q. Trần Xuân An - Mùa hè bên sông - Chú thích 2

author's

copyright

 

trần xuân an

MÙA HÈ BÊN SÔNG

tiểu thuyết

1997 & 2003

 

 

06/29/09

        

   

 

TRẦN XUÂN AN

 

 

 

m ù a 

 h è

 b ê n

  s ô n g 

    

(nỗi đau hậu chiến)

 

tiểu thuyết

 

 

nnhà xuất bản  

 

1997 & 2003

 

 

     

CHÚ THÍCH II

 

 

1. Phần lớn cư dân ở Quảng Trị vốn gốc châu Hoan (Nghệ - Tĩnh). Riêng họ Hoàng ở làng này và một số họ khác ở làng khác lại có gốc ở Bắc bộ.

Huyện Địa Linh (Do Linh) vốn là đất của hai huyện: Đăng Xương (Triệu Phong), Minh linh (Vĩnh Linh). Đăng Xương nguyên là đất châu Ô; Minh Linh ngày xưa thuộc châu Ma Linh. Do đó, Do Linh ngày nay là vùng giao thoa của Ô và Ma Linh thời cổ. Vì địa giới thay đổi, nên khó xác định ranh giới 232 năm (1075-1307): Sông Thạch Hãn? Sông Hiếu (Điếu Ngao, Cửa Việt)? Cầu Trúc Lâm (ranh giới Đăng Xương và Địa Linh, xem mục “Cầu Hà Thượng”, ĐNNTC., sđd., “cuối chú thích II.1 này”, tr. 189)? Sông Ô Giang (xem mục “Sông Minh Lương”, ĐNNTC., sđd., tr.150 - 151)? Ở đây, cũng nêu thêm vấn đề: Liệu vùng đất châu Ô xưa có ranh giới phía nam là sông Ô Lâu (thuộc Hải Lăng) và ranh giới phía bắc và sông Ô Giang (thuộc Do Linh) chăng? Hay địa phận châu Ô rộng đến huyện Hương Trà...?

Dẫu sao, vẫn có thể xác định rõ 2 điều :

 

a. Do Linh (hoặc Gio Linh) chắc chắn phải là vùng đất giao thoa giữa châu Ô và châu Ma Linh.

b. Chưa rõ ranh giới 232 năm (1075 - 1307) là con sông nào trong 4 con sông kể trên. Tuy nhiên, phỏng định chung vẫn nghiêng về con sông lớn ở giữa - sông Hiếu (nếu hiện tượng đoạt dòng chảy, đổi dòng chảy theo quy luật địa lí tự nhiên trong khoảng 7 đến 9 thế kỉ qua không đáng kể) : Chính sông Hiếu là ranh giới lịch sử 232 năm (1069 - 1307), trên vùng đất Việt Thường thị (thuộc nước Văn Lang của vua Hùng, trước công nguyên Tây lịch; về sau, thuộc địa phận mà người Tàu gọi là Tượng Lâm, Nhật Nam, đồng bào Chăm gộp vào nước Lâm Ấp (“Champa”).

 

Đây là vấn đề riêng, không thuộc đề tài của cuốn tiểu thuyết "Mùa Hè Bên Sông" này. Tác giả đã hoàn tất một cuốn khác về vấn đề lịch sử xa xưa ấy (Kinh - Mường, Môn - Khmer, Kiratas “Cà Lơ”, Chăm, Hoa, các sắc dân Thủy - Lục Chân Lạp): "Nước Mắt Có Vị Ngọt".

 

Tham khảo và xem thêm :

* Lê Quý Đôn, "Phủ biên tạp lục", hai tập (sáu quyển), bản dịch của Lê Xuân Giáo, Tủ sách Cổ văn, Uỷ ban dịch thuật Phủ QVK. đặc trách văn hoá xb., 1972 - 1973.

* Quốc sử quán triều Nguyễn, "Đại Nam nhất thống chí", tập I (kinh sư, phủ Thừa Thiên và đạo Quảng Trị), tập II (tỉnh Quảng Bình, tỉnh Quảng Nam...), Phạm Trọng Điềm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Viện Sử  học và Nxb. Thuận Hóa, 1992, và các thư tịch cổ khác.

* Lm. Nguyễn Văn Ngọc, bài “Xứ Cửa Tùng” (gồm Vĩnh Linh, Gio Linh ngày nay, trong đó có tổng Bái Trời), Tạp chí Cửa Việt, số 9, 1991, tr.72 - 77.

* Nguyễn Cửu Sà, bài “Về nguồn gốc các giếng cổ ở Gio Linh”, Tạp chí Cửa Việt, số 9, 1991, tr. 78 - 80.

* Đen-vô (Aldophe Delvaux) (xem chú thích I.24, 50) có đề cập đến vụ “sát tả” 09.1885, tại tổng Bái Trời, sđd.  (BAVH.), tr. 81 - 82.

* Gia-bu-i-dơ (Jabouille), bài "Một trang viết về lịch sử tỉnh Quảng Trị", Những người bạn cố đô Huế [BAVH., 1923], tập X, Phan Xưng dịch, Nguyễn Vy hiệu đính, Nxb. TH., 2002, tr. 439...

* Lm. Nguyễn Văn Ngọc, bài Sự thành lập các làng cổ ở Quảng Trị”, Tạp chí Cửa Việt, số 10, 1991, tr.70 - 76.

* Nguyễn Lương, bài “Mấy ý kiến về bài: Sự thành lập các làng cổ ở Quảng Trị”, Tạp chí Cửa Việt, số 15, 1992, tr. 88 - 89.

 

2. Siêu ngã: cơ chế tâm lí theo Phơ-rớt gồm có ba phần: siêu ngã (le sur-moi), bản ngã (le moi) và hạ ngã (le ça). Siêu ngã là phần văn hóa, đạo đức đã được giáo hóa mà thành. Hạ ngã là phần bản năng, dục vọng thấp hèn mà li-bi-đô (ẩn ức tình dục) là chính (!).

Siêu ngã và hạ ngã luôn xung đột nhau, tạo nên bản ngã... Văn hóa nói chung bao gồm hệ thống luân lí, đạo đức, phong tục, tập quán, tôn giáo, văn học nghệ thuật dân gian và bác học, học vấn... Mọi người, mọi xã hội phải cùng nhau tạo ra sức ép văn hoá cần thiết để ngăn chặn hạ ngã (le ça) đồng thời giải toả hạ ngã (le ça) bằng học tập, lao động và những hoạt động lành mạnh, có ích.

