền đồng này, như vụ xung đột Pháp-Việt, xảy ra vào đầu thập niên 1880 sau đây, đã gợi ý:

 

" Dân trong hạt [Phú Yên, NQT ct.]Lê Văn Lợi năm trước tải lậu tiền đồng dị dạng, quan tỉnh ấy chiểu lệ tịch thu số tiền ấy và giam xét, tên ấy vượt nhà giam trốn đến cửa biển Thị Nại ở Bình Ðịnh nương nhờ viên lãnh sự Pháp, viên ấy cho khai liều là quê ở Gia Ðịnh; rồi nhận là người dân tây, phải do viên lãnh sự ấy xét định. Ðã chuẩn tư cho chủ súy Pháp, đợi chủ súy ấy xét định. [Bố chính sứ là Ðinh] Nho Quang không theo đợi, lại ủy phái người đến cửa Thị Nại để bắt. Lãnh sự Pháp giải thoát cho Văn Lợi, đem đánh trói người được phái đi bắt ấy; rồi tư cho quan tỉnh Bình Ðịnh phải trả lại số tiền đã tịch thu và phạt Nho Quang 20 đồng bạc.]" (ÐNTL, XXXV, 45, NQT nhấn mạnh)

 

Không những phía Pháp che chở cho người buôn lậu, như đã nói, mà đất Gia Ðịnh thuộc Pháp còn làm căn cứ cho lái buôn Khách trữ tiền giả. Thật vậy, vào cuối 1881,

 

" . . . điển nông phó sứ là Nguyễn Thông dâng sớ nói: khách buôn nước Thanh đem tiền đồng kiểu lạ đến chứa ở phố Gia Ðịnh, mà dân tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa thông thương với nhau, những người buôn gian giảo mua tiền ấy chở về đổi lấy tiền kẽm, bạc đồng, sự tệ hại rất nhiều. Xin cho tiền ấy cứ 2 đồng ăn 1 đồng tiền của ta, khiến cho người buôn bán không còn lợi được. [ ] Vua không cho. . . ." (ÐNTL, XXXV, 47, NQT nhấn mạnh)

 

Ðể làm lũng đoạn nền tiền tệ của Việt Nam, nhà chức trách Pháp cũng không ngần ngại dùng nhiều thủ đoạn khác. Họ đã vi phạm chủ quyền của Triều đình bằng cách cấp giấy phép cho người Việt mang tiền do quân Pháp chiếm đoạt trong ngân khố nhà nước khi Henri Rivière chiếm thành Hà Nội, đem đi đổi ra bạc đồng của Pháp (piastres).? Vào tháng 5, 1882 Nguyễn Thị Tiết đáp tàu 'Le Saigon ' từ Hải Phòng ghé vào cảng Thị Nại (Qui Nhơn) để đổi 43 bao tiền đồng mà cả 2 sở thương chánh Việt và Pháp cùng đếm cả thảy là 129 quan. Thị Tiết khai rằng tiền này do viên chức Pháp giao để vào Thị Nại đổi lấy bạc đồng Pháp (piastres) cho họ.? Lãnh sự và Chánh sở thương chánh Pháp ở Thị Nại nói rằng đó không phải là tiền giả mà đúng là tiền của chính phủ Việt Nam, và Thị Viết có giấy phép (của Chánh sở Thương Chánh Pháp ở Ninh Hải cấp theo đề nghị của vị chỉ huy hải quân Pháp), nên đòi và được bên Việt Nam thuận giao hoàn lại số tiền để đổi. Kết quả cuộc điều tra của nhà chức trách Việt ở Hà Nội xác nhận ý kiến của thương chánh Việt ở Thị Nại là số tiền này lấy từ kho tỉnh Hà Nội, và cho biết thêm là một viên thông ngôn Việt ở Hải Phòng đã xin với các quan Pháp cho Thị Viết giấy phép chuyên chở tiền đó. Nhà chức trách Pháp ở Hà Nội công nhận đã có lấy tiền ở kho tỉnh để trả công thợ, nhưng nói không có đưa cho Thị Viết để chở đi đổi. Nhân vụ này, quan Thương Bạc cho phía Pháp hay rằng nhân khi thành Hà Nội bị chiếm, kho bạc mất trên 10.000 quan tiền đồng mà Pháp chỉ trả có 2.700 quan, và số tiền Thị Viết mang đi được xác nhận là lấy từ kho mà ra, nên yêu cầu phía Pháp giải quyết trả lại cho Việt Nam cho phải lẽ.? Mặc dầu Rheinart tin rằng viên thông ngôn có tội, và yêu cầu điều tra,? chính ông ta đề nghị phía Pháp lơ không trả lời. (CAOM, GGI, Etat Major, Cabinet Militaire, 1882, Archives historiques, số 21, 17-11-1882, số 22, 16-12-1882, và 1883, số 9, 2-2-1883)

 

Ngoài ra, như đã nói, khi dụ cấm nhập khẩu tiền đồng đòi xử nặng tất cả các kẻ vi phạm, thì Pháp gởi tối hậu thư cho Triều đình hăm dọa phong tỏa các hải cảng, nếu trừng phạt đó được áp dụng đối với người Âu. Năm 1885,? trong khuôn khổ chiến dịch đánh phá Triều đình Huế của 'nhóm Hà Nội ', Tướng Brière de l'Isle phúc trình với Bộ Trưởng Chiến Tranh rằng Triều đình đã tự ý cho lệnh nhập cảng tiền đồng và ấn định hối xuất với tiền kẽm, không xin phép trước của Pháp, và lặp lại việc vu cáo NVT trước kia đã ăn hối lộ người Tàu để cho nhập cảng tiền giả. (Thơ ngày 21-5-1885, AMAE [Văn khố bộ Ngoại giao Pháp], Carton 47) Như đã kể trên, vua Tự Ðức đã thân hành điều tra vụ này, và không những đã minh oan cho NVT là đã bị gièm pha, mà còn nhân đó khen ngợi công lao của ông trong việc tăng gia tài nguyên thuế khóa của nhà nước để tài trợ cho nhu cầu quân sự.?

 

Như vậy, từ những hành vi đã kể trên của nhà chức trách Pháp? mà suy diễn ra rằng họ đã âm mưu phá hoại nền tiền tệ của Việt Nam có gì quá đáng hay không?? Rồi đồng thời hô hoán lên là NVT ăn hối lộ để cho nhập khẩu tiền đồng!

 

Một điều đáng lưu ý nữa là vào thời điểm cuối năm 1884, lúc mà LM Delvaux nói việc hối lộ xảy ra, thì ông Phạm Thận Duật đã làm thượng thư bộ Hộ phụ trách vấn đề tiền tệ này, và NVT đã đổi qua bộ Lại? từ đầu năm 1884 rồi. Mặt khác, vào thời đó, có 2 sự kiện ghi trong chính sử liên quan đến vấn đề do LM Delvaux đề cập ở đây. Nếu tác giả dựa vào đó mà suy diễn ra việc NVT ăn hối lộ của thương gia Tàu, thì quả dụng tâm xuyên tạc của tác giả quá trắng trợn.? Việc thứ nhứt chính sử ghi lại là:

 

"Người lái buôn nhà Thanh là Lý Thành Long chở ngầm tiền đồng kiểu khác [thuê tàu thủy Ðịa-lỵ-a chở 20 bao, bao chứa vào trong thùng] đưa vào vùng biển An Vĩnh Quảng Ngãi, việc ấy phát ra kết án phạt trượng và phát lưu. Bộ Hộ đổi xin trảm quyết. Phụ chính phúc duyệt lại xin y. [Vua, NQT ct.] Chuẩn cho chính pháp ngay; thông lục cho các địa phương có nơi nào như thế, cung tuân làm một lượt. Rồi thì phố Gia Hội, phố Ðô Hạ có hiệu buôn của bọn La Ðậu, Phan Vu Hán và Phù Ðịnh Tam là người buôn nhà Thanh dùng tiền đồng kiểu khác, ngầm đem mua bán với nhau, cũng kết án chém ngay [La Ðậu, Phan Vu Hán], trảm giam hậu [Phù Ðịnh Tam] có sai bậc." (ÐNTL, XXXVI, 179-180, NQT nhấn mạnh)

 

Chuyện thứ hai do chính sử ghi nhận cũng xảy ra tiếp theo vụ trước và vào thời điểm đó là:

 

" Ðịnh lệ tiền đồng kiểu lạ một đồng ăn bốn đồng tiền kẽm và vàng bạc tăng lên giá.? Khi ấy các tỉnh Thừa Thiên, Phú An, Bình Ðịnh, Quảng Trị, có số tiền đồng kiểu khác, 2, 3 năm nay? lưu bá số nhiều, đã sai phủ Thừa Thiên quyền trích tiền đồng ở kho hơn 2.000 quan, yết cho quân dân đem đồng tiền lạ kiểu đổi cấp tiêu dùng.? Duy của chung khó chu, cho nên chuẩn cho đình nghị, giảm bớt, nên trọng cấm để cứu lấy tệ; bèn định từ nay đi, phàm đồng tiền của nước ta trừ ra 2 hạng nặng 9 phân, vẫn ăn 6 đồng như cũ, còn các hạng tiền đồng 6, 7 phân trở xuống, cùng thứ tiền kiểu lạ mới cũ các hạng, mỗi đồng đều giảm ăn 4 đồng tiền kẽm. Phàm chợ búa mua bán đều xét kỹ những tự dạng ở vành quách đồng tiền cho minh bạch, cho được tiêu dùng. Nếu có sứt mẻ, oeo vậy, phải báo quan xét trị.? Còn bọn buôn gian chở ngầm và đem đồng tiền của nước ta rút ra ngoài, không kể người ta hay người Thanh, tang số nhiều hay ít, tức thì chém ngay, như án của Lý Thành Long gần đây mới biết.? Vả lại giá chung vàng bạc của nước ta chưa có chuẩn định, đến nỗi tiền đắt mà vàng bạc rẻ. Ðến đây nghị chuẩn cho giá vàng, cứ một lạng vàng đủ 10 tuổi giá vàng 300 quan, 8, 9 tuổi trở xuống thì giá giảm dần xuống mỗi lạng sụt xuống 15 quan, nhà chung hay nhà riêng cũng đều chiếu theo gíá ấy cấp mua khấu nộp, hoặc lâm thời giá chợ có cao hơn lên, thì mua bán cũng tùy theo giá chợ mà tiêu dùng, nhưng không được giảm rẻ hơn giá nhà nước đã định. Nếu ai trái ấy, thì dùng luật vi chế mà xử tội, lại phạt thêm 100 lạng bạc, đều thông lục yết sức thi hành. [Khi ấy lệnh định giá vàng bạc sức xuống, bọn vô lại và hiểu sự ở chợ phố phần nhiều cứ đi nhòm những người đòi ăn của đút hay cáo phát quan lại, lại nhân đó sinh ra rối việc, chợ búa vì đó mà không được yên, rồi dân gian mua bán, sau cũng tùy thời, thuận tình như cũ, lệnh ấy trọn không thi hành được." (Ibid., 183-4)

?

