a. Trần Xuân An - Nguyễn Văn Tường (1824-1886), một người trung nghĩa - Tệp 1b1c

 

trần xuân an

Nguyễn Văn Tường,

những người trung nghĩa từ xưa,

tưởng không hơn được

    author's copyright

07/01/09

 

A.

 

Lời thưa

 

Bài 1

 

Bài 1_b

 

Bài 1_c

 

Bài 2

 

Bài 3

 

Bài 4

 

Bài 5

 

Bài 6

 

 

B.

 

Phụ lục 1

 

Phụ lục 2

 

Phụ lục 3

 

 

C.

 

Ngoài sách

 

Cuối sách

 

 

____________

____________

 

Hình ảnh 1

 

Hình ảnh 2

 

Bản đồ

 

 

 

 

 

 

 

                             

  

TRẦN XUÂN AN

 

NGUYỄN VĂN TƯỜNG,

“NHỮNG NGƯỜI TRUNG NGHĨA

TỪ XƯA,

TƯỞNG KHÔNG HƠN ĐƯỢC”

 

KHẢO LUẬN VỀ MỘT VÀI KHÍA CẠNH SỬ HỌC

 

 

  

Nhà Xuất bản  

2003

(trước & chính xác là từ 02-7 HB2 [2002])

 

  

 

 

 

 

( bài 1 tiếp theo : phần C )

 

 

 

(7). Thủ đoạn của Pháp là bao vây, cô lập nước ta về ngoại giao. Tháng 8 âl., 1881, Rheinart nói rõ, đại ý: “… Nước ấy [nước Pháp – TXA. ct.] không lấn quyền nước ta, chỉ bắt ta không được giao thiệp với nước khác thôi. Ta nếu không nghe, nước ấy cũng bắt làm cho được” (ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH., 1975, tr. 59). Cơ mật viện – Thương bạc nhận định: “… Nước ấy đã mưu, không phải một ngày. […] … Ngăn ngừa ta giao thông với nước ngoài, là chỗ giảo quyệt của nước ấy. Duy trong ước có một điều “nước ta muốn định thương ước với nước nào đều được tuỳ tiện” thì nước ấy đâu có thể trái lời ước được. Nhưng ta từ trước đến giờ chưa giao thông với các nước, mà nước ấy không khỏi giữ ngầm ở trong, nên 6, 7 năm nay, các nước chưa nước nào đến định thương ước với nước ta. Gần đây ta cùng với nước Y Pha Nho định ước, giao ước với nhau đã lâu, mà nước ấy [nước Y Pha Nho – ct.] cũng chưa có đến, thì tình có đáng ngờ, cũng là tình của ta chưa thông với các nước, cho nên nước ấy [nước Pháp – ct.] mưu làm tự chuyên. Vả lại giao thiệp với nước ngoài thực khó, ta chỉ sợ khích nước ấy, lòng mưu tính ta, vì đó lại phát ra. Nay mưu nước ấy sắp thành, ta há nên không giải quyết sớm, huống chi ta cũng cứ lý mà làm, làm sáng cho chúng biết, có trái ước gì đâu, mà chúng vin cớ để nói được… […]. Nhưng tự trước đến giờ thường bị nước ấy ngăn trở, vì ta không có tàu, chỉ đáp tàu với nước ấy, tùy theo nước ấy đi hay đứng mà phải thế. Nay xin sửa soạn tàu của ta, chọn người ở triều đình có lòng đảm đương công việc lấy hai, ba người, lấy cớ đi tìm học về bác vật, như nước Thanh cho người đi học các nước, tư rõ trước cho nước ấy biết. Đến lúc đi thì đến nước ấy trước, nhân chuyển đi các nước Y, Anh, Phổ, Mỹ, khiến cho các nước biết ta tự chủ, nhân đó mà thông suốt tình ý. Tục Thái Tây thích giao thiệp chơi bời với nước xa, ta đến, tự khắc không nước nào không nhận, tưởng cũng có nước muốn  giao thiệp thông thương với nước ta, thực khiến cho tình của nước ta thông suốt các nước, thì nước ấy không thể tự ý làm càn được. Nếâu nước ấy có lòng nào bắt ức ta, ta cũng có thể cùng các nước điều đình giúp bàn lại, tưởng cũng là một kế đấy… […]. Lại việc này còn xa, nay gần mà có thể giao thông được thì ở Yên kinh, sứ các nước đều ở đấy, nhiều lần sứ bộ ta sang Yên kinh chưa biết bàn đến việc ấy, vì sự thể giao tế khác nhau, cho nên khó làm. Nay có Cục Chiêu thương chở hàng thuê, do quan ở Cục ấy giới thiệu, tưởng cũng là một cơ hội. Gần đây tiếp được tin báo Đường Đình Canh tháng này cũng đến, xin do bọn tôi thương thuyết, nhờ viên ấy ngỏ ý với Lý Hồng Chương nhờ mật dò ý sứ các nước Anh, Mỹ, Phổ, để nắm được cốt yếu, thông thuyết giúp cho. Còn sứ Y Pha Nho ở đấy, nước ấy đã định ước với ta, thì nên bàn với họ. Nước Thanh gần đây tranh nước Lưu Cầu với nước Nhật Bản mà không được [vì có sự can thiệp của tổng thống Mỹ Grant – ct.], nay nước ấy [nước Thanh – ct.] […] tưởng cùng nòi giống [da vàng – ct.] với ta cũng lo [lo âu về các nước thực dân da trắng – ct.], tất hết lòng mưu thực mà việc chóng xong …” (ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 59 – 62).

Tháng 12 âl., cuối năm 1881 bước sang 1882, “vua cho là quan nước Thanh vào yết kiến, sợ sinh ngờ. Bèn cho Nguyễn Văn Tường bàn kín với Đường Đình Canh. […]… Văn Tường mật dặn Đường Đình Canh 3 việc:

-      +++ … Nước ta đặt quan đón đón chờ ở kinh đô nước Thanh, nếu có việc gì, được tố cáo ở Tổng lý nha môn.

-      +++ Ở Quảng Đông, hiện nghe lãnh sự các nước phần nhiều đóng ở đấy […]… Nước ta đặt 1 lãnh sự ở đấy để tiện đi lại buôn bán, thông báo tin tức, nhân cùng giao du với các nước để thông hiểu tình ý.

-      +++ Nước ta muốn phái người đi khắp các nước như các nước Anh, Nga, Phổ, Pháp, Mỹ, Áo, Nhật Bản, xem xét và học… […].

… Lại đều đem đồ vật gửi tặng […]… Tổng đốc họ Trương [Trương Thụ Thanh – ct.] […] đem đồ vật ấy trả lại, nói rằng nhận sợ nước Pháp ngờ, có việc khó giảng thuyết, tổng đốc họ Lý [Lý Hồng Chương – ct.] cũng lấy thơ và tờ khải đưa cho để tỏ tình cùng khuyên về ý đều phải tự cường” (ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 90 – 91).

Tháng 6 âl., 1883, Tự Đức mất. Đến khi Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết thực sự lãnh đạo Đất nước, Triều đình Huế thực hiện chủ trương ngoại giao đối trọng, trung lập giữa hai nước Pháp, Hoa, vì cả hai nước này đều mưu toan xâm lược và chia nhau Bắc kì! Đó là chiến thuật tọa sơn quan song hổ đấu (ngồi trên núi xem hai con cọp xâu xé nhau), chờ cơ hội giành lại quyền tự chủ cho Đất nước.

Nhưng, tiếc thay, 14.8 âl., 1884, Lý Hồng Chương – Fournier kí tạm ước Thiên Tân, buộc Đại Nam phải chấp nhận cưỡng ước Patenôtre! Nước Nga lại đứng ra điều đình để Pháp – Hoa chính thức kí hiệp ước Thiên Tân (Patenôtre – Lý Hồng Chương), vào ngày 27.4 Ất dậu (1885) (ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 127 và tr. 174)! [Theo “Việt Nam sử lược”, khởi đầu việc môi giới cho tạm ước Fournier là do một người Đức, tên Détring (sđd., b. 1964, tr. 539 – 540)].

 

(8). Điểm này chúng tôi thấy cần nói rõ thêm: các tên đội lốt linh mục, giám mục, một mặt, thổi phồng con số, mặt khác, quy tất cả bọn Việt gian theo Pháp vào nhãn hiệu “giáo dân”, đồng thời tôn các tên xâm lược Pháp là “sứ giả của Thiên Chúa”! Do đó, “bình Tây sát tả”, khẩu hiệu ấy được hiểu là đánh dẹp giặc Pháp xâm lược và tiêu diệt bọn “giáo dân” với nghĩa trên và với nghĩa chối bỏ truyền thống dân tộc, để bảo vệ độc lập dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam của chúng ta.

Về từ “giáo dân” được Quốc sử quán sử dụng trong phần viết về cuộc Kinh Đô Quật Khởi (22 – 23.5 âl., 1885) và hai tháng sau đó: Đó là lực lượng giáo dân do thực dân Pháp vũ trang súng đạn; đó là bọn lính ma tà (“giáo dân vô lại”…). Xin phân biệt với bộ phận giáo dân lương thiện, không theo “tả đạo”, thực dân (xem thêm: GS. Trần Văn Giàu, Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó… , Nxb. TP.HCM., 1993, tr. 368 – 371).

Mặc dù vè “Thất thủ kinh đô” không phải là tư liệu gốc, chỉ là một tác phẩm dân gian hư cấu với nhiều sai lệch đáng kể, chúng tôi cũng trích một vài đoạn, chỉ để tham khảo thêm:

 

“Đô thành, quan Quận giao hòa

Lựa chiều hơn thiệt nói mà với Tây

Tây phiên ngẫm vẫn giận thay:

“Đem lòng cự chiến, còn đến đây làm gì?

May mà Nam Việt buổi bại suy

Tây mà bại, Đạo phen ni, cũng không còn

Người mà phiêu lạc núi non

Bao nhiêu nhà cửa chẳng còn gì đâu

Tây phiên thúc thủ thụ đầu

Hàng lai Nam Việt, mảnh âu chẳng lành

Tây phiên trở lại Tây thành

Ở đây xấu tiếng bia [bêu?] danh đã rồi

Họ không cho đâm nhánh mọc chồi

Trăm dao xẻo thịt thả trôi giang hà”

Quan Quận khi ấy nói qua

Nói cùng Đại Pháp chư nha phiên trào:

“…”

Quan một cho đến quan ba

Quan năm quan sáu vậy mà cũng nghe!

Đòi triệu các quan tỉnh trở về

Sự tình y ước cho ra bề đục trong

Tin thì tin, dạ còn phòng

Nam triều tể tướng nó đem lòng phục binh…”.

 

Vẫn là vấn đề “bình Tây sát tả”; “Bắc Việt bị “bảo hộ”” và “Nam Việt [Trung kì] thuộc Nam triều”!

Chúng vẫn sợ Nam triều tể tướng Nguyễn Văn Tường làm nội công cho Tôn Thất Thuyết.

(Ở cuốn “Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng”, chúng tôi đã có dịp bước đầu phân tích vè “Thất thủ kinh đô” với một vài nét nhấn then chốt).

Về Giáo hội Thiên Chúa giáo Vatican và Hội Truyền giáo Paris tại hải ngoại, ngoài ba cuốn sách của Trần Tam Tỉnh, Trần Văn Giàu và Yoshiharu Tsuboi mà chúng tôi có tham khảo, xin xem thêm: TS. Cao Huy Thuần, “Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân [Pháp] tại Việt Nam [1957 – 1914]” (Christianisme et colonialisme au Viet Nam, 1957 – 1914), luận án tiến sĩ tại Pháp (1969), bản dịch, in ronéo của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973; vừa được Nxb. Tôn Giáo tại Hà Nội xuất bản với bản dịch mới của Nguyên Thuận (vào tháng 02.2003), với sự thay đổi nhan đề: “Các giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1957 – 1914)” (Les missionnaires et la politique colonial française au Viet Nam, 1857 – 1914) [!?!].

Nhân tiện, xin mở một ngoặc đơn ở đây:

1.   +++ Cao Huy Thuần đã chứng minh đúng vai trò xâm lược của Giáo hội Thiên Chúa giáo Vatican (Rome); các giáo hoàng Nicolas V với giáo chỉ năm 1454, Calixte III với giáo chỉ 13.3.1456, Alexandre VI với giáo chỉ Inter Caetera 04.5.1593, đã chủ động câu kết với các thế lực thực dân như Hà Lan, Bồ Đào Nha, Pháp, Tây Ban Nha… [sđd., tr. 11]; và vai trò xâm lược trực tiếp trong lốt cố đạo của các giáo sĩ từ các nước thực dân ấy.

Đối chiếu tư liệu: Machiavel, Quân vương (Le Prince), Phan Huy Chiêm dịch, Nxb. Quảng Hoá, 1968, tr. 48 – 53; Trần Tam Tỉnh (linh mục, giáo sư, viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Canada), Thập giá và lưỡi gươm (Dieu et Céçar, [dịch thoát]), Vương Đình Bích (linh mục) dịch, Nxb. Trẻ, 1988, tr. 14 – 15. Theo Machiavel, cha đẻ của Céçar Borgia là giáo hoàng Alexandre VI.

2.   +++ Cuốn sách của Cao Huy Thuần ở chương có đề cập đến các nhân vật lịch sử Việt Nam dưới thời Tự Đức (chúng tôi chỉ giới hạn trong khoảng thời gian 1873 – 1874; sđd., tr. 253 – 326), có một số điểm cần bàn. Đó là sự mập mờ, lệch lạc, đánh tráo, xuyên tạc không thể không chỉ ra và phê phán để tránh những ngộ nhận lịch sử đáng tiếc. Cao Huy Thuần không phân biệt khuynh hướng chủ “hoà” (đầu hàng) với biện pháp “hoà là cơ nghi” (“chiến rồi mới có thể hoà, hoà để thủ, thủ để mưu chiến”). Cao Huy Thuần muốn che giấu cho Trần Tiễn Thành!