 

3. Tận tín thư bất như vô thư: Quá tin vào sách, chẳng bằng không có sách (Mạnh Tử, thiên Tận tâm, hạ).

 

4. Một số trào lưu tư tưởng, triết học, tôn giáo, một số khái niệm, thuật ngữ khoa học được suy nghĩ, nghiền ngẫm và quan niệm theo cách riêng của tác giả, không hoàn toàn đúng như vốn có. Có thể đối chiếu để thấy sự khác biệt.  Đây không phải là sự sa-đích mà chỉ là ý kiến riêng của tác giả về những vấn đề có đề cập đến các tư tưởng, triết học, tôn giáo, các khái niệm, thuật ngữ khoa học nói trên. Các vấn đề, các trường phái ấy đã có văn bản của chúng (đã được in thành sách báo).

 

5. Bất bạo động, bạo động dả tất tử; bất vọng ngoại, vọng ngoại dả tất ngu. Ngã hữu nhất kế kính hiến chư đồng bào, đồng nhân, tự do chi chí [?], thị chi học: Đừng bạo động, bạo động (khởi nghĩa với vũ khí) là chết; đừng vọng ngoại, vọng ngoại (trông chờ, ỷ vào người nước ngoài) là ngu dốt, dại dột. Ai là người đồng nhân, đồng bào, ai là kẻ thật yêu tự do, tôi có một kế sách kính tặng, ấy là học (nâng cao kiến thức mọi mặt, tiếp thu các thành tựu khoa học - kĩ thuật hiện đại). “Đồng nhân”: cùng một đức nhân, thương người, nhân đạo với tất cả; cùng một dân tộc (Phan Chu Trinh).

 

6. Tiên trách kỉ, hậu trách bỉ: trách mình trước, trách người (và hoàn cảnh) sau.

 

7. Luật pháp (quân pháp) bất vị thân: luật pháp (hay quân pháp, pháp chế quân đội) không thiên vị “ngay cả” đối với người thân thích.

 

8. Xem thêm: Kinh Thánh:

- Tiểu mục “Người trai trẻ giàu có” (Lu-ca: 18: 18-30);

- Tiểu mục: “Lời ví dụ về các nén bạc” (Lu-ca: 19: 11-28).

- Tiểu mục “Ví dụ về các ta-lâng” (Ma-thi-ơ: 25:14-30);

Xin lưu ý cái-biểu-hiện và cái-được-biểu-hiện trong các ẩn dụ: ít nhiều thể hiện tư tưởng bóc lột, quan hệ chủ - tớ rất phong kiến, tư sản, khá tàn nhẫn.

Chủ nghĩa xã hội, theo quan điểm mới, là chủ nghĩa tư bản nhà nước, là chủ nghĩa tư bản nhưng giám đốc, tổng giám đốc là người cộng sản, cũng rất năng động, cùng tập thể lãnh đạo, tự hạch toán kinh doanh theo quy luật thị trường, nhưng chỉ ăn lương của nhà nước, vì hạnh phúc của nhân dân và nhân loại. Chủ nghĩa xã hội không thể không bóc lột “giá trị thặng dư” để tái sản xuất mở rộng. Chỉ có một điều khác nhau: nhà tư sản làm giàu cho cá nhân nhà tư sản; nhà cộng sản làm giàu cho đất nước và nhân loại, quan hệ chủ - thợ là quan hệ đồng chí.

 

9. Các câu chuyện Thiền học được rất nhiều người biết đến:

- Chẻ tượng Phật;

- Qua sông vứt bè (bè là Phật pháp);

- cùng với phương châm tu thiền: “Phùng Phật sát Phật”; ý niệm dục và thiện căn...

Kinh sách, tượng thờ, chùa chiền, nghi thức tụng niệm, kể cả chân sư đắc đạo, đều là “phương tiện” của người tu học; cứu cánh chính là sự kiến tánh, “kiến tánh thành Phật”. Không ai tu thay ai được. Phật tại tâm. “Mỗi người tự thắp đuốc mà đi”.

 

10. Nữ tu: lẽ ra phải viết đúng và đủ là “nữ tu sĩ” hoặc “tu nữ”. Trừ những từ ngữ cố định, nay có thể chăng mượn một số từ tố Hán - Việt, cấu tạo theo ngữ pháp thuần Việt, như “nữ tu”?

 

11. Kinh Thánh của Đạo Tin lành. Thầy Tiếng, nhân vật trong tiểu thuyết này, sử dụng Kinh Thánh Tin lành giáo nên khác cách phiên âm (với KT. TCG.). Kinh Thánh còn là một trong vài ngọn nguồn chính của Kinh Co-ran Đạo Hồi (Is-x-lam: Isxlam) mặc dù Đạo Hồi xem Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo là dị giáo.

Xem thêm: Lm. Nguyễn Tự Do, "Ngài Cứu thế", Tủ sách Lời Chúa xuất bản, Sài Gòn, 1970.

Câu nói cuối cùng của Đức Phật: “Bốn mươi chín năm thuyết pháp, ta không nói một lời nào” hiểu như ý niệm “vô ngôn”, “vô tự chân kinh”.

 

12. Bình Tây sát tả: đánh đuổi thực dân Pháp và Thiên Chúa giáo (tả đạo: tôn giáo không chân chính). Đó là tên gọi một phong trào yêu nước chống ngoại xâm, thế kỉ XIX. Có trường hợp, tên gọi ấy gắn liền với chức danh, chẳng hạn: danh hiệu của vị tướng quân anh hùng Nguyễn Duy Hiệu (Nguyễn Hiệu): “Bình Tây sát tả đại tướng quân”. (Nhưng dẫu sao, Nguyễn Duy Hiệu cũng chỉ thuộc hàng ngũ quan cấp tỉnh, không bị thực dân, tả đạo căm ghét như chúng đã căm ghét Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết).

 

13. Một số hồi kí của ngụy quân ngụy quyền, như hồi kí của tướng ngụy Hoành Linh Đỗ Mậu, đã được trích đăng trên báo Tuổi Trẻ (Tp. HCM.), và của một cựu phóng viên UPI., trên tạp chí Cửa Việt...

 

14. Thơ Lý Bạch (bài “Giang thượng ngâm”):

     Tạm dịch:

... Từ, phú của Khuất Bình (Khuất Nguyên)

       làm mờ cả mặt trời, mặt trăng

Lầu, đền của Sở vương (vua nước Sở)

        thành gò, núi hoang vu...