Tóm lại, vấn đề tiền tệ là một ung nhọt trầm kha cho Việt Nam suốt trong giai đoạn đó, bắt đầu từ lúc mở các hải cảng cho ngoại quốc buôn bán theo Hiệp ước Thương mãi 1874, và Triều đình Việt Nam chưa tìm được cách giải quyết thích đáng, như TS Nguyẽn Thế Anh đã nói ở trên. Về sau, nhà chức trách Pháp cũng phải tiếp tục thí nghiệm một số giải pháp linh động và uyển chuyển, không khác gì Triều đình Việt Nam. Do Nghị định ngày 6-9-1886, Toàn quyền Paul Bert đã cho phép nhập cảng tiền đồng và tiền kẽm với điều kiện phải đóng thuế 20%? trên số tiền nhập khẩu. Rồi chỉ ít lâu sau, lại ra Nghị định ngày 16-10-1886 cấm nhập cảng các loại tiền này. Vài năm sau, Thống sứ Bắc Kỳ Brière ra Nghị định ngày 26-1-1890 cho phép lưu hành tiền đồng của Tàu trong tỉnh Lạng Sơn, với 1 đồng tiền Tàu ăn 3 đồng tiền Việt Nam. Một Nghị định tiếp theo của Thống Sứ Bắc Kỳ Bonnal, ký ngày 3-7-1890 cho phép tiền đồng của Trung quốc đựơc lưu hành như vậy ở tỉnh Hải Ninh.? Bài này không có tham vọng đi sâu vào vấn đề tiền tệ phức tạp này. Dù sao, từ đó mà các tác giả Pháp vu khống cho NVT ăn hối lộ của người gian thương Khách để cho phép họ nhập cảng lậu, mà không đưa ra một bằng chứng gì cụ thể cả, thì quả là họ làm nhiệm vụ một nhà tuyên truyền chớ không phải là một nhà khảo cứu viết sử.? Việc LM Delvaux tố cáo NVT một cách vô bằng và dễ dàng như vậy không đáng lấy làm lạ, vì chính ngài đã không do dự viết trong 3 bài khác nhau, rằng NVT? giết vua Kiến Phúc bằng 3 cách. Một bài thì nói NVT bóp cổ vua chết; một bài thì nói NVT đầu độc vua chết sau khi tư thông với mẹ nuôi của vua và bị vua hăm giết ba họ; và một bài thì nói NVT giết vua vì lý do chính trị để thủ tiêu Hiệp ước Bảo hộ được ký dưới triều của vua. Hơn nữa, bài khảo luận trong đó chứa đựng tin NVT ăn hối lộ trong vụ tiền đồng này, có thể được xem như là một sưu tập, dài non 100 trang, của một số lớn các sự bịa đặt, xuyên tạc, bóp méo của cả giới thực dân về giai đoạn sử Việt Nam thời thất thủ kinh thành Huế.? Ðó quả thật là khuôn mẫu điển hình của một bài báo xuyên tạc, mà nhan đề nên đổi lại là 'Quelques imprécisions sur une période troublée de l'histoire d' Annam'? thay vì 'Quelques précisions . . .'. BAVH, sổ 3, 1941, 216-314, sẽ bàn thêm nhiều trong dịp khác).

 

7. Nguyễn Văn Tường ăn hối lộ để cho Tàu độc quyền chuyên chở gạo?

 

Cái nguy hại hơn nữa là sử gia ta về sau này vẫn tiếp tục coi các tài liệu tuyên truyền đó là sử liệu xác thực, không cần phải phối kiểm, gạn lọc gì hết.? Mới đây, một sử gia tiến sĩ, nhân viết về NVT, đã kể thêm? một chuyện mới nữa, là NVT ăn tiền đút lót để cho người Tàu độc quyền chuyên chở gạo.? Sau khi mạt sát Tôn Thất Thuyết và NVT đã chuyên quyền và tranh chấp với nhau, gồm cả việc giết vua Hiệp Hòa, vì vua đã không chịu trả 300 lượng vàng như đã hứa để được lên ngôi, tác giả viết tiếp:

 

"Nguyễn Văn Tường thì sau khi liên kết với người Tàu, trong lúc ông làm thượng thư bộ tài chánh, để chiếm độc quyền chuyên chở gạo cho nhà nước, trong những điều kiện rất tốn kém cho quốc gia và rất có lợi cho bản thân ông ta, giờ đây lại nhận hối lộ cũng của những người Tàu đó để cho họ nhập khẩu tiền giả." (Nguyễn Xuân Thọ, Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp ở Việt Nam [1858-1897]. Tác giả xuất bản, 1995, 344, NQT nhấn mạnh; xem thêm t. 282-3 về NVT và Chiêu Thương Cuộc)

 

Vì tác giả không cho biết xuất xứ nguồn tin này, và cũng không cho thêm một chi tiết gì cụ thể hơn ngoài một sự khẳng định khống, tổng quát và độc đoán, như vậy, ta có thể suy đoán là tác giả đã đọc các tin tức này đây đó trong văn khố hay sách vở của người Pháp viết mà không cần phối kiểm với các nguồn tin khác, nhứt là về phía Việt Nam mà tác giả rất ít dùng, vì cho là đã bị De Courcy đốt gần hết cả rồi trong biến cố chiếm kinh đô Huế. ( Op. cit., xem trang thứ nhì [không đề số] của phần dẫn nhập) Vậy sau đây là nguyên ủy việc độc quyền chuyên chở gạo của người Trung Hoa, bắt đầu từ mùa xuân năm 1881, theo chính sử nhà Nguyễn:

 

" Quan cục Chiêu thương nước Thanh là Ðường Ðình Canh đến kinh, tâu làm giúp việc vận tải. Vua chuẩn cho ban yến ở công đường bộ Lễ và khoản tặng đồ vật. (Nước Thanh năm trước vì phương tiện vận tải hiếm, lại cho là người đi buôn vận tải hàng hóa, lợi về thuyền của người tây. Bèn đặt ra cục Chiêu thương, bỏ bạc công ra 100 vạn đồng và cho quan dân xuất tiền góp vốn đóng tàu thủy để chở lương công, và đáp hàng hóa tư nhân đó để diễn tập đường biển. Hàng năm tính lãi, chiếu số tiền gốc chia tiền lãi đều nhau.? Tuy nói rõ là làm việc tải gạo công, thực ra là ngầm chia lợi quyền của người tây.? Ðến nay, thuyền ở cục ấy ngày càng nhiều, tải việc công đã thừa, cho nên chia đi các nước tải tư lấy lợi.? Ðình Canh người tỉnh Quảng đông, là quan tam phẩm, dự làm việc ở cục ấy, lần này được khâm sai thự lý thông thương đại thầnLý Hồng Chương [hiện là tổng đốc Trực Lệ, đóng ở Thiên Tân] phái ủy đi, và mang thư đưa đến cửa tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh từ Hương Cảng đến Hải Dương, đáp thuyền buôn đi suốt đến cửa Thuận An. Vua sai bọn Nguyễn Văn Thúy, Trần Thúc Nhận đón tiếp.? Ðình Canh nói rõ cục Chiêu Thương để tải giúp và tỏ bày cái ý muốn cùng nước ta cùng mưu giàu mạnh.? Vua sai quan viện Cơ mật và Thương bạc cùng bàn định chương trình, [đại khái mỗi năm vận tải 42 vạn, tháng giêng bắt đầu tải, đến tháng 7 thì xong. Từ Hải phòng đến Thuận An, mỗi 100 phương giá cước là 140 quan. Thiếu hay mất đều phải đền.?? Nhưng ở Hải phòng và cửa Thuận, cục ấy đều đặt kho phái người ở đấy làm việc]? . . ." ) (ÐNTL, XXXV, 20-1, NQT nhấn mạnh)

 

Vài tháng sau có nghị định ấn định thủ tục chi tiết chặt chẽ để áp dụng trong công tác tiếp tế gạo này, đề cử viên chức tiếp nhận gạo, xây thêm kho chứa, qui định các chế tài khi có chậm trễ, hay mất mát, để Chiêu Thương cục bắt đầu công tác vào đầu năm tới, 1882. (Ibid., 54-5)? Vì nạn giặc biển hoành hành, cơ quan hàng hải này, với thủy thủ? trang bị khí giới đầy đủ, đã có thể bảo đảm việc tiếp tế gạo cho miền thủ đô một cách an toàn hơn. Trong thực tế, cục này? còn là một đường giây liên lạc ngầm? giữa hai chính phủ Trung Hoa và Việt Nam trong công cuộc chống Pháp. Nó cũng là một cơ quan tình báo của Triều đình Trung quốc để theo dõi hành động của Pháp ở vùng thủ đô Việt. (Fourniau, Vietnam, op. cit., 299-230)? Ðại diện Pháp tại Huế Rheinart biết khá rõ về Công ty thương mãi này của Tàu, và kể chuyện rằng người đại diện của Công Ty, có văn phòng ở Thuận An đã tìm cách gặp y 2, 3 lần để trao đổi quan điểm về vấn đề tranh chấp Pháp - Hoa ở Bắc Kỳ. Nhân dịp này, Rheinart ghi trong sổ tay ngày 9-10-1882 rằng, qua Chiêu Thương Cuộc, chắc chắn nhà chức trách Trung quốc:

 

" đeo đuổi một mục đích song hành:? dành một khu vực trung lập đại loại, dùng để che phủ khu biên giới, nhưng nhứt là để loại nền thương mãi Âu châu ra khỏi khu phụ cận Vân Nam, hầu giữ sự độc quyền thương mãi cho Công ty này, và về một mặt khác, nắm lấy các hầm mỏ mà chúng ta có vẻ đang sẵn sàng muốn khai thác . . ."? ('M. Rheinart.. .' BAVH, Ibid., 122)

 

Ngoài ra, Chiêu Thương Cục cũng có thể là một văn phòng liên lạc thường trực trá hình, và thường xuyên cung cấp tin tức chính trị, báo chí, tái liệu từ Hồng Kông về cho Triều đình. Vào khoản đầu năm 1882,

 

" . . . Ðình Canh đến phủ Hải Ninh, bèn đáp thuyền về kinh. . . . [ ] Ðinh Canh đưa một bức thư của tổng đốc Quảng Ðông giao cho quan Thương bạc tiến trình, [thư ấy đại khái nói: việc vận tải lương bắt đầu làm trước, nên cho đạo viên ấy đi đến kinh lý, và có việc quan yếu phải bàn thì cho đạo viên ấy trình bày tại trước mặt], nhân thể xin vào yết kiến vua. [ ] Vua cho là quan nước Thanh vào yết kiến, sợ sinh ngờ. Bèn cho Nguyễn Văn Tường bàn kín với Ðình Canh. [ ] Ðình Canh nói: tháng 10 năm nay, khâm sai nước Thanh đóng ở nước Anh là Tăng Kỷ Trạch báo tin rằng: nghị viện nước Pháp bàn kín, Bắc Kỳ nước ta đất cát màu mỡ, núi sông lại có nhiều mỏ vàng, bạc, đồng, sắt, than đá, xét ra tình thể, chỉ giở bàn tay là xong. Lãnh sự nước Pháp là Thoát Lãng lại đã xin đem 1, 2 nghìn quân đánh lấy Bắc Kỳ.? Nghị viện nước Pháp đã chuẩn y.? Chẳng bao lâu tất đem quân nước ấy cùng các đạo quân ở Tây Cống khẩn cấp cùng phái đi.? Còn nói là đuổi Lưu Vĩnh Phúc chỉ là nói thác ra mà thôi.? Vua nước Thanh giao cho các nha môn quân cơ bàn cho thỏa đáng, cho nên tổng đốc tỉnh ấy phái đạo viên ấy báo tin cho nước ta, phải mưu tính ngay để mong giữ được. [ ] Vua cho là thư của tổng đốc ấy hồn nhiên, ta cũng không nên lộ. Sai Văn Tường mật dặn Ðình Canh 3 việc: 1.? . . . cho nước ta đặt quan . . . ở kinh đô nước Thanh, nếu có việc gì [Pháp áp bức, NQT ct.] được tố cáo với tổng lý nha môn. [ ] 2. . . . cho nước ta đặt 1 lảnh sự ở đãy [Quảng Ðông] để . . . thông báo tin tức, nhân cùng giao du với các nước để thông hiểu tình ý. [ ]? 3. [Giúp, NQT ct.] nước ta . . . phái người đi khắp các nước . . . xem xét và học . . . Ðến khi Ðình Canh về, vua sai viết thư trả lời tổng đốc Quảng Ðông . . . và cho thự lý thông thương khâm sai đại thần Lý Hồng Chương. . ." (ÐNTL, Ibid., 89-91, NQT nhấn mạnh)

 

Về cuộc tiếp xúc này, Rheinart đã kể trong một bức thơ gởi Henri Rivière rằng:

 

"Chính ông Thượng thư bộ Hộ [NVT], kẻ thù quyết liệt nhất của chúng ta, đã thương thuyết với họ; để tránh dùng kẻ trung gian, các ngườI đối thoại dùng lối bút đàm bằng chữ nho.? Có tin là người ta đã yêu cầu những sự viện trợ tích cực chống lại chúng ta, để tống khứ chúng ta ra khỏi Hà Nội và Ninh Hải, nhưng hình như người ta chỉ nhận được những câu trả lời mơ hồ mà thôi. . ." (CAOM, GGI, Etat Major, Cabinet Militaire, Archives historiques, 1883, số 9, 2-2-1885)

 

Quả nhiên, một, hai thàng sau, vào tháng 4, Ðại Tá Henri Riviềre đem tàu và quân đội ra Bắc xâm chiếm Hà Nội, Hòn Gay, và Nam Ðịnh, lấy cớ là để đề phòng giặc Cờ Ðen của họ Lưu. Mật vụ Pháp đã nghi ngờ và theo dõi các cuộc tiếp xúc bán chính thức này, cũng như vai trò trung gian của cục Chiêu Thương với tên Anh ngữ là 'China Merchant Steamship Navigation Cy' , mà họ cho là một phần lớn thuộc quyền sở hữu của Lý Hồng Chương, Tổng lý Nha môn của Hoàng Ðế Trung Quốc. (Fourniau, Vietnam, op. cit., 299-300). Silvestre, phụ tá chính trị và dân sự vụ của tướng tổng chỉ huy ở Hà NộI, đã đánh giá vai trò của Chiêu Thương Cuộc như sau:

 

" . . . chính là qua sự trung gian của công ty này mà Tường đã thỉnh cầu sự viện trợ của Trung quốc sau khi thành Hà Nội bị chiếm? . . . nhân viên công ty này, khi đến Huế, làm ra vẻ như là đại sứ, và đóng góp không ít vào việc phao đồn tin nước Tàu sẽ can thiệp chống lại chúng ta. Dù sao, Phạm-Thận-Duật, thượng thư bộ Hình, đã từng đi Quảng Ðông trên một chiếc tàu của công ty này, . . . và hơn nữa, có lúc sáu chiếc tàu của công ty đã cả gan xuất hiện trong lãnh hải Bắc Kỳ, với ý đồ làm cho dân chúng tin tưởng rằng nước Tàu đã quyết tâm đóng một vai trò tích cực trong cuộc chiến, và, vì vậy, dân chúng không nên trễ nãi trong việc nổi dậy đồng loạt." (Silvestre, Politique francaise dans l'Indochine Annam. Extraits des Annales de l'Ecole des sciences politiques [du 15 juillet 1895 au 15 janvier 1898] Phần VIII, t. 164, NQT nhấn mạnh)

