Trần Xuân An - Viết tiếp thơ sử về Quảng Trị (3 bài)

Xem tiếp từ trang:

Chùm thơ sử 7 bài về Quảng Trị:

http://www.tranxuanan-writer.net/Home/danh-muc-tac-pham-txa/tieu-luan-5/txa-tho-su-quang-tri

 

07 --- 09-11 HB10:

Chùm thơ đang được gửi đăng ở báo chí (tạp chí điện tử...):

 

http://trannhuong.com/news_detail/6949/VIẾT-TIẾP-THƠ-SỬ-VỀ-QUẢNG-TRỊ

 

Sau khi gửi đăng, tôi có bổ sung, chỉnh sửa lại một ít câu chữ, kể cả phần chú thích.

Xin thành thật xin lỗi nhà thơ Trần Nhương và cáo lỗi cùng quý người đọc. --- TXA. (10-11 HB10)

 

Cũng có thể xem tại:

 http://txawriter.wordpress.com/2010/11/08/viettiep-thosu-ve-quangtri/ 

 

 

 

thời Pháp chiếm, đẩy Nguyễn suy tàn

ta vẫn vô danh trong pho địa chí

cũng đã xa lắm rồi thời chống Mỹ

Hoàng Kim Hùng, ai khẽ nhắc tên ta?

 

nhắc ta, hãy nhắc thời non sông xé cắt thịt da

để liền da thịt, phải đánh Xiêm, đánh Tàu,

                          sau khi đánh tan một vua hai chúa

hãy nhớ ta, tướng Tây Sơn,

                              cũng ngập mồ lời nguyền rủa

khói trầm hương không huyền ảo hay tâm thành,

                                     càng mịt mờ thân thế ta xưa!

 

thắp giùm ta dăm ngọn nến chưa?

soi mặt ư? Ra sông Hiếu, múc thêm thau nước

thay nước sông Bến Hải, nước sông Gianh thuở trước

uống chén rượu, nhớ nỗi đau ngọn lửa xa rồi!

 

TXA.

13: – 14:50, 07-11 HB10

 

(1) Viết thay lời Hoàng Kim Hùng, người Cam Lộ, Quảng Trị, một vị tướng của Quang Trung Nguyễn Huệ. Ông cáo quan về quê sau khi Nguyễn Huệ mất, mặc dù bấy giờ chỉ mới 28 tuổi. (Theo sử tích gia tộc và địa phương; ngoài ra, hình như không có sử sách nào đề cập đến nhân vật Hoàng Kim Hùng).

 

(2) Trương Phúc Loan và Nguyễn Phúc Dương.

 

 

 

Tượng thờ Công chúa Huyền Trân ở Huế

Ở Quảng Trị, Công chúa Huyền Trân được đồng nhất với Bà Chúa Ngọc (Uma, Pô Nagar, Thiên Y A Na Ngọc Diễn Bà, Bà Mẹ Xứ Sở)

Nguồn ảnh: Wikipedia

 

 

 

Phù điêu lá nhỉ Trà Liên 2 (Quảng Trị)

Nguồn ảnh: TTO.

 

 

VIẾT TIẾP THƠ SỬ VỀ QUẢNG TRỊ

(3 bài)

 

 

Bài 8

Trần Xuân An

TRUYỀN THUYẾT MỚI VỀ HUYỀN TRÂN,

BÀ MẸ XỨ SỞ

 

tóc huyền xinh, xinh mắt huyền

răng huyền ngời nụ cười duyên môi hồng

vào Chiêm, sóng nghẹn thuyền rồng

qua Ô qua Lý, nghe lòng bâng khuâng (1)

 

Huyền nương vào với Chế quân

Trân cùng Mân hẳn liền vần ngàn năm

đâu ngờ Mân hoá khói trầm

cướp Trân khỏi lửa, phăm phăm, lao thuyền (2)

 

yếm đào cởi giữa phút thiêng

cắt đôi nuốm vú, xin nguyền thuỷ chung

máu rỏ Trường Sa muôn trùng

mùa sim từ đó tím rưng rức rừng

 

xưa sau truyền thuyết lưng chừng

ngọt hương mọng trái biểu trưng quê mình

sim Huyền Trân mãi trung trinh

sử dù lưu oán triều đình hai bên!

 

ngậm sim là ngậm cái tên

chúa Huyền Trân – chúa Ngọc đen, kính hoài (3)

kính thêm rau muối đời dài

sớm hôm trời tím, khoan thai chuông thiền

 

hoa sim thăm viếng tiên hiền

trái sim thắm ngọt miếu thiêng, linh đài

hồn Nhữ Hài Huế không phai (4)

chín huyền Quảng Trị trải dài Quảng Nam.

 

TXA.

9: – 11:30, 07-11 HB10

7: – 8:52, 03-12 HB10

 

Bài thơ này đã được bổ sung thêm 4 câu (màu đen nâu)

03-12 HB10

TXA.

 

(1) Chế Mân, vua Chiêm Thành, cưới công chúa Huyền Trân, con gái vua Trần Nhân Tông, với sính lễ là hai châu Ô và Lý (châu Thuận và châu Hoá, từ Quảng Trị vào đến Điện Bàn, Quảng Nam).