 

15. Những tư liệu báo chí và sách đã xuất bản được ghi xuất xứ kèm theo cuốn tiểu thuyết này chỉ có mục đích tránh những nhát búa rìu vô lối của dư luận đông đảo. Xin lưu ý: tất cả đều là đối tượng của khoa học, do đó không phải là phạm thượng khi dám đặt vấn đề trước các bậc đại nhân (được nhìn nhận như những nhân vật lịch sử), các tôn giáo, các hệ tư tưởng... Đồng thời, cũng nhằm chứng minh: cốt tủy của Phật giáo, Thiên Chúa giáo (tương tự như TLG.) có thể khế hợp với nguyên lí xã hội chủ nghĩa, thậm chí là tiền đề của nguyên lí ấy (xem trang ở giữa tiết 4, chương VIII của tiểu thuyết này), theo quy luật kế thừa và phát triển trong lịch sử tư tưởng: "Phủ định của phủ định".

Và cũng xin lưu ý thêm: Trên tinh thần khoa học, chúng tôi không dám khẳng định các chi tiết cụ thể, sinh động về hành trạng chính trị, nhất là về đời tư của các nhân vật lịch sử hiện đại (giữ vai trò chủ yếu nửa sau thế kỉ XX) có đề cập trong tiểu thuyết này là đúng với sự thật lịch sử. Đó chỉ là những "thông tin chưa kiểm chứng" trên các đài phát thanh nước ngoài, những dư luận trong đời sống, trên sách báo... Chúng tôi chỉ làm công việc phản ánh dư luận xã hội đồng thời minh định các "thông tin", dư luận ấy, với điều kiện hạn chế của người viết tiểu thuyết, trong khi chờ chính sử hiện đại được công bố. Tuy nhiên, tôi vẫn băn khoăn, liệu bộ chính sử hiện đại có được trung thực, hay các nhà sử học hiện nay chỉ biên soạn sử để tuyên truyền, và đành chấp nhận thua kém cả những bộ sử thời phong kiến về tính trung thực? Phương châm đồng thời cũng là nguyên tắc ngày xưa khẳng định quyền hạn và tính độc lập của các nhà chép sử, đại ý: Trong nước có ba đại quyền tối thượng: quyền sử gia, quyền Trời, quyền vua. Trong ba loại quyền to lớn ấy, quyền sử gia còn được đặt trước cả quyền Trời, quyền vua. Sử gia phải có quyền bất khả xâm phạm (không một ai, một thế lực nào có thể làm sức ép, chi phối, cưỡng bức, giam tù, giết hại, kể cả quyền lực đế vương). Phương châm - nguyên tắc ấy là kim chỉ nam và là quyền hạn được xác định, nhưng cũng là vũ khí để đấu tranh trước các loại sức ép. Vũ khí phương châm - nguyên tắc đó của sử gia không phải chỉ được sử dụng trong thời xa xưa mà trong mọi thời, kể cả thời toàn xã hội xem quyền Trời là không có thật. Thời đại nào quyền bất khả xâm phạm của sử gia được tôn trọng và bảo vệ với cơ chế cụ thể, có hiệu lực, được trang trọng ghi vào pháp luật, thời đại đó tự thắp sáng tính ưu việt của nó trong lĩnh vực rất cần sự trung thực, quang minh chính đại này.

Trước khi bộ chính sử hiện đại thật sự trung thực được công bố, nhà xuất bản và bạn đọc có thể cắt bỏ hoặc lướt qua (xem như không có) các chi tiết như trên đã viết, để tránh bị các lực lượng, các cá nhân thù địch, tâm địa không tốt lợi dụng với mục đích xấu.

 

16. Đoạn này, nhân vật Quyển có nói một số ý chưa rõ. Đấy là các vấn đề: về hiện trạng xã hội, trong đó có lĩnh vực kinh tế; về quy luật khách quan của sự phát triển (tiến hóa, thăng hóa)... Riêng về khía cạnh chuyển hóa giai cấp trong thời kì quá độ, mở cửa này: ngay tại các công ti liên doanh với nước ngoài, các công ti trách nhiệm hữu hạn của các nhà tư sản dân tộc vẫn phải có tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Công đoàn cơ sở, để thực thi công tác xây dựng, phát triển Đảng...

 

17. “Con đường đau khổ”, tiểu thuyết ba tập của A. Tôn-x-tôi (Aleksei Tolstoi), bá tước thời Sa hoàng, lưu vong sau 1917. Một thời gian sau, ông lại về nước, trở thành nhà văn Liên Xô. Đây là bộ tiểu thuyết đồ sộ phản ánh Cách mạng Nga trước 10.1917 (lịch cũ) đến những năm đầu thập niên hai mươi thế kỉ này. Lưu ý: Đồng thời và sau A. Tôn-x-tôi vẫn có Pa-téc-nác (Paternak) và Xon-den-nít-xưn (Solzenitsyl)!

 

18. Về một số nhân vật Thiên Chúa giáo hư cấu ở Tp. HCM.:

Trong tiểu thuyết này, có đề cập và khắc họa một cựu linh mục, một số cựu giáo dân Thiên Chúa giáo. Đó là những người đã từ bỏ Thiên Chúa giáo từ lâu để trở về với văn hóa - lịch sử dân tộc. Ngoài ra, có duy nhất một nhân vật là cô Bân (mẹ của nhân vật Hiền Lương), vẫn còn đi xem lễ ở nhà thờ TCG. theo “áp lực” của giáo xứ và do quán tính của nếp “đạo dòng”, nhưng trong thâm tâm đã từ lâu “nhạt đạo”.

Tiểu thuyết này không nhằm phản ánh về thực trạng Thiên Chúa giáo ở nước ta hiện nay.

 

19. Về lập trường, quan điểm viết sử của Quốc sử quán triều Nguyễn, thể  hiện ở Thực lục qua ba kỉ IV (1847 - 1883), V (1883 - 1885), VI (1885 - 1888), tác giả tiểu thuyết này (Trần Xuân An) đã căn cứ vào hai bản phàm lệ của kỉ V, kỉ VI và chủ yếu căn cứ vào thời điểm phân kỉ ở Thực lục để minh định: Chính triều (1847 - 06.9.1885); ngụy triều (06.9.1885 - 1888...).

 

a. Chính triều: lập trường, quan điểm yêu nước, chống Pháp, chống tả đạo TCG.; và ít nhiều xen lẫn lập trường, quan điểm bảo hoàng ngu trung trong sự kiện tứ nguyệt tam vương: kỉ IV, kỉ V (1847 - 06.9.1885, ngày Nguyễn Văn Tường bị Pháp lưu đày).

b. Ngụy triều: lập trường, quan điểm của ngụy triều Đồng Khánh, nịnh hót Pháp, nịnh hót tả đạo TCG.; và bôi nhọ người chống Pháp, chống tả đạo TCG.; đồng thời cũng vừa sử dụng bọn tả đạo TCG. ở các địa phương để đánh dẹp phong trào Cần vương vừa phê phán chính bọn tả đạo TCG. ấy đang manh tâm phục thù, cướp chính quyền ở phủ, huyện, làm suy yếu ngụy quyền Đồng Khánh bù nhìn: kỉ VI (12.9.1885 - 1888...).

 

Ở “Đại Nam thực lục, chính biên” (kỉ IV, V, VI) không có sự đảo ngược sự thật lịch sử. Nhưng rõ ràng là riêng ở kỉ VI (12.9.1885 - 1888), Quốc sử quán triều Nguyễn đã thể hiện cách đánh giá sự thật lịch sử theo tiêu chí ngược, trái nghịch với chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, trái nghịch với công lí của nhân loại về độc lập dân tộc và tự do chính đáng của nhân dân (không xâm hại đến nền độc lập dân tộc và chủ quyền Đất nước). Xin phân biệt rõ: cách viết sử xuyên tạc bằng sự đảo ngược sự thật lịch sử  với cách viết sử có đánh giá sự thật lịch sử (gồm cả nhân vật lịch sử) theo tiêu chí ngược. Ở cách thứ nhất, người chống Pháp bị đảo ngược thành kẻ cấu kết với Pháp. Qua Việt Nam vong quốc sử, Phan Bội Châu (thực ra là do Lương Khải Siêu...) viết về Từ Dũ, Nguyễn Văn Tường một cách phi khoa học, thiếu cứ liệu - luận cứ, luận chứng (đổ tội làm mất nước là do hai người này và do Trần Tiễn Thành). Như thế, vô hình trung (thực ra là một cách cố tình) Phan Bội Châu (Lương Khải Siêu...) đã ngụy biện cho Dục Đức, Hiệp Hòa, Tuy Lý vương, Hồng Hưu... và phần nào cho Trần Tiễn Thành... (II.19.a). Ở cách thứ hai, người chống Pháp là xấu (!), như Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết...; và cũng phi lí thay, người nịnh hót Pháp lại là tốt (!), như Đồng Khánh, Nguyễn Hữu Độ... Quốc sử quán triều Nguyễn đã thể hiện rõ cách viết này ở kỉ VI (12.9.1885 - 1888), đó là cách viết sử theo hệ giá trị phản quốc, nhằm lưu lại sự thật cho hậu thế minh xét. Hậu thế chính là các thế hệ hiện nay.

Xét về tính khoa học, Thực lục về các kỉ IV, V, VI đạt ở mức rất cao, trong sự so sánh đồng đại. Quốc sử quán triều Nguyễn trích dẫn khá đầy đủ các văn bản như quốc thư (Đồng Khánh gửi Chính phủ Pháp, bôi nhọ Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết...), chiếu, dụ, cáo thị (về phong trào Cần vương và vai trò của Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết...), bản án (De Courcy, De Champeaux kết án Nguyễn Văn Tường; ngụy triều Đồng Khánh kết án Nguyễn Văn Tường và ba thành viên khác của nhóm chủ chiến...), tấu, sớ, đặc biệt là mật dụ (sắc dụ gửi Nguyễn Văn Tường, sắc dụ gửi hoàng tộc, từ Tân Sở gửi về...)... Đó là các văn kiện của phía triều đình Đại Nam và phía thực dân Pháp. Ngoài ra, sử quan còn ghi chép các vụ việc với diễn biến khá chi tiết mà vẫn rất cô đọng. Hơn nữa, nhờ phương thức làm việc tập thể (II.19.b), mỗi thành viên Quốc sử quán đều phải lưu danh để chịu trách nhiệm (II.19.c), nên Thực Lục (IV, V, VI) đạt được tính khách quan - một yếu tính hết sức cần thiết của sử học. Rất tiếc, ở kỉ đệ lục, đó chỉ là ghi chép một cách khách quan theo lập trường, quan điểm nói trên.

Trên đây chỉ là nhận định khái quát chung. Xin xem thêm các soạn phẩm biên khảo của tác giả về giai đoạn lịch sử này (qua việc nghiên cứu nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường, 1824 - 1886) [danh mục sách ở những trang cuối sách này].

Ở đây, tác giả tiểu thuyết chỉ chú thích thêm để làm rõ hơn nhận định của nhân vật ông giáo Hiền, sư Tâm Tự, nhân vật Hành và một vài nhân vật khác (xin xem các trang trong tiểu thuyết này, bản 2001: 12-13, 101-102, 127-128, 187, 198-200, 224-225, 231-232, 384-385, 407-408, 425, 464-466, 481, 494-497).

[Xem thêm: 258-259, 360-363, 444-445].

Xin vui lòng xem: Cách thức tìm số trang tương ứng ở bản 2003 này ở "bảng liệt kê số thứ tự trang của các trang thuộc bản vi tính 11. 2001 có đính chính - bổ sung".

 

20. Về các nhân vật hư cấu ở làng quê bên sông Bến Hải:

Qua tâm trạng và kí ức của những nhân vật hư cấu, điển hình cho vài ba thế hệ hiện còn sống ngay trên mảnh đất chôn nhau cắt rốn, bên bờ nam dòng sông lịch sử Bến Hải, cả một giai đoạn lịch sử hơn một thế kỉ đau thương và hùng tráng (từ 1858 đến 1975, cùng hai thập niên sau đó) đã được tái hiện theo tính cách, tư tưởng và số phận riêng của từng nhân vật. Ông giáo Hiền, sư Tâm Tự, ông Nộp, ông Hiệu Điên ở quê nhà, và cả cựu linh mục Tiếng hiện ở TP.HCM., đều thuộc thế hệ đến nay đã ngoài bảy mươi tuổi, là các nhân chứng đồng thời là người trong cuộc, từ những năm 20 của thế kỉ XX đến thời điểm vài ba năm cuối thế kỉ vừa trôi qua. Học và Nông thuộc thế hệ kế tiếp, cùng được sinh ra, lớn lên trên một làng quê, có cùng một thầy giáo tiểu học thời chín năm chống Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh (1945 - 1954), cùng chung một mái trường trung học đệ nhất và đệ nhị cấp Nguyễn Hoàng ở thị xã Quảng Trị, nhưng dòng sông Bến Hải đã như một vết thương lịch sử, cắt ngang tình đồng hương, đồng môn của họ. Hiền Lương (con gái của Nông - Bân) từ thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương (Nam Bộ) về thăm quê, gặp Hành (con trai của Học - Ngoan), và kí ức của những người già sống lại một thời đã xa, còn ở hai người trẻ tuổi này, họ không thể không trăn trở, thao thức, suy tư về lịch sử, một giai đoạn lịch sử còn in đậm dấu vết trên những gương mặt người thân thuộc, láng giềng, ngay trên từng tấc đất làng thôn, từng gợn sóng của dòng sông Bến Hải quê nhà... Sinh ra đời sau Ngày Giải phóng 30.4.1975, mặc dù lớn lên trong một gia đình mà bên ngoại là người Bắc Kì di cư, Thiên Chúa giáo toàn tòng, người cha nuôi dạy là giáo dân tân tòng dưới chế độ cũ, nguyên là sĩ quan ngụy, nhưng bản thân người cha và Hiền Lương đã thật sự "nhạt đạo", nên cô gái ấy vẫn rất gần gũi về tư tưởng với Hành, con trai của hai liệt sĩ cách mạng. Mặt khác, cả Hành lẫn Hiền Lương đều thuộc thế hệ được học hành trong nhà trường của chế độ mới, do đó, sự thể họ dễ đồng cảm với nhau cũng là chuyện bình thường...

 

21. Vũ Thư Hiên, con trai của Vũ Đình Huỳnh (thư kí riêng của Bác Hồ). Ông Huỳnh nguyên xuất thân từ một gia đình Thiên Chúa giáo toàn tòng, bản thân có thời kì từ bỏ "tả đạo" để đi theo Cách mạng. Vũ Thư Hiên nguyên là cán bộ ngoại giao Miền Bắc, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Trước khi lưu vong, Vũ Thư Hiên từng bị tù ở các trại tù Miền Bắc nhiều năm. Cuốn tiểu thuyết Đêm giữa ban ngày, do Nxb. Văn Nghệ ở Mỹ xuất bản năm 1997, có nhiều trang xuyên tạc, bôi nhọ Bác Hồ.

Lữ Phương là một trí thức yêu nước, nhà phê bình văn học tiến bộ tại Miền Nam, từng tham gia và dự vào các chức vụ quan trọng trong Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Không rõ hiện nay Lữ Phương cư trú tại đâu. Bài viết về Hồ Chí Minh, in trên báo Tin Nhà, 2002 [?], của Thiên Chúa giáo.

Bùi Tín, con trai của Bùi Bằng Đoàn (cựu thượng thư thời Bảo Đại, nhân sĩ yêu nước). Bùi Tín nguyên là phó tổng biên tập báo Nhân Dân (cơ quan ngôn luận trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam); hiện lưu vong ở Mỹ; viết báo, viết sách và diễn thuyết chống Đảng Cộng sản Việt Nam, xuyên tạc, bôi nhọ Bác Hồ.

Theo bản thân tôi ghi nhận: không chỉ tôi, mà nhiều người cảm thông với Vũ Thư Hiên về thảm kịch "ngục văn tự". Vũ Thư Hiên hẳn cũng cùng hoàn cảnh tù tội vì văn chương, báo chí như Bùi Ngọc Tấn (tác giả Chuyện kể năm hai ngàn, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội, 2000). Ai cầm bút lại không bị ám ảnh khủng khiếp về "ngục văn tự" và tất nhiên rất căm ghét loại "ngục văn tự"! Nhưng tôi và nhiều người không thể đồng tình với tâm địa đê tiện của Vũ Thư Hiên về việc xuyên tạc, bôi nhọ nhân cách người khác (mà lại là Bác Hồ). Xin lưu ý: Tôi chỉ bàn về khía cạnh này và chỉ về khía cạnh này. Xin xem lại đoạn nhân vật Nông trò chuyện với nhân vật Quyển ở phía trước.

Lữ Phương cũng chỉ là kẻ phụ hoạ cho Vũ Thư Hiên, dưới dạng bài nghiên cứu.

Bùi Tín chỉ là kẻ "xem gió chuyển buồm", cơ hội chủ nghĩa, chỉ thuộc loại nhà văn chiêu hồi thời Miền Nam còn tồn tại chế độ Mỹ - ngụy. Bùi Tín cũng chỉ tương tự như Xuân Vũ và một số nhà văn Miền Bắc chiêu hồi khác, vốn là các tác giả của những cuốn đã xuất bản tại Miền Nam trước 1975: Về Cục R, Sương trắng Trường Sơn, Đường đi không đến... Lúc còn là học sinh phổ thông, tôi đã từng chứng kiến chế độ Mỹ - ngụy đã lợi dụng bọn văn nghệ sĩ Miền Bắc chiêu hồi này bằng cách tổ chức cho bọn chúng đi diễn thuyết chống cộng, chống Miền Bắc với nội dung phiến diện, thiếu trung thực, ở các trường trung học tại Miền Nam.

Nói chung, Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Lữ Phương chưa đáng mặt là kẻ sĩ (trí thức) chân chính, chỉ là tay sai của Mỹ và "tả đạo" Thiên Chúa giáo, hoặc do "thế kẹt lịch sử" nên bị Mỹ và "tả đạo" Thiên Chúa giáo lợi dụng. Nếu thuộc trường hợp do "thế kẹt lịch sử" thì rất đáng thương, nhưng chấp nhận bị lợi dụng như vậy, cũng rất đáng giận!

Bản thân tôi cũng như bao người cầm bút khác đều khát vọng chân lí, nhất là muốn nhận thức đúng sự thật lịch sử ở Miền Bắc và trên cả nước Việt Nam của chúng ta (trong giới hạn về giai đoạn, 1858 - 1989, đặc biệt là 1954 - 1975), nhưng cũng như bao người khác cố gắng giữ cho được đức tính trung thực, tôi cũng không thích loại xuyên tạc, bôi nhọ! Và loại né tránh sự thật lịch sử trên bình diện chính trị - xã hội nói chung lại càng có cảm giác giả dối!

Về Miền Nam, mặc dù tôi được sinh ra, lớn lên ở Miền Nam với những hiểu biết, trải nghiệm, chứng kiến thực trạng Miền Nam, tôi cũng mong được nhận thức rõ hơn. Tuy nhiên, tôi khẳng định: bản chất, cốt tuỷ sự thật lịch sử giai đoạn 1858 - 1975 - 1989 như tôi đã viết là không thể sai lầm được.

Tác phẩm văn nghệ phải được sự bảo chứng của khoa học lịch sử chân chính, đích thực! Chẳng ai muốn làm văn nô, sử nô, vinh thân phì gia, vì như thế là chỉ làm nguy hại cho Đất nước!

Chẳng lẽ thời đại chúng ta không có những nhà văn, nhà viết sử chân chính với những đức tính, phẩm chất cần thiết là trung thực tuyệt đối, khoa học, bình tĩnh, sáng suốt, sâu sắc? Phải chăng do các thứ sức ép?

Điều cuối cùng về vấn đề này, một lần nữa, xin khẳng định: Quả thật, tôi không biết gì về Miền Bắc (1954 - 1975...) trên bình diện hiện thực cụ thể, sinh động cả. (II.21.a).

 

22. Nguyễn Huệ: người anh hùng dân dã, đáp ứng được yêu cầu lịch sử và nguyện vọng nhân dân trong cả nước (yêu cầu, nguyện vọng thống nhất non sông từ Nam đến Bắc), đã đánh tan cả hai lực lượng của cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài, đồng thời quét sạch lực lượng ngoại viện của hai Đàng là Xiêm La và quân Thanh. Kẻ sĩ Đàng Ngoài (từ sông Gianh đến ải Nam Quan) bị triều Nguyễn phân biệt đối xử, nhất là đa số cựu thần vua Lê chúa Trịnh bị trấn áp, cho nên họ thà chấp nhận một triều đại mới do Quang Trung Nguyễn Huệ sáng nghiệp còn hơn chịu sự thần phục triều Nguyễn, một lực lượng vốn là đối phương suốt hai trăm năm Trịnh - Nguyễn phân tranh, chất ngất máu xương và thù hận!

 

Xin mở một ngoặc đơn ở đây:

Do ý thức trung quân mù quáng theo đạo lí Nho giáo và do quan niệm thị tộc dưới thể chế phong kiến, con người với tư cách cá nhân độc lập, tự do bị xem nhẹ, mà con người với tư cách là trung thần của một hoàng tộc cho dù thối nát, thành viên lệ thuộc về mọi mặt, nghiêm trọng nhất là lệ thuộc tư tưởng, của một gia đình, dòng họ, lại được đề cao (tức là chủ nghĩa lí lịch, mặc dù Nho giáo có đề cập đến lẽ biến dịch (II.22.a)), dẫn đến hệ quả đáng phê phán:

-    "Một người làm quan cả họ được nhờ", hoặc một người làm vua cả họ đều là hoàng tộc, đời đời kế nghiệp như thể địa chủ (Non sông Đất nước là tài sản của một dòng họ hoàng gia; nhân dân là nô bộc của dòng họ hoàng gia ấy)!

-    "Nhổ cỏ, phải nhổ tận gốc". Mỗi khi dòng họ nào đó khởi nghiệp, lập được triều đại mới, lập tức "thanh toán đẫm máu" tất cả các hậu duệ thuộc hoàng tộc của triều đại bị đánh đổ, bị cướp ngôi! Và luật pháp phong kiến có loại án tru di tam tộc, tam đại (tử hình cả ba họ, ba đời) đối với quan, với dân phạm tội đại hình!

Vì vậy, Đàng Ngoài chống phá triều Nguyễn liên miên, triều Nguyễn hẳn trấn áp Đàng Ngoài hoặc ngấm ngầm hoặc rất dữ dội! Theo quan niệm dưới thể chế phong kiến ("quan điểm - cơ chế"; chủ nghĩa dòng họ, chủ nghĩa lí lịch) như thế, nên mâu thuẫn Đàng Trong - Đàng Ngoài rất khó hoá giải, hoà giải, mà thù hận lại chất chồng tầng tầng lớp lớp! Cho nên, theo nhận định của tôi, để có thể hoá giải, hoà giải mâu thuẫn Đàng Trong - Đàng Ngoài, giải phóng từng cá nhân trong cộng đồng dân tộc khỏi xích xiềng định kiến thù hận lưu cữu, truyền kiếp, trong khi và sau khi hàn gắn vết thương sông Gianh, phải sử dụng một hệ ý thức có thể đập tan chủ nghĩa dòng tộc, chủ nghĩa lí lịch (đồng thời phải đập tan sự phân liệt dân tộc do ý thức trung quân thuộc ý hệ nho giáo vốn đã được nâng lên thành đạo lí, mà trong bối cảnh lịch sử ấy, cực kì nguy hại là thứ "đạo lí" trung quân mù quáng!). Ý hệ mới có khả năng đó là hệ ý thức tôn trọng tự do cá nhân về tư tưởng (II.22.b). Nhưng lịch sử bấy giờ vẫn do chủ nghĩa dòng tộc, chủ nghĩa lí lịch ngự trị (từ kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng), vì vậy, mâu thuẫn vô phương hoá giải, hoà giải: Đàng Ngoài chống phá triều Nguyễn liên miên, triều Nguyễn hẳn trấn áp Đàng Ngoài hoặc ngấm ngầm hoặc rất dữ dội!

Xin lưu ý: Trên đây, chưa đề cập đến "tả đạo" Thiên Chúa giáo (bản dụ Đạo - Bình, dưới triều Kiến Phúc, đã chỉ rõ, Thiên Chúa giáo còn có tên là đạo Tôn vương, tôn phù thiên tử) với hệ thống tín điều, thần học, hệ thống tổ chức, cơ sở vật chất, và nhất là thế lực nước ngoài (viễn chinh, xâm lược) của nó, ít ra là trong hai thế kỉ XVIII - XIX (chưa kể vài ba thế kỉ trước đó). "Tả đạo" Thiên Chúa giáo vốn là một yếu tố chủ yếu gây nên sự phân liệt ý hệ trong cộng đồng dân tộc.

 

Xin tiếp tục vấn đề đang bàn: tâm lí chính trị của nhân dân Đàng Trong, Đàng Ngoài đối với phong trào Tây Sơn - Nguyễn Huệ.

Vả lại, theo một số tư liệu cần phải khảo chứng thêm: Dòng họ của Nguyễn Huệ vốn thuộc họ Hồ ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Họ Hồ này có gốc gác từ mấy chục đời trước là người thuộc nước Trung Hoa cổ xưa (hẳn không phải người Hán?)! Tổ tiên bốn, năm đời trước của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ vốn là quân của chúa Trịnh, bị quân chúa Nguyễn bắt sống, cho đi khai hoang, lập nghiệp ở vùng Tây Sơn (hoặc lân cận), thuộc tỉnh Bình Định. Sau đó, không rõ vào thế hệ thứ mấy, họ Hồ này đổi thành họ Nguyễn để dễ sống và dễ thu phục nhân tâm Đàng Trong. Người Đàng Trong (từ sông Gianh đến Cà Mau) lại không ủng hộ phong trào Tây Sơn với mức độ như Đàng Ngoài, mà phần lớn ủng hộ chúa Nguyễn (ca dao Nam bộ: Lạy trời cho cả gió nồm, Cho thuyền chúa Nguyễn dong buồm thẳng ra).

 

23. Chú thích tiếp theo tiết 5, chương VII: Nguyễn Công Trứ còn nổi tiếng là một nhà thơ với nhiều tuyệt tác, làm rạng rỡ thể hát nói chữ Nôm, đậm tính dân tộc. Thơ phú Nguyễn Công Trứ có âm điệu lạc quan trong cảnh nghèo khó thuở còn là hàn sĩ, hăm hở dấn thân thời lều chõng, đỗ đạt, làm quan, hào hùng lúc thực hiện chí nam nhi của kẻ sĩ: kinh bang tế thế (xây nước giúp đời) và cầm gươm dẹp loạn. Khác với những nhà nho cùng thời ở Đàng Ngoài, cứ ôm mối bi hận ngu trung là hoài Lê, "phù Lê" (hoài vọng về triều Lê trung hưng, mưu tính khôi phục triều Lê, nhưng thực chất đó là triều đại của các vua Lê bị các chúa Trịnh bức hiếp, không còn tính chính thống, và cả Lê lẫn Trịnh đều thối nát, ươn hèn!), Nguyễn Công Trứ rất thức thời, thức thời một cách sáng suốt (theo lẽ biến dịch của lịch sử trong quan niệm chính thống của Nho giáo). Ông hăm hở, hào hùng dấn thân ra làm quan, dưới triều đại nhà Nguyễn, với tấm lòng vì nước, vì dân. Ông là một mẫu người vừa anh hùng, vừa nghệ sĩ. Âm điệu lạc quan, hào tráng, nhiệt thành, tài tử của thơ phú Nguyễn Công Trứ là một nét đặc sắc, hiếm có, rất độc đáo trong văn học cổ nước ta (kể cả thơ văn dưới thời cực thịnh của chế độ phong kiến, triều Lê Thánh Tôn), và không có gì ngạc nhiên khi âm hưởng hào tráng ấy xuất hiện dưới triều Nguyễn - Minh Mạng, Nguyễn - Thiệu Trị (cương vực nước ta dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị là rộng lớn nhất trong lịch sử bốn nghìn năm dựng nước, và hùng mạnh nhất trong khu vực, xét về vị trí đế quốc chủ nghĩa, theo quan điểm lịch sử - cụ thể!).

Ngoài ra, Nguyễn Công Trứ còn có một mảng thơ thất ngôn bát cú chữ Nôm, rất thâm thuý và mạnh bạo đả kích thói đời (thế thái nhân tình) với âm điệu trữ tình phê phán. Và về già, ông có thêm một mảng thơ hưởng lạc với những thú vui nho nhã, thích thảng (cầm kì thi tửu), kể cả trần tục (nàng hầu)!

Đề cao vai trò của kẻ sĩ (trí thức xuất thân từ mọi thành phần, giai cấp) là đúng, nhưng không chú ý đến thành phần, giai cấp xã hội khác: nông, công, thương, đó là một hạn chế của ông và của thời đại.

Do đó, thơ phú của ông, ở Miền Bắc (1954 - 1975), và suốt một thời gian dài trước Đổi mới (1985) đã bị dìm trong quên lãng!

(Xin xem thêm các chú thích về Phạm Thái, Nguyễn Du, Cao Bá Quát ở tiết I, chương XIV).

 

24. Tiếp theo ba chú thích (25), (28) và I.115: Bổ sung thêm ghi nhận về hai khuynh hướng yêu nước, chống Pháp nhưng phi mác-xít - lê-nin-nít, tuy có nhiều điểm gần gũi, ở những năm bốn mươi thế kỉ hai mươi (XX): Việt Nam Quốc dân đảng và Quốc tế Cộng sản đệ tứ (Troskisme).

Về chủ nghĩa tam dân, nhà sử học Phan Khoang viết, vào hai năm Dân quốc thứ 12 - 13 (1923 - 1924), Tôn Dật Tiên chỉnh lí tôn chỉ, đảng cương:

 

"... Đại ý về dân tộc chủ nghĩa thì chủ trương sửa lại các điều ước đã kí với các nước, khôi phục địa vị bình đẳng, tự do trên quốc tế; về dân quyền chủ nghĩa thì chủ trương nhân dân có bốn quyền là quyền sáng chế [: kiến nghị, sáng tạo về chính trị - TXA. ct.], quyền phúc quyết, quyền tuyển cử, quyền bãi miễn; về dân sinh chủ nghĩa thì chủ trương chia đều đất ruộng, quốc hữu hoá các sản nghiệp lớn"; "lấy đảng trị nước (dĩ đảng trị quốc) [trong giai đoạn đầu, gọi là thời kì quân chánh - TXA. ct.]".

"Khi Tôn Dật Tiên tái lập chánh phủ ở Quảng Châu (1923), người ta đã thấy nhiều nhân viên của Mạc Tư Khoa như Du-rin (Yourin), Giô-phơ (Joffe), Bao-la-đinh (Borodine), Ga-len (Gallen) làm cố vấn cho ông; và nhiều tổ chức phỏng theo kiểu Nga.

Tôn Dật Tiên nói rằng: "Chủ nghĩa cộng sản là lí thuyết dân sinh, và nguyên tắc dân sinh [của chủ nghĩa tam dân - TXA. ct.] là sự thực hành chủ nghĩa cộng sản. Hai lí thuyết này không khác nhau lắm, nhưng phương tiện của nó thì không giống nhau". Ấy là vì trong lí thuyết tập sản, ông muốn dành phần cho cá nhân, và ông bài xích sự giai cấp tranh đấu [TXA. in đậm], cho đó là một bệnh hoạn do sự tiến bộ của xã hội gây ra. Ông nói: "Chúng tôi khen ngợi sự bác học của Các Mác, nhưng chúng tôi không thể áp dụng những phương pháp của ông ở Trung Quốc được, vì ở đây chúng tôi khổ vì nghèo, chứ không phải vì sự bất bình đẳng về của cải"".

(Trích: Phan Khoang, “Trung quốc sử lược”, in tại nhà in Hồng Phát, Chợ Lớn, 1958, tr. 526 - 527, tr. 588 - 589).