 

Biết mà không ngăn cản được, phe thực dân tìm cách bóp méo các liên lạc ngoại giao phi chính thức giữa NVT với cục này thành một sự ăn hối lộ để cho độc quyền chuyên chở gạo, mà không đưa ra được một bằng chứng gì cụ thể được cả, ngoài sự phao dựng vu khống ra mà thôi.? Mặc dù vậy, chiến dịch tuyên truyền của nền sử học thực dân về dài vẫn còn hiệu nghiệm một cách ghê gớm. Mới đây, năm 2002, một sử gia Pháp khảo cứu đúng qui tắc, vô tư, và khách quan cũng không gạn lọc hết được những tin tức xuyên tạc đó. Ông viết [và chỗ này, trái với thông lệ trong sách, ông không nói dựa vào nguồn tin nào] rằng NVT khi làm thượng thư bộ Hộ "đã bị chỉ trích dữ dội, nhứt là về việc ông cho đúc tiền đồng quá nhẹ đến nỗi, theo lời thiên hạ đồn, nó có thể nổi trên mặt nước." (Fourniau, Vietnam, op. cit.., 279) và "hình như là ông ta không được dân chúng thương mến chút nào, vì người ta tố giác những sự hà lạm của ông lúc làm thượng thơ bộ Hộ." (op. cit., 369)

 

Thay lời kết luận: Nguyễn Văn Tường và nền hành chánh Khổng Mạnh

 

Nhân vị phủ doãn Thừa Thiên, mà NVT thay thế, bị cách chức vì bị dân kiện về tội hà lạm, sử sách thực dân lại cố tình gán tội ấy cho NVT để hạ uy tín của một vị quan ái quốc chống Pháp. Bàn về việc NVT xây cất thành Tân Sở làm kinh đô kháng chiến cho nhà Nguyễn, sử thực dân cho rằng NVT làm việc đó chỉ để loại vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết rồi đưa con mình lên ngôi. Muốn loại NVT ra khỏi chính quyền, phe thực dân đã vu cáo ông đã không thi hành hiệp ước đã ký, lấn quyền vua, bưng bít không cho vua gặp sứ Pháp.? Muốn dành độc quyền khai thác hầm mỏ, người thực dân vu cáo NVT ăn hối lộ của nhà buôn Tàu để cho họ lãnh trưng mỏ than. Người thực dân vừa một mặt, lũng đoạn nền tiền tệ Việt Nam bằng cách che chở, khuyến khích việc buôn lậu tiền giả, xấu, một mặt vu cáo NVT ăn hối lộ để cho nhập khẩu, và đúc loại tiền? đó.? Hai chính quyền Trung Quốc và Ðại Nam dùng Chiêu Thương Cuộc để bảo đảm việc tiếp tế gạo cho miền thủ đô, và tiện liên lạc với nhau, thì phe thực dân rao ra rằng NVT ăn của lót để cho hãng buôn này độc quyền chuyên chở gạo.? Những tin tức xuyên tạc, do sử sách thực dân tung ra để tuyên truyền, được sử gia về sau chấp nhận như là chính xác không cần gạn lọc, phối kiểm, làm sai lạc, đảo ngược cả lịch sử Việt Nam thời này.? Cái nguy hại to lớn nhất là sử thực dân đã làm cho ba, bốn thế hệ người Việt Nam mất niềm kiêu hãnh đối với quá khứ của dân tộc, và khinh miệt tiền nhân của mình.

 