 

(2) Trần Khắc Chung theo lệnh vào viếng tang, nhân đó cứu Huyền Trân khỏi lễ hoả táng theo chồng như phong tục Chiêm Thành thuở bấy giờ. Thuyền đi lạc ra các đảo xa; một năm sau mới về đến Thăng Long (Hà Nội). Sau đó, Huyền Trân xuất gia tu Phật, trụ trì chùa Nộn Sơn, Nam Định (“Đại Việt sử kí toàn thư”; “Đại Nam nhất thống chí”, phần tỉnh Nam Định; và “Từ điển di tích văn hóa Việt Nam” do Ngô Đức Thọ chủ biên…). Các chi tiết khác với sử, trong bài thơ, chỉ là truyền thuyết.

 

(3) Có nhiều nơi ở Quảng Trị đồng nhất Công chúa Huyền Trân (chứ không phải Bà Liễu Hạnh) với Thiên Y A Na (Bà chúa Ngọc), thể hiện sự dung hợp văn hóa Việt – Chăm.

 

(4) Đoàn Nhữ Hài là vị quan đầu tiên trấn nhậm đất Ô và Lý.

 

 

 

Giếng cổ Gio An, Gio Linh (Do Linh), Quảng Trị

Nguồn ảnh: Phan Thuận An - Ngô Minh (Google seach)

 

 

Bài 10

Trần Xuân An

CÒN LẠI CỦA NGƯỜI XƯA

 

khắc vào vách núi quê hương

dăm họ tên, may chưa mất?

bút giấy đêm sâu trầm mặc

súng gươm cứu nước sáng rừng!

 

Nguyễn Văn Hiển, danh thơm lừng

Phù Cát, “Đồ Bàn thành kí”

“Bình – Phú – Nam đạo chí...”

rộng tâm lo khắp dân nghèo (1)

 

Nguyễn Công Tiệp ngỡ bọt bèo

từ Tây Sơn quy thuận Nguyễn

vẫn ngời ấn gươm, kinh truyện

“Sĩ hoạn tu tri...” giúp đời (2)

 

tác phẩm các ông xa xôi

tro than, và hoài phủ bụi

tìm đâu, tìm đâu, nhắn gửi...

còn chăng dăm bản hiếm hoi!

 

rừng sâu cờ nghĩa chói trời

giúp vua, cứu dân, đánh Pháp

Trương Đình Hội như mờ lấp

cùng Hoàng Hoản, Trần Quang Chuyên! (3)

 

thân thế các ông như thuyền

chìm dưới đáy sâu lịch sử

may sao còn dăm dòng chữ

Phạm Ngọc Tản lại mơ hồ! (4)

 

khắc vào vách núi không mờ

cũng cần dấu son tiền bạc

khắc vào trang thơ, càng nhạt

kém xa sử chí ngày xưa?

 

thôi chờ hội đình, lễ chùa?

danh – vị, có – không, còn – mất

thơ này chép ra và thắp

thay nén hương, dâng núi sông?

 

TXA.

15: – 18:10, 07-11 HB10

 

(1) Xem “Đại Nam liệt truyện”, nhị tập (bản dịch: tập 4).  Sách viết về thành Đồ Bàn: "Đồ Bàn thành ký", và nhan đề cuốn thứ hai đúng nguyên tác là "Bình Định, Phú Yên, Quảng Nam đạo chí". 

 

(2) Xem “Đại Nam nhất thống chí”, phần kinh sư (Thừa Thiên - Quảng Trị). Tên sách đúng nguyên tác: "Sĩ hoạn tu tri lục".

 

(3) Xem “Đại Nam thực lục chính biên”, kỉ Đồng Khánh.

 

(4) Xem “Đồng Khánh, Khải Định chính yếu”.

          >>>>>>>>>:

Trần Xuân An -- CHÙM THƠ SỬ VỀ QUẢNG TRỊ, 07 bài

 

Trần Xuân An -- Những tồn nghi trong loạt thơ sử mới viết

 

Trần Xuân An -- Thơ sử về Quảng Trị, chùm 3 (2 bài) (17-11 HB10)

 

Trái Huyền Trân = Nuốm VÚ của Bà Mẹ Xứ Sở

Nguồn ảnh: Picasa - Google

 

 

Bài 9

Trần Xuân An

TIẾNG VỌNG HOÀNG KIM HÙNG (1764-1835),

TƯỚNG NHÀ TÂY SƠN

 

Ô Lý, sính lễ cưới Huyền Trân

nhưng rộng đất, xanh rau, ơn chúa Nguyễn

ta chẳng hiểu vì đâu gươm mài võ luyện (1)

ngựa bay theo Tây Sơn ra Bắc vào Nam

 

buổi đầu quân, nâng chén rượu, khóc thầm

nhạt lòng trung cũng vì bạo thần, ấu chúa (2)

tưới rượu vào, chẳng tắt trong ta nỗi đau ngọn lửa

sông Gianh đỏ máu, đất nước hai Đàng!

 

thống nhất non sông, ta toan giũ áo về làng

lại phải đuổi Tàu, vun gò Đống Đa như trái núi

chống kiếm về quê, sông Hiếu nhìn ta mừng tủi

dẫu sao, ta không khoanh tay trong cơn lốc thế thời

 

khi chúa Nguyễn về kinh xưa, ta ngẩng mặt ngó trời

dưới mồ sâu, cả cười nghe kể tội

ngỡ con cháu mấy đời lầm lội...

chỉ sử sách ngầm ghi công

                                   Tây Sơn thống nhất hai Đàng

 

 

Google Sites /  host

WORDPRESS, GOOGLE PAGE CREATOR, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE