c. Trần Xuân An (bs. & kc.) - Thơ Nguyễn Văn Tường (1824-1886) - Tệp 3: Gs. Đoàn Quang Hưng

 

 

Web Tác giả Trần Xuân An

 

 

Trần Xuân An

biên soạn (tổ chức nội dung, khảo luận, bị chú các bài khảo luận của các tác giả,

chú giải thơ, chuyển ra ngôn ngữ thơ

trên cơ sở Thi tập chữ Hán do Nnc. Trần Viết Ngạc sưu tầm,

bản phiên dịch của Nnc. Trần Đại Vinh, Nnc. Vũ Đức Sao Biển, Nnc. Nguyễn Tôn Nhan

[Ts. Ngô Thời Đôn hiệu đính các bản dịch]).

 

Xem phần nguyên tác chữ Hán (hình ảnh quét chụp [scan]):

http://www.tranxuanan-writer-3.blogspot.com

http://www.tranxuanan-writer-4.blogspot.com

 

TÌM HIỂU CHỦ TRƯƠNG

CỦA NGUYỄN VĂN TƯỜNG

SAU CUỘC BINH BIẾN ẤT DẬU (1885)

 

Gs. Đoàn Quang Hưng

 

 

 

            Từ triều Minh Mạng trở đi, nhà Nguyễn phải đối phó với hai vấn đề lớn:

1.      Những cuộc nổi dậy ở trong Nam (Lê Văn Khôi) và ngoài Bắc (Phan Bá Vành, Lê Duy Lương, Nông Văn Vân... rồi Tam Đường, Châu Chấu, Ngô Côn và bọn thổ phỉ Tàu...).

2.      Âm mưu xâm lược của Pháp.

            Từ triều Tự Đức, một nhân vật đã có những hoạt động trực tiếp liên hệ đến những biến cố trọng đại thuộc hai lãnh vực trị an và ngoại giao, đó là ông Nguyễn Văn Tường. Trong tình hình phức tạp của đất nước, trong giai đoạn vô cùng khó khăn ấy, có lúc ông tích cực tham gia kế hoạch chung của Triều đình, có lúc ông đóng một vai trò quyết định; có lúc ông thành công trong nhiệm vụ được giao phó, cũng có lúc ông thất bại, thất bại đến phải bị lưu đày và chết trong vòng lao lí nơi đất khách.

            Gặp gian truân ngay từ thuở thiếu thời, cuộc sống đầy sóng gió của ông thật đáng cho ta suy gẫm vì nó gắn liền với lịch sử của dân tộc. Nhưng tiếc thay, do những điều kiện lịch sử của một thời, chúng ta chưa hiểu rõ ông, chưa đánh giá đúng mức con người và sự nghiệp của ông. Trong bài này, chúng tôi không có tham vọng làm sáng tỏ đôi điều bí ẩn, đính chính một số nhận xét phiến diện vì sử dụng những tài liệu của thực dân Pháp, những lời xuyên tạc có ác ý vì khác lập trường chính trị, mà chỉ cố gắng tìm hiểu chủ trương và thái độ của ông sau biến cố Ất dậu (1885).

            Ông bắt đầu phục vụ tại Thành Hóa (sau được đổi tên là Cam Lộ), một huyện thuộc vùng rừng núi tỉnh Quảng Trị. Trong tám năm (1) tại chức, ông thực hiện kế hoạch khai hoang, di dân lập ấp và tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào Kinh Thượng định cư và làm ăn buôn bán. Nhờ thành quả thu được ở Thành Hóa mà năm 1864, khi giữ chức phủ doãn Thừa Thiên, ông còn kiêm nhiệm thêm chức khuyến nông sứ Thừa Thiên và Quảng Trị. Nhưng quan trọng hơn, chính những năm tháng ở Thành Hóa đã giúp ông nhận rõ vị trí chiến lược quan trọng của vùng này để về sau đề nghị xây dựng tại đây căn cứ kháng chiến Tân Sở.

            Sau cuộc nổi loạn [đảo chính – nbs.] Chày Vôi do Đoàn Trưng và Đoàn Trực khởi xướng ở kinh thành, ông bị cách chức phủ doãn và trở về Thành Hóa để phụ trách việc mở mang vùng sơn cước này. Nhưng rồi bọn giặc Khách đánh phá mạnh ở Bắc Kì, ông được điều động ra Bắc làm tán lí quân vụ, phụ tá cho tướng quân Hoàng Kế Viêm. Trong bảy năm (2) liên tiếp ở trong quân ngũ, ông đã thâu thập được những kiến thức quân sự và kinh nghiệm chiến trường rộng rãi, đồng thời nhận định rõ thực lực của quân đội ta. Cũng như bản tấu sau khi từ Nam Kì về (1868), trong những bản tấu gửi từ Bắc Kì về cho nhà vua, ông đưa ra những nhận định xác đáng và những đề nghị thực tiễn. Ông đã từng nhấn mạnh rằng: “Từ xưa, muốn cho nước mạnh, phải chú trọng đến binh lực” và đề nghị đặt nghĩa thương để dành binh lương, bắt dân dõng bảo vệ làng xóm... Trên nhận định căn bản rằng: “Không lo bọn giặc ngang ngược, chỉ lo ta không thể tự cường, không lo bọn giặc tham tàn, chỉ lo ta không thể tự giữ”, ông nêu các câu hỏi: “Kinh sư là đất căn bản, đồn lũy đã vững chăng? Khí giới đã tinh chăng? Chí quân, lòng dân đã được khích lệ chăng? Đường bộ, đường thủy đã vững khắp chăng? Quân lương, binh lính làm thế nào cho tinh và đủ? Hào mục sĩ dân làm thế nào cho chuyên luyện? Nơi nào hiểm yếu cần phải giữ, phép phòng thủ nào tất vững?...” (3).

            Cũng trong thời gian quân thứ, ông đã có dịp thảo luận với các tướng lãnh có trách nhiệm bảo vệ và bình định Bắc Kì như Hoàng Kế Viêm, Phạm Thận Duật, Tôn Thất Thuyết, Trương Văn Đễ, Hoàng Diệu, Ông Ích Khiêm... và tường trình cho vua Tự Đức, theo chính lời yêu cầu của nhà vua, những nhận xét của ông về những nhân vật này để nhà vua theo dõi và sắp đặt nhân sự; nhiều lần, ông qua Tàu để thương nghị với đề đốc Quảng Tây là Phùng Tử Tài về việc hợp tác giữa hai nước Hoa – Việt để tiễu trừ bọn thổ phỉ ở vùng biên giới. Kết quả là Phùng Tử Tài đem quân 26 doanh sang nước ta để phối hợp với quân ta mà hội tiễu. Những văn thư ngoại giao ông gửi cho nhà đương cuộc Trung Hoa về sau được tập trung lại thành tập Việt – Trung giao thiệp.

            Cho nên, nắm vững tình hình quân sự, ông chủ trương một cuộc kháng chiến trường kì với thực dân Pháp: củng cố binh lực, cải tiến vũ khí, huy động dân chúng, tăng cường hệ thống sơn phòng, xây dựng chiến khu Tân Sở, liên kết mọi phong trào kháng chiến từ Bắc đến Nam và phát động phong trào Cần vương... Tất cả những hoạt động quân sự ấy, ngoài mục đích mưu chiến, còn có tác dụng hậu thuẫn cho chính sách ngoại giao đối với Pháp và củng cố địa vị của nước ta trên bàn hội nghị.

 

¨*¨

 

            Là một người có kiến thức sâu rộng (ông hiếu học từ thuở thiếu thời), và mưu lược, lại có nhiều kinh nghiệm về quân sự và ngoại giao, ông nêu rõ lập trường trong một bản tấu đệ trình nhà vua năm Tự Đức thứ 21 (1868): “Chiến rồi mới thủ được, thủ rồi mới có thể hòa được...Hòa để mưu giữ, giữ để mưu chiến mới hợp cơ nghi... Cái hòa ngày nay thực là ngược với lời bàn của dân chúng”.

            Biết rằng lòng dân không muốn “hòa”, từ năm [1864, 1866 – nbs.] 1868, ông chủ trương kháng chiến. Nhưng vì quân ta thua sút quân địch về vũ khí, trong một giai đoạn nhất định, ta phải nỗ lực giữ vững đất nước đồng thời điều đình với Pháp. Và giảng hòa chỉ có mục đích tranh thủ thời gian để củng cố lực lượng quân sự hầu tiếp tục kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Tóm lại, hòa để thủ và thủ để mưu chiến, và chủ hòa (4) trong toàn bộ chiến lược của ông, không phải là đầu hàng. Giữa hòa và chiến, theo quan niệm của ông, có một sự liên hệ trực tiếp, mật thiết và hữu cơ.

            Như vậy một khi chính sách đã được minh định rồi, thì dù vì nhu cầu ngoại giao của giai đoạn, vua Tự Đức muốn hòa hoãn, có lúc Hoàng Kế Viêm vẫn tiếp tục huy động quân đội để gây áp lực với Pháp. Và cũng vì trong lúc điều đình, ông Nguyễn Văn Tường vẫn chủ trương kháng chiến nên người Pháp nói rằng ông là “kẻ thù lớn nhất của người Pháp” và mưu loại ông ra khỏi chức vụ ở Thương bạc viện và Cơ mật viện.

            Công cuộc kháng chiến của dân chúng, của phong trào Cần vương tạo điều kiện cho việc thương thuyết. Nếu Pháp không thuận theo những điều kiện của ta thì dân chúng vẫn tiếp tục chiến đấu và ta không chịu trách nhiệm về những biến động xảy ra. Đó là luận điệu mà ông Nguyễn Văn Tường sử dụng để yêu cầu Philastre trả lại các thành Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương sau khi Françis Garnier bị giết: “Nay đại úy Francis Garnier chết, hoặc là bị giặc giết, hoặc là vì dân nổi lên làm loạn, việc ấy ta chưa rõ. Huống chi trả thành lại để định hòa ước cho xong, đó là lệnh của quý súy phủ; mà thu lấy thành rồi mới nghị hòa, ấy là lệnh của bản quốc. Còn như việc Hà Nội giết đại úy Francis Garnier thì cũng như đại úy Francis Garnier giết ông Nguyễn Tri Phương, việc đó xuất ư ý ngoại, chứ có phải lỗi của chúng ta đâu...” (5).

            Chúng ta vừa đánh vừa đàm. Trong cuốn sử liệu “Hồ sơ vua Duy Tân”, tác giả Hoàng Trọng Thược nhận rõ điều ấy: “Hai ông (Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết) triệt hạ hết các nhân vật phe chủ hòa, và huy động việc kháng chiến từ Trung ra Bắc. Do đó, ta thấy khâm sai Hoàng Kế Viêm trở ra hoạt động tại Tây Sơn, Trương Quang Đản ở Bắc Ninh, Tạ Hiển ở Nam Định, Phạm Vũ Mẫn, Hoàng Văn Hòe, Nguyễn Thiện Thuật ở các tỉnh khác. Các ông này, đều là các quan văn võ cao cấp của Triều đình Huế, nhiệt liệt hưởng ứng lời Hịch Cần vương (6). Bị Pháp phản đối nhiều lần, lại thêm thất trận nặng nề, nên có phen họ Hoàng và họ Trương phải về kinh, nhưng vẫn không phải là Triều đình đã thay đổi chính sách, vì lúc này ông Tường vẫn ngoại giao khéo léo với Pháp, để ông Thuyết ngầm tổ chức kháng chiến...”.

 

¨*¨

 

            Ngày 22 tháng 5 năm Ất Dậu (05. 7. 1885), trong lúc Pháp đang khao thưởng quân đội thì vào một giờ đêm, Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn cho bắn một phát đại bác làm hiệu để tấn công đồn Mang Cá và Sứ quán Pháp. Quân Pháp giữ thế thủ để chờ sáng. Khi mặt trời lên họ bắt đầu phản công, bắn phá và giết hại quân ta rất nhiều. Nhiều nơi trong hoàng thành và cung điện bị phá hủy. Quân ta chống không nổi, bị vỡ. Tác giả Hoàng Trọng Thược kể lại: “Nguyễn Văn Tường thấy thế nguy liền vào Nội yêu cầu nhà vua xuất cung. Hữu quân Hồ Văn Hiển phò giá, đầu giờ thìn ra cửa Tây Nam. Từ Dũ thái hậu ủy Tường ở lại lo việc giảng hòa. Thuyết chạy theo kịp, còn chừng trăm người...”.

            Như vậy, sau khi cuộc chiến đấu của quân ta thất bại vào buổi sáng 23 tháng 5, chính Nguyễn Văn Tường đã chủ động thỉnh Tam Cung lên đường ra chiến khu Tân Sở (*), và ông chỉ ở lại kinh sư theo lệnh của bà Từ Dũ. Kế hoạch lúc ấy là ủy nhiệm ông Tường điều đình với Pháp để cho ông Thuyết có thời gian chỉnh đốn lại lực lượng kháng chiến, đồng thời ngăn chặn không cho những kẻ thân Pháp đứng ra nắm lấy chính quyền và dễ dàng chấp nhận sự bảo hộ của Pháp. Cả trong thời gian bị lưu đày tại Tahiti, ông viết: “Giảng hòa đã 3 năm mà bổn quốc chưa từng học được một nghề, tập được một tên lính, mà nay mất một tỉnh, mai mất một thành, hai bên chưa thỏa hiệp. Thiểm cũng đã liệu biết có việc ngày nay nhưng không biết làm sao đặng...” (bản dịch từ Hán văn của Nguyễn Hy Xước) (7).

            Nhưng đã hiểu rõ thực dân Pháp như vậy, tại sao ông Tường vẫn muốn điều đình? Có người cho rằng ông Tường không ngờ Pháp đã chuẩn bị sẵn những con bài thân Pháp như Nguyễn Hữu Độ, Nguyễn Thân... và không bao giờ chấp nhận “kẻ thù lớn nhất của nước Pháp”. Chúng tôi nghĩ rằng ông Tường hiểu rõ tình hình và nhất là biết rõ con người của Nguyễn Hữu Độ vì Độ đã từng làm việc ở Thương bạc viện. Nhưng ông đã chấp nhận mọi khó khăn của tình thế và khởi động một cuộc chiến tranh chính trị và ngoại giao để Pháp không lập nổi một triều đình thân Pháp. Nguyễn Hữu Độ, được Pháp phong làm kinh lược sứ Bắc Kì, được De Courcy gọi về Huế sung vào Viện Cơ mật, nhưng vì không hợp ý với Nguyễn Văn Tường [bởi ý Độ là ý Pháp – nbs.] nên [Độ] lại trở ra Bắc Kì (Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb. [?], tr. 326). Điều đình cũng có mục đích, như đã trình bày ở trên, giúp cho Tôn Thất Thuyết có thì giờ chấn chỉnh và phát triển binh lực. Mà thế lực của ông Thuyết có mạnh thì ông Tường mới có điều kiện thương thuyết với Pháp. Pháp cũng biết như vậy, nên phải đày ông đi xa để có thể lập một Triều đình gồm những người do Pháp chọn. Trước đó, Pháp đã muốn mua chuộc ông, nhưng không thành công. Theo Nguyễn Đắc Xuân, Pháp muốn lập ông lên làm một ông vua bù nhìn, nhưng ông đã từ chối. Khi đưa ông cùng các ông Phạm Thận Duật, Tôn Thất Đính xuống tàu lưu đày, khâm sứ De Champeaux thông báo cho dân chúng biết: “Văn Tường đã chống cự nước Pháp nhiều năm. Từ khi cùng với Tôn Thất Thuyết sung làm phụ chánh, chính ông ta đổng suất quan quân nổi dậy công kích quân binh nước Pháp...”.

            Ông cũng biết rằng Pháp luôn luôn xem ông là một kẻ thù cần phải tiêu diệt. Ông cũng lượng trước những khó khăn, trở ngại mà ông sẽ gặp phải từ phía những người thân Pháp. Nhưng ông đã chấp nhận làm tròn nhiệm vụ cho đến phút cuối cùng và để cho “ngàn sau luận”. Trong những ngày lao lí, ông nhận hết trách nhiệm của hành động mình, tiếc cho đại sự không thành và chỉ biết cùng xã tắc mà mất còn. Cũng trong lá thư gửi thống đốc Tahiti, ông viết: “Làm đại thần mà không biết tiên cơ trù liệu để đến nỗi có việc ngày nay... Nếu thống đốc đem lòng giận mà sinh ra sự tình gì nữa thì thân này cùng xã tắc mất còn...” (7).

            Ông quan niệm rằng cuộc binh biến Ất dậu chỉ là một thất bại quân sự nhất thời và cuộc chiến đấu để bảo vệ nền độc lập quốc gia vẫn còn tiếp tục. Nếu kế hoạch của ta thành tựu, nếu vua Hàm Nghi không bị bắt vì một sự phản bội và cuộc kháng chiến vẫn kéo dài ở Trung và Bắc Kì với phong trào Cần vương, và nếu ông Tường vẫn nắm giữ Triều đình ở Huế thì Pháp không dễ dàng áp đặt chế độ thực dân.

            Ông tin tưởng rằng ông có khả năng thay đổi tình thế và đem lại thắng lợi cho Đất Nước. Nhưng ông đã thất bại, một phần vì thái độ nóng nảy, hống hách và đa nghi của De Courcy, người đã từ chối không xem thư giải thích của Tôn Thất Thuyết (7), không nhận quà tặng của bà Từ Dũ, và về sau này gây thêm nhiều khó khăn cho tình hình đến nỗi phải bị triệu hồi về Pháp và để cho Paul Bert sang thay. (Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, bản in năm (?), trang 328 và 329).

 

¨*¨

 

            Trong một giai đoạn cực kì khó khăn, ông Nguyễn Văn Tường đã nhận lãnh trách nhiệm của một kẻ sĩ, của một đại thần, chịu hy sinh thanh danh và thân thế để đánh một ván bài quyết định. Lịch sử đã ghi nhận những công lao của ông trong sự nghiệp xây dựng đất nước và kháng chiến chống Pháp. Những người đã từng cộng tác với ông cũng hiểu rõ hành động, thái độ và tâm sự của ông. Họ xót xa cho hoàn cảnh của ông: khi nhắm mắt nơi phát vãng, ông không thể giãi bày nỗi lòng của mình, mặc dù ông đã phó mặc cho lịch sử phê phán [phán xét] ông. Khi được tin ông mất, kịch tác gia Đào Tấn là người, theo gợi ý của ông Tường, đã xin về hưu sớm khi mới đến lứa tuổi từ tuần để phụ trách công tác Cần vương phía nam (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên) đã viếng ông hai câu đối:

                        Quốc kế thi phi lân sử định

                        Thiên phương sinh tử nhạn thư điêu

[diêu?] (8)

 

                        Kế nước đúng sai trang sử quyết

                        Phương trời sống chết cánh hồng chao.

                                    (Tôn Thất Mạnh Hào dịch).

            Trong thời Pháp thuộc, khi viết về giai đoạn chống Pháp dưới triều Nguyễn, do hoàn cảnh chính trị, sử gia Trần Trọng Kim thường tỏ ra dè dặt và thiếu khách quan. Về sau Phan Khoang và Phạm Văn Sơn, trong những điều kiện thuận tiện về tư liệu, đã có những nhận định đúng đắn hơn, tuy vẫn còn chịu ảnh hưởng của những tài liệu do Pháp để lại. Gần đây, với sự thụt lùi [, một trong những thao tác sử học để nhìn nhận đúng hiện thực lịch sử – cụ thể ở các mốc – nbs.] của thời gian, với những tư liệu mới phát hiện, những nhà nghiên cứu ở quốc nội cũng như ở hải ngoại mới khách quan tìm hiểu chủ trương và hành động của phe chủ chiến và riêng về Nguyễn Văn Tường. Họ gạt bỏ những luận điệu xuyên tạc hàm hồ, phê phán những tài liệu thiên vị hoặc dối trá, và làm sáng tỏ một số sự kiện, chẳng hạn như giai đoạn “tứ nguyệt tam vương”. Quan trọng hơn nữa, họ căn cứ vào những châu bản mới tìm lại được (Bắc Kì tấu nghị, Nam Kì tấu nghị, Thương bạc viện phúc, Việt Trung giao thiệp...) để tìm hiểu thêm về Nguyễn Văn Tường và chủ trương của ông. Nhờ đó chúng ta có đủ điều kiện để đánh giá đúng mức một nhân vật lịch sử đã có những ảnh hưởng lớn trong một giai đoạn lịch sử rối rắm. Đây đúng là trường hợp mà chúng ta khách quan nhìn lại một thời đã qua và tái tạo bộ mặt thật của quá khứ.

 

Đ.Q.H.

 

(Trích từ tập khảo luận: Kỉ yếu Hội nghị khoa học, 20.6.1996, với đề tài “Nhóm chủ chiến trong Triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường” do Trường ĐHSP. TP.HCM. [chủ trì] ấn hành, từ tr. 99 đến tr. 104).

 

 

 

 

       (*)  Thực ra là tên Khiêm lăng (chú thích này của BBT. ĐHSP. TP. HCM.).

             Xa giá lên thẳng chùa Linh Mụ. Xin xem bản đồ ở cuối sách.

 

(1)     Hơn chín năm (ĐNTL.CB., tập 30, sđd., tr. 172), từ 1853 đến 1862 (?); (1853, mới đặt chức tri huyện ở Thành Hóa).

(2)     Từ tháng 7 Đinh mão đến tháng 5 Nhâm thân (8. 1868 - 6.1873): kém hai tháng là tròn 5 năm (ĐNTL.CB., tập 31, sđd., tr. 238; tập 32, sđd., tr. 293).

(3)     Đây là bản tấu tháng 3, Đinh mão (4.1868), Nguyễn Văn Tường từ huyện Thành Hoá, tỉnh Quảng Trị về triều, trình bày nhận định và quan điểm của mình. Bấy giờ ông được vua Tự Đức trao chức trách bồi sứ, vị trí thứ ba trong sứ bộ, chuẩn bị vào Nam Kì) (ĐNTL.CB, tập 31, tr. 202 - 204).

(4)     Thủ hòa, không phải là chủ hòa (chủ “hòa”).

(5)     Theo thiển ý, chúng tôi cho rằng Gs. Đoàn Quang Hưng sẽ vận dụng sách lược này để phân tích bức thư gửi thống đốc Tahiti ở những trang sau; và gần cuối bài, Gs. kết lại nhận định về bức thư ấy bằng câu đối của Đào Tấn. Xin xem hai chú thích (7) và (8), bài này.

(6)     Đây là Hịch Cần vương trước cuộc Kinh Đô Quật Khởi 23 tháng 5 Ất dậu (ngày 5 tháng 7, 1885). Dụ Cần vương chính thức ban hành tại Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị), ngày 02 tháng 6 Ất dậu (13 tháng 7 năm 1885). Hịch Cần vương mà Hoàng Trọng Thược nói đến, người ta quen gọi là Lệnh dụ Văn thân (1883).

(7)     Chúng tôi có nhiều cứ liệu để cho rằng bức thư này đã bị sửa chữa, hoặc là bức thư giả mà ông Tiểu cao Nguyễn Văn Mại (tác giả “Lô Giang tiểu sử'') cũng không rõ thực hư thế nào. Đó là bức thư thể hiện ý thức trách nhiệm, lòng trung với nước, hiếu với nhà, “sẵn sàng cùng xã tắc mất còn”, dẫu có chết cũng chẳng tiếc gì, thế cũng hết trách nhiệm, nếu De Courcy đem lòng giận, gây ra sự tình gì nữa. Tuy nhiên, trong bức thư vẫn có đoạn phủ nhận việc Nguyễn Văn Tường vạch kế hoạch cùng Tôn Thất Thuyết tổ chức cuộc Kinh Đô Quật Khởi (23.5 Ất dậu, 1885). Ngoài ra, lại có đoạn được viết với ý: Nguyễn Văn Tường rất khổ tâm vì đành chịu chấp nhận “hợp lực đồ duy”, xây dựng đất nước Việt Nam với người Pháp, mà “vạn nhất bất hành” (cái muôn một [đầy mỉa mai ấy] cũng chẳng thực hiện được!). Một người kiên định chống Pháp, không chấp nhận “bảo hộ” như Nguyễn Văn Tường không thể “đeo đuổi theo quý quốc để hợp lực đồ duy” (cho dẫu rất khổ tâm) được! Xin xem câu đối của Đào Tấn mà Gs. Đoàn Quang Hưng trích dẫn, và bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi, 05. 7. 1885” của Trần Xuân An (tức là bài “Vài chủ điểm sử học sơ lược cần thiết khi cảm nhận bài “Giải triều …””).

(8)     Có người cho là của Vũ Tử Văn (người Quảng Trị). Có lẽ Đào Tấn ốm hoặc bận việc khẩn, nhờ Vũ Tử Văn đi điếu với ý phủ nhận bức thư nói trên, và phủ nhận cả việc Pháp đưa tin Nguyễn Văn Tường chết vì bịnh ung thư cổ họng, mà phỏng đoán chết vì lẽ khác. Sự phỏng đoán ấy có thể do câu: “Ngày nay vô cớ gặp sự không may, vạn nhất bất hành, không thu được hài cốt...” trong thư gửi thống đốc Tahiti, vốn cho là của Nguyễn Văn Tường viết. “Vạn nhất bất hành”: muôn một mà không chết (?). Về các từ ngữ: Hai chữ “lân sử” có nhắc đến ở lời tâu của Quốc sử quán triều Nguyễn; lời tâu này cũng là lời tựa Đại Nam thực lục, chính biên, tập 36 (sđd., tr. 9). “Lân sử” là tên gọi Kinh Xuân thu của Khổng Tử (còn gọi là “Lỗ sử”), (sđd., tr. 7). Đó là bộ sách điển hình của tín sử. “Nhạn thư”, lấy từ điển: Tô Vũ, tướng triều Hán, Trung Hoa, bị Hung Nô bắt đày, chăn dê. Tô Vũ buộc thư vào chân chim nhạn. Hán Võ Đế nhận được, biết Tô Vũ còn sống và yêu cầu Hung Nô tha cho Tô Vũ về (Bửu Kế, Từ điển từ ngữ tầm nguyên, Nxb. Trẻ, 2000, tr. 609 - 610 và 599). Chữ “điêu” trong từ ghép “điêu trá”; trong câu đối trên, có nghĩa là thư viết về Nguyễn Văn Tường còn sống hay đã chết và chết do đâu chỉ là bức thư giả, biạ đặt (8*). Nhà thơ tam nguyên Nguyễn Khuyến, người chịu thua non, đầu hàng sớm (1884), đã tự trào trong mặc cảm vô trách nhiệm về việc “chạy làng” khi ván cờ lịch sử “đang dở cuộc”, “không còn nước”, về sau cũng đã viết trong bài Xuân nguyên hữu cảm: “Hữu cừu, vị cảm độc Xuân thu” (có [mặt] kẻ thù, chưa dám đọc lân sử), với ngụ ý như Đào Tấn. 