Trong lúc sử sách thực dân nắm độc quyền dư luận trong gần một thế kỷ, thì bộ sử quan trọng bậc nhất của Việt Nam, là bộ Ðại Nam Thực Lục, chính sử của Triều Nguyễn, mãi cho đến gần đây, sau 1978, mới được bắt đầu được phổ biến bằng chữ quốc ngữ la tinh hóa.? Mặc dầu được soạn dưới thời Pháp thuộc và không khỏi bị méo mó bởi áp lực chính trị, và lẽ dĩ nhiên không thể có thiện cảm với hai ông Tường và Thuyết, bộ sử vẫn phần nào giữ được tính cách trung thực, nhờ ở truyền thống viết sử của Ðông phương, và cách viết theo lối biên niên, nhật ký và nhấn mạnh vào sự kiện. Bộ sử không hề tố cáo NVT ở một chỗ nào về những việc mà sử thực dân đã nói ở trên. Nhờ bộ sử, mọi vu cáo của phe thực dân đối với NVT đã được đính chính. Nhân đọc bộ sử, người viết không khỏi ngạc nhiên và khâm phục trước sự liêm chính và thành hiệu của nền hành chánh Khổng Mạnh của Việt Nam trước thời Pháp thuộc; và xin khẳng định rằng về nhiều phương diện, nó hơn hẳn và hơn nhiều, nền hành chánh Bảo hộ và Nam Triều dưới thời Pháp thuộc, và ngay cả các nền hành chánh về sau. Nó cũng không thua kém các nền hành chánh Âu Mỹ một chút nào về phương diện liêm khiết và thành hiệu.? Thật vậy, nền hành chánh Khổng Mạnh, được hình thành do sự tích lũy của những kinh nghiệm? thành công hay thất bại của quá khứ, bao gồm? một hệ thống chế tài tuyệt hão để thúc đẩy thành phần nhân sự thi hành nhiệm vụ được giao phó.? Về phương diện chế tài tích cực, một định chế tưởng thưởng dựa thuần vào thành quả đạt được do tài năng và đức độ, khuyến khích mọi người cố gắng vượt bực để giải quyết các vấn đề? khó khăn và phức tạp của quốc gia.? Mọi sự thăng quan tiến chức đều dựa vào thành tích, công trạng đã được chứng minh rõ rệt. Về phương diện chế tài? tiêu cực, việc ngăn ngừa và trừng trị tội phạm được giao cho một hệ thống tư pháp hoàn bị, trên đầu có 3 cơ quan? là Ðô Sát Viện, Ðại Lý Tự, và bộ Hình, họp lại thành Tam Pháp. Nếu? có tội phạm xảy ra, mà viên chức các cơ quan này không truy tố thì họ cũng bị tội, hoặc biết mà che giấu, hoặc không biết vì khiếm khuyết trong sự thi hành nhiệm vụ, đều bị tội. Ngoài ra,? viên chức các cấp đều có bổn phận tố cáo mọi tội phạm xảy ra do cấp dưới, ngang, hoặc trên mình phạm phải. Nếu biết mà không ngăn ngừa hay tố cáo là bị tội. Cáo gian để ám hại người khác cũng bị tội. Nếu vua phạm tội, các quan bất kỳ lớn nhỏ, đều có quyền và bổn phận tố cáo. Nếu biết mà không làm, các quan cũng bị tội. Dân cũng có quyền khiếu nại tố cáo quan lại thẳng lên vua, bằng cách đánh trống đặt trước hoàng thành. Như vậy mọi người được khuyến khích và kiểm soát lẫn nhau, để cư xử theo khuôn khổ đạo đức chinh trị đã định.?? Ðó không phải là câu chuyện chỉ có trong lý thuyết, mà đã xảy ra thông thường trong nền hành chánh thời đó. Sự hay dở của một chế độ như vậy tùy thuộc phần lớn vào vai trò gương mẩu của chủ thể nắm quyền hạn và bổn phận tối thượng, tức là vị vua. Một khi vua hành xử đúng đắn vai trò của mình, tự nguyện ghép mình vào kỷ luật đạo đức, và chấp nhận sự phê bình, chỉ trích của quan lại để sửa sai, thì sự tham nhũng, hối lộ, hà lạm của các quan lại khó lòng mà không bị đưa ra ánh sáng và trừng phạt được.

 

Vua Tự Ðức đã từng bị các quan công khai chỉ trích rất nhiều lần, như chính sử đã ghi. Như việc vua đi săn bắn nhiều, chẳng hạn, các quan như Trần Tiễn Thành,NVT, Hoàng Kế Viêm thường can ngăn, và vua đã luôn luôn công nhận lỗi của mình và giải thích lý do là 'bị bệnh uất không vui đã lâu, chỉ có cách tiêu khiển như thế mới làm được việc'. (ÐNTL, XXXII, 25-6, e. g., và ÐNTL, passim ) Trong một bản sớ năm 1868, ông Thân Văn Nhiếp, Tuần vũ hộ lý Tổng Ðốc Bình Phú đã thẳng thắn trách vua Tự Ðức rằng:

 

" . . . sự yên, nguy, còn, mất khác nhau chỉ ở chỗ vua một lòng kính cẩn hay là phóng túng mà thôi, kính thấy sự thế ngày nay là lúc thế nào? Ðất cũ bị mất, giặc phương bắc tràn lan; lụt, hạn, nạn bão, cáo cấp khắp nơi; của hết, sức kiệt, dân không được nhờ để sống, lòng người ở nơi gần kinh kỳ náo động, các nơi làm loạn, cái thế yên nguy thực không chỉ trăm mối lo mà thôi, thế mà gần đây việc xây dựng, sửa sang liên tiếp, xa xỉ bừa bãi không ngớt, làm Vạn niên cơ, so với lăng Thiên thu chẳng những gấp 10 lần, này như ngói nung già mua ở Hạ Châu, giày trò chơi mua ở nước Thanh. Sa tanh, tủ rượu, hàng năm phái đi mua nhiều, đàn tây, tranh tây, hàng năm có đơn mua hàng; lại còn đi chơi thường đem cung nữ đi chèo thuyền, đó là những việc từ trước chưa từng có, mà khoảng 4, 5 năm nay thấy luôn. Lại nay lầu ở trong cung vừa mới xong, lầu ở bãi sông tiếp tục xây dựng; đương lúc hạn hán gạo đắt này tốn phí chẳng ít, xưa vua Văn đế nhà Hán tiếc 100 lạng vàng không làm đài [Thừa] lộ, nói rằng: 'Ta được hưởng cung thất của tiên đế, thường sợ xấu hổ, làm đài làm gì?' Hoàng thượng ngày thường muốn mong được như vua Văn đế, thế mà việc làm ngày nay lại rất trái ngược: lấy nhọc khổ người làm thích, lấy làm việc tốn tiền làm vui, cốt hơn phép trước mà khoe đẹp về sau, muốn chơi xem nhiều như thế để hưởng hết tuổi trời, chớ bảo là có tổn thương, tai hại gì đâu mà không biết lòng ấy đã hóa ra là phiền họa dao động, lòng người ta oán, đường sá xôn xao, hầu không thể cứu được, tôi sợ lòng người tan rã, đến lúc đó dù có gác cao, lầu đẹp, còn thì giờ đâu mà du ngoạn được. Hoàng thượng có nước mà chẳng biết tiếc, tôi đâu dám tiếc chết, tôi đã nhiều lần tâu nói, chưa được sửa đổi, nay lại xúc phạm những điều kiêng kỵ, xin chịu tội chết với ở quan bộ Hình, để xứng đáng với cái tội không biết đem lòng thành làm cảm động [vua]." (ÐNTL, XXXI, 244-5)

 

Vua Tự Ðức đã trả lời ông Thân Văn Nhiếp như sau:

 

" Những điều ngươi thiết trách, đều là lỗi của ta, nhưng có cái ngươi chưa hiểu, còn câu nệ ở dấu trước, thì người làm vua nhất thiết đều phải câu thúc, không được chơi, thưởng chút nào, cử động làm gì là chuốc lấy tội lỗi. Ta nay bận, bệnh nhiều, đã không lòng sức, không dám viện dẫn xa để phân trần, cũng không dám nói gì, chỉ một lòng uất khổ quá lắm mà thôi, chỉ mong ở trên là thần minh, dưới là người xét mà tha thứ cho, nếu bó buộc phiền toái quá thì thân này không chịu nổi, còn sức đâu mà có thể cùng nhau làm việc, đậy nắp quan tài thì tâm tích người hay người dở tự khắc định được, đâu đợi phải nói, nhưng kẻ làm tôi thường cần phải nói, để vua nghe biết điều lỗi mới phải, riêng lòng ta tự có nắm vững, không dám sai trái, chỉ có quỉ thần biết thôi, sự học ngày thường để làm gì, hầu dối ai?" (Ibid., 245-6)

 

Không những không giận hờn, vua Tự Ðức lại càng kính trọng và vị nể ông Thân Văn Nhiếp hơn.? Ba năm sau, 1871 ông Nhiếp, lúc đó đã? được thăng thụ chức Tổng đốc Bình? Phú, bị một viên chức dưới quyền ở địa phương là ông Trần Văn Ðiển, Thương biện hải phòng ở Bình Ðịnh, tâu lên đàn hặc về 11 'khoản làm không hợp', bao gồm việc làm 'không công bằng', 'không đúng phép', 'hà khắc quấy nhiễu ', và 'che chở tư vị '.? Bộ Lại ngâm việc cả hơn một tháng không trình lên.? Ðến khi Tổng đốc Nhiếp về tâu xin vào hầu vua để biện bạch, thì bộ Lại mới tâu lên, và quan khoa đạo mới hặc tội.? Bộ Hình thì? xin cách chức ông Nhiếp để đợi xét, nhưng Vua không cho và sai Thượng thư bộ Công là Nguyễn Bỉnh cùng với quan khoa đạo vào Bình Ðịnh hội đồng để xét; và cho Tổng đốc Nhiếp cùng với bố chính và án sát Bình Ðịnh là Lê Kiên và Phan Tuấn đều được về kinh tâu rõ. Vua giáng phạt các quan lớn ở bộ Lại về tội 'bênh nhau che giấu' , vì đã để lâu không tâu trình nội vụ: Thượng thư Nguyễn Tri Phương? bị cách hàm Thái bảo và giáng làm hiệp biện đại học sĩ, vẫn làm thượng thư; Tham Tri Lê Lượng Bạt giáng xuống hàm thị độc học sĩ, đổi qua Quốc sử quán; và Tả Thị lang Nguyễn Lâm giáng làm viên ngoại lang. Ðến khi bản án dâng lên năm sau, ông Nhiếp bị giáng 3 cấp và đổi đi nơi khác chỉ vì một tội mà thôi, là che chở cho các thuộc viên, là Doanh điền sứ Ðặng Duy Hanh, quyền Tri huyện Trần Tri, quyền Tri phủ Nguyễn Bá Khanh, và Hiệp quản Nguyễn Như về tội, hoặc hà lạm, sách nhiễu, hoặc khiếm khuyết trong nhiệm vụ giữ an ninh. (ÐNTL, XXXII, 129, 239)? Khi bản án được tuyên, ông Nhiếp đang bị bệnh nặng, lưu lại tỉnh để chữa, rồi mất. Vua Tự Ðức

 

"nghĩ Nhiếp là người cương trực, giỏi giang, quen việc, vốn được tiếng là có công khó nhọc, bị can cũng không phải là tham tang hối lộ. Gia ơn tha cho không phải đổi đi, được truy khai phục hàm cũ." (ÐNTL,? XXXII, 248)

 

Những trường hợp tương tự như những ví dụ vừa kể, trong đó vua quan hổ tương kiểm soát lẫn nhau để gìn giữ chính nghĩa của triều đại, không phải là biệt lệ mà là thông lệ dưới Triều Tự Ðức, Kiến Phúc, và Hàm Nghi. Trong một chế độ mà vua quan đồng lòng nỗ lực thực hiện cái lý tưởng cao quí vì dân, vì nước như vậy, thì làm sao mà có thể có những câu chuyện NVT tham lam như người thực dân đã cố tình ngụy tạo ra?? Nếu NVT có tham lam, thì là tham lam? để thực hiện cái nhiệm vụ của một kẻ sĩ Ðông phương. Ðó là cái nhiệm vụ phò vua, giữ nước, giúp dân, quên cả thân mình, cho đến khi trút hơi thở cuối cùng nơi lưu đày, trên một hòn đảo xa xôi ở Thái bình dương!

 

 

 

 

 

???????????????????????????????????????