3.   +++ Cao Huy Thuần chỉ sử dụng tư liệu của Pháp (trong đó có tư liệu ở các kho lưu trữ của Bộ Hải Ngoại và Thuộc địa Pháp) một cách không đầy đủ, lại thiếu sự đối chiếu với tư liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn…

 

(9). Chúng tôi xin chốt lại và nhấn mạnh điểm này: Có điều, sử học vẫn phải phân tách rõ “hư chiêu”“thực chiêu”: a). căn cứ vào ba mươi năm làm quan, một niềm trung quân ái quốc và kiên định lập trường chống Pháp; b). căn cứ vào hai tháng sau ngày 23.5 Ất dậu, 1885 với hai mật dụ Hàm Nghi từ Tân Sở gửi về và tinh thần đấu tranh khẳng khái, không chịu khuất phục của Nguyễn Văn Tường [gồm cả ý định  lập Đồng Khánh bởi không còn ai trong diện có thể, ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 23]; c). căn cứ vào hai bản kết án chung thẩm của De Courcy, De Champeaux và Triều đình Đồøng Khánh [ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 247 và tập 37, sđd., tr. 33, 35, 132 –141]; d). căn cứ vào cả tư  liệu của Puginier, H. Le Marchant de Trigon, A. Delvaux (1916)… , các tư liệu chưa công bố của Pháp được trích dẫn bởi Yoshiharu Tsuboi (NĐNĐDVP. & TH.,  công trình được tài trợ bởi chính phủ Pháp với sự giúp đỡ của một số nhà sử học Pháp [1982]; quan điểm của Tsuboi vẫn là bảo hoàng, tư sản…).

Xin nhấn mạnh:

Có ý kiến khác: Đưa vua Hàm Nghi về nhưng vẫn tiếp tục cần vương; Hàm Nghi sẽ lãnh đạo tổng quát cuộc kháng chiến bằng mật dụ; chỉ đạo kháng chiến trực tiếp chỉ cần Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng… Bởi lẽ, một nước có hai vua là quá táo bạo! (ĐNTL.CB., tập 36, sđd., cuối tr. 244).

Xin tham khảo thêm:

1. Những tư liệu sau đây khớp với tư liệu chuẩn cứ (Đại Nam thực lục, chính biên, tập 36, và có thể kể cả tập 37, bộ sđd.) cũng như các tư liệu khác, chúng tôi đã có dịp trưng dẫn trong bài viết “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi 05.07.1885” (đã in trong tập tư liệu “Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường – Các báo cáo khoa học”, do Trung tâm KHXH. & NV. thuộc Viện Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế, Tạp chí Huế Xưa và Nay tổ chức, in ấn, 02.07.2002, tr. 59 – 83):

      ◘ Tài liệu 1: Bài báo “Những biến cố ở Huế” (Les évènements de Huế), đăng trên tờ nhật báo L’Unité – Indochinoise (cơ quan của quyền lợi chính trị, thương mại, canh nông, kĩ nghệ của Nam Kì, Cam Bốt, Bắc Kì và Trung Kì), số 70, năm thứ hai, ra ngày thứ sáu, 07.08.1885.

      Đoạn mở đầu, tác giả khẳng định: “Cách đây vài ngày, chúng tôi đã viết là [Nguyễn Văn] Tường chẳng bao giờ là đồng minh của chúng ta. Nay, cần thêm rằng, chúng ta chẳng hề tin tưởng một tí gì về những lời hứa hẹn chính thức nhất của ông ta, và rằng, sau chuyến bôn tẩu của nhà vua An Nam cùng với vị thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết, ông ta ở lại kinh thành chỉ nhằm mục đích phục vụ cho những người nói trên (vua và Tôn Thất Thuyết) mà thôi”.

      ◘ Tài liệu 2: Bài báo “Vụ bắt giữ viên quan Tường” (L’arrestation du mandarin Tường), đăng trên tờ báo Avenir militaire (Tương lai quân đội), số ra ngày 26.09.1885. Đây là một bài báo đã được tìm thấy trong tình trạng đã được cắt rời khỏi tờ báo.

      Nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc lược dịch như sau: “Chúng ta đã tìm thấy những thông tin sau trong một bức thư đề ngày 11 tháng 09 gửi cho Hãng Thông tấn Havas: Tôi đã gửi cho ông chiều hôm qua một điện tín để báo cho ông biết việc vị đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn Tường bị bắt. Bằng cách nào và tại sao người ta bắt ông?

      Sau biến cố 05 tháng 07, [Nguyễn Văn] Tường tìm gặp thống tướng [[De Courcy]], ông ta bị bắt cầm tù và buộc phục vụ cho nước Pháp. Thoạt tiên, tướng tổng tham mưu định xử bắn ông, nhưng nghĩ lại, tốt hơn là giao cho ông ta tái lập guồng máy hành chính An Nam nhưng ông vẫn là tù nhân chừng nào những xao động chưa được xếp đặt yên ổn, người ta uỷ thác cho ông ta tái lập niềm tin trong dân chúng và giúp chúng ta theo dõi tất cả hoạt động của giới quan lại. Ông ta có nhiệm vụ đưa vua hồi loan và không được phản bội lại chúng ta. Tất cả những điều kiện ấy đang được thực thi hay ít ra chúng ta tưởng như vậy cho đến những ngày gần đây, chúng ta biết rằng [Nguyễn Văn] Tường liên lạc bí mật với thân phụ [nhạc phụ?] ông ta ở bên ngoài. Người ta không tìm thấy gì khi bắt giữ những người chuyển văn thư. Nhưng, vào chiều ngày thứ hai vừa qua, tình cờ ta bắt giữ được một tên trong bọn chúng. Khám xét khắp người, người ta chẳng tìm thấy gì. Khi lột trần tên mật sứ kia, khám kĩ y, người ta đã tìm thấy một mảnh giấy nhỏ, nội dung được dịch ngay tại chỗ và quyết định bắt giữ [Nguyễn Văn] Tường ngay tức thì. Nội dung mảnh giấy là gì, chỉ có thống tướng biết…”.

      ◘ Tài liệu bổ cứu cho bài báo trên: “Ngày 05 tháng 09 là hạn chót hai tháng mà ông thống tướng De Courcy quy định cho [Nguyễn Văn] Tường phải ổn định An Nam. [Nguyễn Văn] Tường, như người ta nhận biết, đã cung cấp cho chúng ta những nguồn tin thất thiệt; mặc dù chúng ta đã giám sát chặt chẽ, ông ta vẫn liên lạc với những nhân vật đáng ngờ ở bên ngoài. Thống tướng quyết định cho bắt giữ ông ta”.

      (Trích Gosselin, L’Empire d’Annam, Perrin et Cie, Librairies – éditeurs, Paris, 1904, tr. 219).

      Sau khi giới thiệu các tài liệu trên, nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc kết luận:

      “Vậy là, các nguồn tư liệu đều cho chúng ta biết rằng trong thế bị cầm tù ở Thương bạc, và dù bị giám sát chặt chẽ, Nguyễn Văn Tường vẫn liên lạc với bên ngoài cho đến khi bị phát giác và bị bắt. Cho nên những việc ông công khai làm dưới sự ép buộc của người Pháp trong tình thế bị giam hãm là những hành động bất đắc dĩ, không thật tâm, còn những liên lạc bí mật với bên ngoài, chính là những cố gắng cuối cùng của ông nhằm phục vụ Đất nước, bày tỏ trung thành với vua Hàm Nghi. Đó là lí do chính yếu mà De Courcy quyết định bắt và lưu đày ông …”.

      (Trần thuật và dẫn theo bài báo của Trần Viết Ngạc, “Những tư liệu mới về Nguyễn Văn Tường” [giới thiệu, phân tích, bổ sung tư liệu sưu tầm, dịch thuật của bà Nguyễn Thị Ngọc Oanh, hậu duệ của cụ Nguyễn Văn Tường, và con gái bà là Trần Nguyễn Từ Vân], bns. Xưa & Nay, số 126 (174) tháng 10.2002, tr. 18 – 20).

2. Xem thêm: Nhiều tác giả, Côn Đảo, kí sự và tư liệu, Ban liên lạc tù chính trị, Sở Văn hóa – Thông tin, Nxb. Trẻ Tp. HCM. phối hợp xb., 1998, tr. 85: Khi đày Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Tôn Thất Đính ra Côn Đảo, De Courcy có gửi theo một mật hàm cho chúa đảo là Caffort:

“Tầm quan trọng của những tù nhân này đòi hỏi phải được giám sát hết sức nghiêm ngặt với bất cứ giá nào”.

Theo tư liệu trên, Nguyễn Văn Tường bị Pháp đổ thuốc độc vào miệng, nên răng bị rụng (vài chiếc, và bị lung lay nhiều chiếc khác) (tr. 85).

(Dẫn theo: PGS. TS. Đỗ Bang, tập Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) – Các báo cáo khoa học, bài “Góp phần làm sáng tỏ những uẩn khúc trong cuộc đời của nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường”, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế phối hợp tổ chức, 02.07.2002., tr. 40).

3. GS. Trần Văn Giàu, Chống xâm lăng, Nxb. TP. HCM. tái bản, 2003, tr. 560: “Nhưng giữa lúc Cuốc-xy bối rối vô cùng thì Từ-Dũ và Tam cung về Huế. [&?!? – TXA. ct.] Viện Cơ mật [&?!? – ct.], Nguyễn-hữu-Độ làm phó (Độ là phó vương Bắc-kỳ được Pháp tin cẩn), lập một số bộ, trong đó có bộ binh do tên khâm sứ Sam-pô [Champeaux – ct.] cầm đầu. Cuốc-xy ép đám hoàng thân cử Thọ-Xuân làm phụ chánh [đúng chức danh là nhiếp chánh – ct.], ép Thọ-Xuân làm bản tuyên cáo nói rằng Tôn-thất-Thuyết là nghịch đảng, rằng các quan ở Bắc, Trung phải cộng tác với quân Pháp để tiêu diệt nghịch đảng, v.v… Nhưng chính địch cũng phải thừa nhận rằng ông già Thọ-Xuân 76 tuổi “không có ảnh hưởng gì trong nhân dân cả”, càng không có ảnh hưởng gì với tầng lớp thân sĩ trí thức.

“Cái khả năng duy nhất của ông phụ chánh [nhiếp chính Thọ Xuân vương Miên Định – TXA. ct.] chỉ là ký tên mà thôi” (Gosselin, L’Empire  d’Annam [tr.? – ct.])”.

4. Xem thêm: Có một giai thoại về phụ chính Nguyễn Văn Tường sau ngày kinh đô quật khởi và bị thất thủ, đề cập đến tài năng, nhân cách, tư tưởng, thái độ chính trị kiên cường chống Pháp và lòng trung nghĩa của ông. Những đoạn trong giai thoại này, sau khi khảo chứng (đối chiếu tư liệu gốc, bổ cứu, loại trừ …), xét thấy không đúng với sự thật lịch sử, chúng tôi đã mạn phép lược bỏ. Mặc dù giai thoại chỉ là chuyện truyền khẩu, chứa đựng nhiều sai lệch, nhưng ít nhiều vẫn có thể đãi lọc một vài lượng thông tin nào đó, trên cơ sở khảo chứng khoa học. Có một điều cần nhấn mạnh, Nguyễn Văn Tường được cử ở lại Huế sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi và bị thất thủ không chỉ nhằm mục đích hạn chế sự thiệt hại về nhân mạng, tài sản triều đình và của cải nhân dân, mà còn để thực hiện phương án vừa đánh vừa đàm. Cũng cần nhấn mạnh, Nguyễn Văn Tường vốn là một đại thần trung nghĩa, và ông thừa biết thủ đoạn “gạ gẫm” của bọn Pháp. Xin chép lại để tham khảo thêm như sau:

      “ … Dưới thời Tự Đức, [phụ chính Nguyễn Văn] Tường làm quan nổi tiếng là một người mưu lược, những việc gì khó thì triều đình đều cử [Nguyễn Văn] Tường đảm nhiệm. Tự Đức mất, để di chiếu lại, cử [Nguyễn Văn] Tường là một trong ba người trọng thần. (Hai người kia là Trần Tiễn Thành và Tôn Thất Thuyết). Lúc Pháp xâm chiếm Việt Nam, [Nguyễn Văn] Tường và [Tôn Thất] Thuyết là hai người đứng đầu phe chủ chiến quyết tâm đánh Pháp. Sau sự kiện thất thủ kinh đô (07.1885) [đệ nhị phụ chính Tôn Thất] Thuyết đưa vua Hàm Nghi xuất bôn, tiếp tục cuộc kháng chiến lâu dài, [đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn] Tường là người mưu lược, được cử ở lại để tìm mọi cách hạn chế bớt sự thiệt hại. Vì “nhiệm vụ lịch sử”, [phụ chính Nguyễn Văn] Tường đã bị mang tiếng phản bội, cộng tác với giặc.

      [Phụ chính Nguyễn Văn] Tường là một đối thủ đáng gờm của Pháp từ mấy mươi năm. Cho nên khi [phụ chính Nguyễn Văn] Tường đã “về hàng” mà Pháp vẫn sợ và cho một đơn vị quân đội luôn canh chừng [Nguyễn Văn] Tường. Mặt khác, Pháp muốn dùng “tên” của [phụ chính Nguyễn Văn] Tường để làm “tay sai” cho chúng, nên chúng đã tìm mọi cách để lôi kéo [Nguyễn Văn] Tường.

      Khi được linh [giám] mục Caspard [Caspar] cho biết [phụ chính Nguyễn Văn] Tường chính là con vua Thiệu Trị và em vua Tự Đức, Pháp đã gạ [Nguyễn Văn] Tường:

      - Ông là người có dòng máu nhà vua, lại có tài, vậy ông có muốn làm vua không?

      [Phụ chính Nguyễn Văn] Tường lắc đầu. Pháp lại hỏi:

      - Nghe ông có một người con cũng giỏi lắm. Ông có muốn cho con ông làm vua không?

      [Phụ chính Nguyễn Văn] Tường cũng lắc đầu.

      Tên đầu sỏ thực dân Pháp ở Huế [De Champeaux] cũng lắc đầu:

      - Con vua mà không muốn làm vua … Thật là một chuyện lạ! Phải chăng lòng ông còn đang mơ tưởng đến Hàm Nghi, phải không?

      Sự nghi ngờ [phụ chính Nguyễn Văn] Tường trong lòng bọn thực dân lại chồng chất thêm. Cuối cùng, khi thấy không thể tin được, bọn Pháp đã đưa [phụ chính Nguyễn Văn] Tường đi đày và ông đã chết …”.

(Nguyễn Đắc Xuân viết theo Phan Văn Dật [thi sĩ tiền chiến, người Quảng Trị] và nhiều tư liệu khác, “Con vua mà không chịu làm vua”, trong cuốn Hương giang cố sự, Tủ sách Sông Hương xuất bản, 1986, tr. 47 – 48. Xem thêm: Nguyễn Đắc Xuân, Chuyện các quan triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hoá, 1999 (?)…).

Chúng tôi đã viết rõ ở truyện thứ nhất, tập I, bộ truyện kí – khảo cứu lịch sử “Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường”: ông không phải là con rơi của vua Thiệu Trị.

 

(10). Đào Doãn Địch (ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 79). Xem thêm về nhân vật Đinh Hội (ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 80, 142 [?], 244, 325): Đinh Hội chống Pháp, không chống Triều đình thời Nguyễn Văn Tường còn giữ vị thế.

 

(11). Đây là loại thông tin bản án. Trong các loại thông tin, loại bản án, cáo thị, mật thư, mật dụ… hiển nhiên có độ khả tín cao nhất. Các loại thông tin này được phối kiểm và kiểm chứng bằng suốt cả quá trình hoạt động lâu dài và ở kết thúc cuộc đời nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (bị lưu đày và chết ở chốn lưu đày biệt xứ). Ở kỉ đệ tứ, đệ ngũ (các tập 27 – 36), những văn kiện trên là hoàn toàn xác tín. Riêng ở kỉ đệ lục (2 tập 37 – 38), ngoại trừ bản án về bốn nhân vật chủ chốt [*] trong nhóm chủ chiến đã được xác định độ khả tín tuyệt đối, thì số văn kiện liên quan còn lại, cần phải đãi lọc (chúng tôi đã thực hiện ở bài viết).

Năm 1890, Trương Quang Đản có dâng sớ chạy “tội”, kêu “oan” cho Trương Văn Đễ, do quyền lợi chính trị thời bị “bảo hộ”!? Chỉ có một trường hợp như vậy (xem “Đại Nam liệt truyện”, tập 3, sđd., tr. 425 – 426). Người viết nghĩ rằng, ngoài việc cùng chủ trương cuộc Kinh Đô Quật Khởi (05.7.1885), Trương Văn Đễ còn được trao nhiệm vụ cản hậu và đánh lạc hướng các cuộc truy kích vua Hàm Nghi mà thực dân Pháp cố quyết tiến hành. Riêng chi tiết (cản hậu, đánh lạc hướng) này, và vai trò tương tự của Đinh Tử Lượng, cần được nghiên cứu, xác minh thêm, mặc dù chúng tôi nhận thấy đã có đủ dữ kiện trong ĐNTL.CB., tập 36, tr. 223, 229, 234, 243.

[*] Phạm Thận Duật hóa ra chỉ là một nhân vật rất mờ nhạt, không có tên trong bản án chung thẩm này.

 

(12). “Nguyễn Văn Tường, thượng thư, sau này là phụ chánh, Văn Minh, sau [nữa là] Cần Chánh, Ky-vi-ba, phụ trách đối ngoại, bị đày vào năm 1885 ở Tahiti và mất tại đó” [bị chú của H. Le Marchant de Trigon; những chữ trong dấu móc vuông [ ] là của chúng tôi – người viết và chú thích chua thêm (TXA. ct.); xin lưu ý thêm: 29.8.1875 (một ngàn tám trăm bảy mươi lăm)].

Trích từ: H. Le Marchant de Trigon, bài “Vị đại biện đầu tiên của nền bảo hộ đến Huế” [viết về Rheinart], Những người bạn cố đô Huế (BAVH., 1917), Nxb. Thuận Hóa, 1998, tập IV, sđd., tr. 273).

 

(13). Về Tôn Thất Thuyết, tên ông hầu như luôn luôn gắn liền với danh tính Nguyễn Văn Tường, hoặc được gọi chung là “hai người” trong ĐNTL.CB., tập 35 – tập 37, Nxb. KHXH., 1976 – 1977, chứng tỏ sự nhất dạng cao. Tuy nhiên, trước đó cũng có lần Tôn Thất Thuyết mắc mưu bôi nhọ, nhằm triệt hạ, đập tan tành uy tín Nguyễn Văn Tường của De Champeaux:

“Thượng thư bộ hộ là Nguyễn Văn Tường vì bị lời gièm (nguyên hiệp đốc là Tôn Thất Thuyết tâu nghĩ về việc tiền đồng dị dạng có nói: “Thuyền nước khác mang đến, hết lòng xin giúp”; lại nói: “Cùng người chia lợi, mọt nước hại dân, lại ở kinh đô đồn rầm là Nguyễn Văn Tường nhận nhiều của lót, tâu xin bỏ cấm”) xin trả việc Bộ Hộ, đổi sung bộ khác.

Vua dụ rằng: “Thuyết ít học không thông, lại có tật nóng nẩy, nói càn, sao đáng kể; lời đồn ở kinh đô cũng không căn cứ; người xưa không thể dẹp được lời gièm, cho nên nói: “Cứu rét không gì bằng mặc hai lần áo cừu, dẹp lời gièm không gì bằng tự phải tu tỉnh”. Nguyễn Văn Tường từ lúc giữ việc ở Bộ Hộ đến giờ, có phần hết lòng trù tính, thuế khóa của nước có hơn lên; đương lúc phải giữ đà về quân nhu bận rộn, đều được ổn thoả cả. Trẫm đương trách uỷ cho làm có thành hiệu sao nên tự đẩy đem thoái thác”” (ĐNTL .CB., tập 34, Nxb. KHXH., 1976, tr. 370: tháng 9 âl., 1880).

“Sứ nước Pháp nghe nói tỉnh Quảng Nam có mỏ than, (khách buôn lãnh trưng), yêu cầu xin đến khám; chưa cho, sứ ấy lại thác ra việc mật đưa thẳng lên vua, ngầm gièm quan Viện – Bạc đại thần, (trong thư nói: “Có người bất trung, bất công đến nỗi ngờ nước ấy có ý gì khác, lấy nhiều của lót giả ơn của người nước Thanh”; lại nói: “Người cho lái buôn nước Thanh khai mỏ ấy chỉ mưu lợi cho  mình, không làm lợi cho nhà nước”), quan Viện – Bạc xin đưa thư cho chủ suý Pháp và sao bức thư của sứ ấy ghim vào gửi đi, để cho biết sứ ấy có sự không phải, để khỏi nghe một bề về sau.

Vua bảo rằng: “Nay nếu đem lời nói không phải của hắn, vội viết thư cho chủ suý của hắn, không khỏi bênh nhau bỏ đi, ích gì đến ta; thế là đều không nhịn sự giận nhỏ, để lỡ việc lớn, không phải là khéo xử. Nên mật tư từ đầu cuối việc ấy giao cho Nguyễn Thành Ý theo thế nói cho chủ suý hắn biết”” (ĐNTL.CB., tập 34, sđd., tr. 341: tháng 4 âl., 1880).

Đó là một biểu hiện của cuộc chiến tranh trên mặt trận kinh tế (ngoại thương, tài chính).

Sau lần hiểu lầm vì mắc mưu De Champeaux ấy, hai người luôn luôn đoàn kết với nhau, cho đến lúc Nguyễn Văn Tường bị lưu đày sang Tahiti, Tôn Thất Thuyết sang Trung Hoa cầu viện trong tuyệt vọng…

 

(14). Việc lập Đồng Khánh là chẳng đặng đừng, trái với di chúc của Tự Đức. Di chúc đã ghi rõ: “Ưng Kỉ người yếu hay ốm, có tâm tật, chưa học thông mà kiêu ngạo, hay bới việc riêng của người khác cho lạm thẳng, đều không phải là tư chất thuần lương, theo lời phải; sợ bọn ngươi khó lấy lời nói can được” (ĐNTL.CB., tập 35, sđd., tr. 200 – 201). “Lạm thẳng” là vi phạm tính trung trực, hay bẻ cong sự thật! Một tác giả thực dân Pháp đã viết: “Chưa hề ở xứ sở nào, thời nào có ông vua bị thần dân oán ghét như vua bù nhìn Đồng Khánh” (Charles Gosselin, L’Empire d’Annam, Paris, 1904, tr. 267; dẫn theo Dương Kinh Quốc, Phan Canh, Đào Đức Chương, Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng…).

Với bài “Giải triều…”, Nguyễn Văn Tường khẳng định lòng mình chỉ hướng đến vua Hàm Nghi.

 

(15). Xem thêm các bài viết của thực dân Pháp (xin đọc với cách đọc theo quan điểm yêu nước, dân tộc của chúng ta và công lí chân chính, tiến bộ của nhân loại):

-      +++ A. Laborde, Tỉnh Quảng Trị, NNBCĐH. [BAVH., 1921], tập VIII, Phan Xưng dịch, Nhị Xuyên hiệu đính, Nxb. TH., 2001, tr. 196, 200 … (xem lại chú thích (3)).

-      +++ H. Cosserat, Người ta viết sử như thế nào: Đón tiếp đại tá Guerrier tại Triều đình nước Nam ngày 17.8.1884, NNBCĐH. [BAVH., 1924], tập XI, sđd., tr. 373 – 397. Trích bài viết này:

“… Đúng pháp luật mà nói, thì ông Tường ra khỏi kinh thành là để trình diện trước tòa án binh […]; nếu khôn ngoan hơn, thì ta không nên để một con người [chỉ Nguyễn Văn Tường – TXA. ct.] rõ ràng là kẻ thù của chúng ta cầm Triều đình, một con người luôn đã và sẽ chống phá nền đô hộ của chúng ta theo cách này hay cách khác, không chịu chấp nhận nó.

Nhưng chúng ta đã tin, đã làm bộ tin sự thành thật trong những lời phản đối của ông ta [về các biến động trong Triều đình – ct. theo mạch văn của tên thực dân xấc xược Cosserat], và đã chấp thuận những lời khôn khéo của ông ta như là bằng chứng của ý nghĩ tốt. […].

“Thay vì Kiến Phúc thì nay là Mệ Tríu [Hàm Nghi – ct.]”, và luôn vẫn là Nguyễn Văn Tường trị vì.

Thật sự, từ nay […] quan phụ chính [Nguyễn Văn Tường – ct.] không thể tha hồ bày mưu tính kế để chống lại chúng ta […].

Tướng De Courcy, theo lời của Huart, chiều 3.7 mới biết được kết quả tiêu cực của các sự thương thảo với Triều đình về việc đón tiếp ông, và người ta đã đề đạt tới ông các lời báo cáo chẳng có tính cách gì làm dịu bớt sự nôn nóng của ông, hoặc làm cho ông có thiện cảm với người nước Nam.

Con người hôn mê [chỉ Nguyễn Văn Tường – ct.] có ý chẳng làm cho tướng tổng chỉ huy [chỉ De Courcy – ct.] có được điều gì khá hơn là những điều mà con người ấy đã làm cho các khâm sứ khác … […] (bđd., sđd., tr. 380 – 382).

Nói chung, điều chúng tôi thấy cần nhấn mạnh là, thái độ thù – bạn, địch – ta của các tên thực dân, tay sai, kể cả cố đạo mang bản chất xâm lược, thể hiện rất rõ trong các bài viết của chúng, trên NNBCĐH. (BAVH.) suốt ba mươi năm ấn hành (1914 – 1944), trên sách báo xuất bản tại Pháp trước đây. Chúng không tiếc lời ca ngợi bọn tay sai như Trần Tiễn Thành, Nguyễn Hữu Độ, Nguyễn Thân, Cao Xuân Dục… Chúng cũng đề cao đáng kể người đã thật sự đầu hàng chúng, ra quân đánh dẹp phong trào Cần vương như Hoàng Tá Viêm [*]. Và tất nhiên chúng tìm đủ mọi cách để triệt hạ uy tín những người chống Pháp, chống tả đạo đến cùng như Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết… Vấn đề là thái độ thù địch, căm hận của chúng đối với Nguyễn Văn Tường, còn lượng thông tin trong các bài viết ấy về ông, chúng tôi phải phối kiểm (không thể nhẹ dạ, cả tin đến ngây thơ và phi khoa học như  một số người được gọi là nhà văn, nhà sử học…). Chúng tôi nghiên cứu những bài viết ấy trong sự lưu ý với tinh thần cảnh giác đó, và lấy ĐNTL.CB. IV, V (1847 – 1883; 1883 - 1885), đặc biệt là các tư liệu gốc (CHÂU BẢN…) được trích dẫn trong đó, gồm quốc thư, dụ, mật dụ, tấu, sớ, bản án (và cả bản án cáo thị của De Courcy, De Champeaux)… làm chuẩn cứ, đồng thờiø tham khảo, phối kiểm, đãi lọc thêm ở ĐNTL.CB.VI (1885 – 1888, kỉ ngụy triều Đồng Khánh!).

[*] Theo ĐNTL.CB, tập 37, sđd., tr. 200 – 203, 305: Hoàng Tá Viêm “đánh để yên dân, không phải đánh lấy thắng”. Đó là quan điểm yên dân trong nô lệ của ngụy triều Đồng Khánh!

 

TXA.

 

 

2. CƯỚC CHÚ bài NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886) VỚI NHIỆM VỤ LỊCH SỬ SAU CUỘC KINH ĐÔ QUẬT KHỞI (05 THÁNG 7, 1885): 

 

[1] Chu Thiên Hoàng Minh Giám dịch.

[2] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên (ĐNTL.CB.), tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr. 225 – 226.

[3] ĐNTL.CB., tập 36, sđđ., tr. 221 và tr. 230; Nguyễn Nhược Thị Bích, Hạnh Thục ca, Nxb. Tân Việt, 1950 [?], tr. 39 – 40.

[4] Trong “Đặng Đức Tuấn, tinh hoa công giáo ái quốc” [!], Lam Giang, Võ Ngọc Nhã sưu tầm, Sài Gòn, 1971, tr. 516 – 517. 

[5] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 236 – 237.

[6] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 157 – 158.

[7] ĐNTL.CB., sđd., tr. 157 – 158.

[8] ĐNTL.CB., sđd., tr. 210, 213 – 214.

[9] ĐNTL.CB., sđd., tr. 166.

[10] ĐNTL.CB., sđd., tr. 236.

[11] ĐNTL.CB., sđd., tr. 226.

[12] Hạnh Thục ca, sđd., tr. 48.

[13] Việt Nam sử lược, Nxb. Tân Việt, bản 1964, tr. 553 – 554; Nxb. VHTT., b. 1999, tr, 582 – 583.

[14] ĐNTL.CB., tập 37, Nxb. KHXH., 1997, tr. 43.

[15] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 224.

   Xin nhấn mạnh: chú thích (2) ở cuối bài.

[16] Hạnh Thục ca, sđd., tr. 36.

[17] Bửu Kế, Chuyện triều Nguyễn, Nxb. TH., 1990, tr. 97.

[18] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 220.

[19] Delvaux, bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên”, Những người bạn cố đô Huế (BAVH., 1916), tập 3, Đặng Như Tùng dịch và một nhóm dịch giả khác hiệu đính, Nxb. Thuận Hoá, 1997, tr. 74.

[20] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 63 – 64, 220.

[21] ĐNTL.CB., tập 30, Nxb. KHXH., 1974, tr. 170 – 172; tập 31, Nxb. KHXH., 1974, tr. 86 – 87, 103.

[22] Trần Xuân An (biên soạn), Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, thơ – Vài nét về con người, tâm hồn, tư tưởng, chưa xuất bản, bài số 38, tr. 271.

[23] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 64 – 66; Delvaux, bài viết ở sđd., tr. 54.

[24] Bản dịch tiếng Việt của Quốc sử quán triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hóa, 1998, tr. 502 – 504.

[25] Trần Trọng Kim, b.1999, Nxb. VHTT., tr. 545 – 546.

[26] ĐNTL.CB., tập 33, Nxb. KHXH., 1975, tr. 26.

[27] Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, UB. KHXH. TU. TP. HCM. xb., 1990, tr. 117.

[28] Bài của GS. Nguyễn Văn Kiệm, trong Kỉ yếu Hội nghị khoa học về đề tài “Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường”, ĐHSP. TP.HCM., 20.6.1996, tr. 14.

[29] Delvaux, bđd., sđd., tr. 57, tr. 79 – 80, đoạn cuối tr. 81 – 82.

[30] Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb. Tâân Việt, b. 1964, tr. 554.

[31] Đoàn Trưng, Trung nghĩa ca, 1866.

[32] Delvaux, NNBCĐH. [BAVH., 1916], bài viết và sđd., tr. 54.

[33] Jabouille, bài “Một trang viết về lịch sử Quảng Trị: tháng 9.1885”, NNBCĐH. [BAVH., 1923], tập X, Phan Xưng dịch, Nguyễn Vy hiệu đính, Nxb. TH., 2002, tr. 439.

[34] Trích theo GS. Trần Văn Giàu, “Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử” [tập I của bộ sách SPTTTVN. TTK. XIX. ĐCMTT.], Nxb. TP.HCM., 1993, tr. 368, 370, trích dẫn Compendium historicoe Ecclesiasticoe của H. Ravier; xem thêm: ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 242, 245 – 246.

[35] Bài của Delvaux, sđd., tr. 78 – 79.

[36] Delvaux, bài đã dẫn, sđd., tr. 79.

[37] Jabouille, bài đã dẫn, sđd., tr. 434.

[38] Xem thêm: Delvaux, bài đã dẫn, sđd., tr. 47; Tsuboi, sđd. [trích dẫn Puginier qua Louvet], tr. 82.

[39] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 244 – 246.

[40] Lương An sưu tầm và chỉnh lí, Nxb. Thuận Hoá, 1983, các câu 1337 – 1348.

[41] Delvaux, bđd., sđd., tr. 80.

[42] Như trên: Delvaux, bđd., sđd., tr. 80.

[43] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 229.

* Về việc Nguyễn Văn Tường cùng Tôn Thất Thuyết bàn bạc kế hoạch, cùng tổ chức cuộc Kinh Đô Quật Khởi, 23.5 Ất dậu [1885], xem Bửu Kế, Chuyện triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hoá, 1990, tr. 59, tr. 95 – 101, đặc biệt là tr. 97 – 98; xin xem thêm: Phạm Văn Sơn, Việt Nam cách mạng cận sử,  Sài Gòn, 1963, tr. 29 – 31; Nguyễn Bá Thế, Nguyễn Q. Thắng, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb. VHTT., 1999, tr. 706 – 707; Dậu tuất niên gian phong hỏa kí sự, trong “Đặng Đức Tuấn…”, Lam Giang, Võ Ngọc Nhã sưu tầm, Sài Gòn, 1970, tr. 478 – 479; Silvestre, Khoa học chính trị kỉ yếu, 1898, tr. 93 – 94; Gosselin (tác giả L’Empire d’Annam, Paris, 1904) cũng có ý kiến như vậy bên cạnh những chi tiết bịa tạc khác. Sở dĩ chúng tôi cho rằng điều đó là đúng vì ĐNTL.CB, đệ lục kỉ, tập 37, sđd., tr. 35 cũng kết án (!) Nguyễn Văn Tường… “đều là bè đảng làm loạn”; “thực là căn nguyên tai vạ” (tr. 33), “Nguyễn Văn Tường liền quỷ quyệt đem thân quay về thú tội với quan đô thống Pháp, rồi đã bị tội lưu” (tr. 132 – 141); trong VNSL., Trần Trọng Kim cũng dùng chữ “đầu thú” với nghĩa đầu hàng (tất nhiên là “trá hàng”, và trá hàng để tiếp tục đấu tranh, để phe chủ “hoà”, thân Pháp, tả đạo khỏi cướp chính quyền…). Tại sao Trần Trọng Kim và chúng lại bảo Nguyễn Văn Tường “đầu thú”, “trá hàng”, còn những người về hợp tác với chúng thì không? Phải chăng về sau, Pháp biết Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết bàn định trước? Rất tiếc cuối cùng ông vẫn bị “tương kế tựu kế” của Caspar, De Courcy… Chắc chắn ông đã liệu trước nguy cơ ấy, nhưng không còn cách nào khác, để cứu vãn tình hình kinh đô thất thủ, nên “đành liều may rủi với trời” một lần nữa!

[44] A. Delvaux, bài viết  trên, sđd., tr. 77.

[45] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 240 – 241.

[46] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 223.

[47] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 238.

[48] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 250; Đại Nam liệt truyện, tập 3, Nxb. TH., 1993, tr. 78.

[49] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 239.

[50] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 235.

Có ý kiến khác: Đưa vua Hàm Nghi về nhưng vẫn tiếp tục Cần vương; Hàm Nghi sẽ lãnh đạo tổng quát cuộc kháng chiến bằng mật dụ; chỉ đạo kháng chiến trực tiếp chỉ cần Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng… Bởi lẽ, một nước có hai vua là quá táo bạo! (ĐNTL.CB., tập 36, sđd., cuối tr. 244).

[51] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 223.

[52] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 235 – 236; tập 37, sđd., tr. 175.

[53] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 244, 245 – 246…

[54] Cao Huy Thuần, “Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân [Pháp] tại Việt Nam [1957 – 1914]” (Christianisme et colonialisme au Viet Nam, 1957 – 1914), luận án tiến sĩ tại Pháp (1969), bản dịch, in ronéo của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973, tr. 319.

Đối chiếu với ĐNTL.CB. (cuối tập 36, và đầu tập 37, sẽ được trích dẫn ở những trang tiếp theo), chúng tôi (TXA.) thấy rằng, không phải hai tên thực dân cố đạo Puginier và Von Camelbeck nói sai sựï thật ở điểm này và chúng phát động chiến dịch điên cuồng chống Nguyễn Văn Tường một cách thiếu cơ sở. Do đó, không phải như Cao Huy Thuần nhận định: chính phủ Cộng hoà thực dân Pháp tại Paris bị “tiêm nhiễm” bởi sự tuyên truyền, kích động của Puginier và Von Camelbeck. Sự “tiêm nhiễm” ấy là ở trường hợp khác, vấn đề khác, nhân vật khác, sự kiện khác…

Xin xem thêm chú thích (8) ở cuối bài.   

[55] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 227.

[56] ĐNTL.CB., tập 31, sđd., tr. 86 – 89, tr. 103…

[57] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 225 – 226.

[58] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 226 – 228.

[59] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 247.

[60] Xem lại: Delvaux, bđd., sđd., tr. 79.

[61] Xem lại: Jabouille, bđd., sđd., tr. 434, 439…

[62] ĐNTL.CB., kỉ đệ lục – kỉ bị “bảo hộ”, tập 37, sđd., tr. 33.

[63] VNSL., b.1964, tr. 554 và 555.

[64] ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 35.

[65] ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 133.

[66] ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 134.

[67] ĐNTL.CB., tập 36, sđd., cuối tr. 244.

[68] ĐNTL.CB., tập 37, sđd., tr. 138.

[69] Xem thêm: Trần Viết Ngạc, bài “Chiếu hay Dụ Cần vương?”, Kỉ yếu Hội nghị khoa học lịch sử về nhóm chủ chiến triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường, ĐHSP. TP.HCM., 20.6.1996, tr. 25 – 30; Xưa & Nay, số 128, tháng 11. 2002, tr. 9 – 11 (trừ 2 luận cứ 7 & 8).

[70] NNBCĐH. (BAVH., 1917), tập IV, Nxb. Thuận Hoá, 1998, tr. 272 – 273.

[71] Giải triều… : Chia tách triều chính… (hoặc Tan tác triều đình …).

** Chính Đại Nam thực lục, chính biên, đệ tứ và đệ ngũ kỉ, biên soạn chủ yếu dưới thời Thành Thái, lại khắc in cũng ở thời Thành Thái, năm thứ 6 (1894) đến năm thứ 14 (1902) – Thành Thái là con trai của Dục Đức! – đã làm sáng tỏ nhân cách đạo đức của Nguyễn Văn Tường trong bi kịch bị vu khống này, cũng như tất thảy những vụ việc khác, một cách chi tiết trong hạn chế của ý hệ bảo hoàng! [ĐNTL.CB., các tập 27 – 36, sđd.; lời dụ và tờ tâu về việc khắc in, tr. 12 và tr. 17 (tập 27), tr. 5 và tr. 13 (tập 36)]. Còn đệ lục kỉ gồm hai tập 37, 38 viết về triều Đồng Khánh, khắc in vào năm 1909, có lời dụ của Duy Tân (còn quá bé) ngợi ca cả Đồng Khánh (14) bù nhìn, tay sai hèn hạ, chống người yêu nước chân chính và phong trào Cần vương ấy [ĐNTL.CB., tập 37, tr. 5 – 6], hẳn là ĐÁNH GIÁ NGƯỢC để lưu sự thật. Chính Duy Tân lại theo con đường của Hàm Nghi, với sự bàn bạc, thực hiện kế hoạch cùng Thái Phiên, Trần Cao Vân, cũng là theo kế hoạch 1885 của Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết trước đó. Hai vị vua yêu nước này đã bị Pháp lưu đày như Nguyễn Văn Tường. [Chúng tôi không muốn nói đến giai đoạn sau của vua Duy Tân!].

[Xin xem chú thích (14) ở cuối bài khảo luận này].

[72] Câu đối của Vũ Tử Văn? hay của Đào Tấn? (Nguyễn Mạnh Hào dịch). Chúng tôi có nhiều cứ liệu để có thể xác định là của Vũ Tử Văn.

[73] ĐNTL.CB., tập 33, sđd., tr. 126 –127.

 

    TXA.

 

Tp. HCM, giữa năm 2000 & 27.4.2002 (HB.2).

Bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau Cuộc Kinh đô quật khởi 05.7.1885” này đã được đăng tải trong cuốn Hội thảo khoa học: Nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) – Các báo cáo khoa học, Trung tâm Khoa học xã hội & nhân văn Huế – Viện Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế ấn hành, Huế – 02.7.2002, tr. 59 – 83.

Tháng 8.2003 (HB.3), nhuận sắc (*).

 TXA.

TXA. 

(*) TRẦN XUÂN AN, tác giả bài viết và cũng là người chú thích (viết tắt: nct.) và chua thêm hoặc in đậm ở các đoạn trích dẫn nguyên văn (viết tắt: ct., iđ.). Đại từ "chúng tôi" được dùng ở đây như một cách khiêm xưng và trân trọng, thay vì chữ "tôi" gọn lỏn và cộc lốc. TXA.

 

 

 

(  xem tiếp : bài 2  )

 

E-mail: tranxuanan_vn@yahoo.com

Cập nhật 07/01/09                                                                    Trở về trang chủ

                                        

_____________________________________________________________________________________

 

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/home

 

 

Google page creator /  host

 

GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE  

 

    lên đầu trang (top page)   

 01-5 HB7 (2007) = 15-3 Đinh hợi HB7