(8*) Bị chú cho chú thích (8): Vì không có văn bản nguyên văn chữ Hán (mặt chữ cụ thể), chỉ căn cứ vào bản phiên âm phép tiểu đối trong cặp câu song thất trên, có thể hiểu nhiều cách. Tuy nhiên, chung quy là cách nào thì chữ “điêu” (hoặc “diêu”) cũng là động từ (đối về từ loại với chữ “định” [động từ “thẩm định”}); đồng thời, các nghĩa không khác nhau, do ngữ nghĩa trong văn cảnh cụ thể quy định. Một là, chữ “điêu” trên còn được đọc là “điệu”: mỏng mảnh; hoặc âm khác là “diêu”: làm chậm trễ [Thiều Chửu, HVTĐ., sđd., tr. 22]. Hai là, có người hiểu chữ ấy là “diêu” ([Thiều Chửu, HVTĐ., sđd., tr. 761 chứ không phải “điêu”) có nghĩa là vật vờ trong gió như tin đồn khó xác thực (và vì Đào Tấn đang ở xa [theo Nguyễn Mạnh Hào]). Ba là, cũng có thể đoán, đó là một chữ có âm khác là “miểu”, “diểu” trong từ ghép “phiếu diểu”, sđd., tr. 351, 422 mà TĐHV. của Đào Duy Anh phiên âm là “diêu” trong từ ghép “diêu mang” (mập mờ khó biết tin) hoặc là chữ “dao” (lay động). Xin lưu ý: Nguyễn Mạnh Hào dịch là “chao” (lá thư bay nghiêng qua nghiêng về trong gió, có nghĩa là không rõ, không xác thực về tình trạng sống, chết của Nguyễn Văn Tường, cho đến khi Tôn Thất Đính được phóng thích để đưa linh cữu Nguyễn Văn Tường về nước). Người biên soạn mong được tham khảo thêm ý kiến. Kết luận: bức thư gửi thống đốc Tahiti được sao chép gửi về là bức thư giả, không xác thực, do cánh chủ “hoà” biạ đặt ra. Ngoài lí do chính là sợ sĩ dân phẫn nộ, điều đó giải thích thêm vì sao trong Đại Nam thực lục, chính biên tập 37 không đề cập đến cái chết của Nguyễn Văn Tường. Xin xem thêm chú thích (3) của bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi, 05. 7. 1885” [căn cứ vào tư liệu của Delvaux, trong bài “Cái chết của Nguyễn Văn Tường, cựu phụ chính An Nam” (NNBCĐH. [BAVH., 1923], tập X, Phan Xưng dịch, Nguyễn Vy hiệu đính, Nxb. TH., 2002, tr. 478 – 485)]. Cụ thể hơn, xin vui lòng xem cuốn khảo luận “Nguyễn Văn Tường, “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”” của Trần Xuân An.

 

 

 

 

 

 

 

Xem tiếp:

http://tranxuanan.writer.2.googlepages.com/tho_nvt-vnvcnthvttuong_4.htm

 

Cũng có thể xem tại:

http://www.tranxuanan-writer-5.blogspot.com  

http://www.tranxuanan-writer-6.blogspot.com

Trở về trang

danh mục tác phẩm -- muc lục:

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/danhmtphamtxa_googlepcreator.htm

 

bài mới -- sách mới -- tin tức mới: 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/baimoi-sachmoi-2

______________________________________________________________________________________________________________

 

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/home

 

 

Google page creator /  host

 

GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE  

 

    lên đầu trang (top page)   

 01 & 02-5 HB7 (2007) = 15 & 16-3 Đinh hợi HB7