 

Và như đã trình bày, sau cuộc khởi nghĩa Yên Báy (1930), Việt Nam Quốc dân đảng đã phân hoá và thoái hoá. Không kể Đại Việt quốc xã đảng, Đại Việt dân chính đảng là một nhánh nảy sinh vào những năm đầu thập niên bốn mươi (1940...). Về đảng Đại Việt, sau hiệp định Giơ-ne-v (Genève) 1954, đảng này có xây dựng chiến khu tại Ba Lòng, Quảng Trị để chống Diệm - Nhu, nhưng cuối cùng cũng "thoả hiệp", ngày càng biến chất, thoái hoá rất tệ hại! Nói chung, ở Miền Nam, giai đoạn 1954 - 1975, trong hai đảng, Việt Nam Quốc dân đảng và Đại Việt đảng, chỉ có Việt Nam Quốc dân đảng là còn có tư cách chính trị, còn giữ được một mức độ uy tín nào đó (mặc dù trong chính kiến, cương lĩnh hoạt động còn có thêm khía cạnh chống cộng). Tuy vậy, dẫu được quyền hoạt động công khai tại Miền Nam, nhưng dưới sức ép của Mỹ và Thiên Chúa giáo, Việt Nam Quốc dân đảng cũng bị đẩy vào thế ngặt nghèo, bị bức hại. Các sư sãi Phật giáo, các thành viên của các tổ chức thuộc nhiều khuynh hướng chống Diệm - Nhu - Cẩn, cùng với các đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng, đều bị Mỹ - Diệm bắt bớ, thủ tiêu (lại diễn đạt bằng các cụm từ lóng đầy tính chất bỡn cợt một cách tàn ác: "cho đi tàu suốt", "cho mò tôm"!). Cái chết tự sát của nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) do Diệm - Nhu bức tử là một sự kiện tiêu biểu. Trong giai đoạn đấu tranh nghị trường về sau, dưới chế độ Thiệu, có bộ phận đã biến chất, "thoả hiệp", xôi thịt, rất đáng chê trách. Đây là trường hợp điển hình cho bi kịch lâm vào "thế kẹt lịch sử" của những người yêu nước, cách mạng, chống ngoại xâm, nhưng không cộng sản, và không có hậu thuẫn nước ngoài, cụ thể là hậu thuẫn của một trong hai khối, đứng đầu là Nga và Mỹ, lại bị bộ phận "tả đạo" phản quốc trong nước thắng thế chèn ép, bức hại! Nói tóm lại, từ 1954 đến 1975, thực chất Việt Nam Quốc dân đảng chỉ ngắc ngoải sống, dưới nanh vuốt của Mỹ, ngụy và "tả đạo". Sau Ngày Giải phóng 30.04.1975, vì chính kiến chống cộng của chính đảng này, hầu hết các đảng viên cốt cán của Việt Nam Quốc dân đảng đều bị đi học tập cải tạo.

Về "chủ nghĩa xét lại" hay về Tổ chức Quốc tế Cộng sản đệ tứ (Troskisme), “Từ điển triết học” của Liên Xô có những đoạn viết:

 

"Trào lưu cơ hội chủ nghĩa, thù địch với chủ nghĩa Mác, nhưng lại hoạt động dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác, trong phong trào công nhân cách mạng".

"... gieo rắc tư tưởng cải lương tư sản trong phong trào cộng sản; chúng tìm cách xoá bỏ tinh thần cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phá vỡ lòng tin của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào chủ nghĩa xã hội, tước vũ khí và làm tan rã tinh thần của công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh của họ chống chủ nghĩa đế quốc. Bọn theo chủ nghĩa xét lại phủ nhận tính tất yếu lịch sử của cách mạng xã hội chủ nghĩa, chuyên chính của giai cấp vô sản và vai trò lãnh đạo của đảng mác-xít - lê-nin-nít, phá vỡ những cơ sở của chủ nghĩa quốc tế vô sản, rơi vào chủ nghĩa dân tộc".

 

Ngoài ra, Tự điển triết học còn cho rằng, "chủ nghĩa xét lại" xuyên tạc những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; hạ thấp vai trò tự giác của quần chúng, vai trò nhân tố chủ quan, tức là các tác động của chủ thể đối với hiện thực khách quan, trong tiến trình lịch sử, trông chờ ""sự biến đổi tự phát của chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội""; đặc biệt là xoá nhoà ranh giới duy tâm và duy vật, từ bỏ nguyên tắc tính đảng vô sản của hệ tư tưởng v.v... Tự điển triết học cũng cho rằng, cùng với việc chống "chủ nghĩa xét lại", Liên Xô còn đẩy mạnh việc chống chủ nghĩa giáo điều chết cứng, máy móc, thiếu linh hoạt, thiếu sáng tạo, trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

(Trích & xem: “Từ điển triết học”, Nxb. Tiến Bộ - Maxcơva (1975), liên kết với Nxb. Sự Thật - Hà Nội, 1986, tr. 698 - 699).

Ở Việt Nam, ngoài Tạ Thu Thâu trên lĩnh vực chính trị như đã trình bày, một số nhà nghiên cứu cho rằng trên lĩnh vực văn học, còn có Vũ Trọng Phụng, nhà văn hiện thực phê phán, ít nhiều đã ảnh hưởng tư tưởng chính trị của Quốc tế Cộng sản đệ tứ.

Trong thực tiễn chính trị ở Liên Xô và các nước Đông Âu, chính vì thiếu tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do xuất bản, tự do ngôn luận v.v. cùng ý thức tôn trọng sự khác biệt về tư tưởng và về các hình thức thể hiện tư tưởng (tính độc lập trong sáng tạo) đã dẫn đến sự nghèo nàn, bất động, trì trệ, ngột ngạt, bức bối, và sụp đổ.

Trong những năm khởi động Đổi mới ở nước ta, báo chí hay nhắc đến câu kinh điển: "cưỡng bức quy luật sẽ bị quy luật trừng phạt". Phải hiểu như thế nào về câu ấy? Lí luận và thực tiễn?

Tôi đã viết về chủ nghĩa xã hội với kinh tế năm thành phần và bản sắc dân tộc trong tiểu thuyết “Sen đỏ, bài thơ hoà bình”, Nxb. Thanh Niên, 2003.

Tôi cũng đã thể hiện khát vọng sáng tạo của dân tộc Việt Nam chúng ta, chống sự nô dịch tư tưởng, trong bài bạt: “Ý nghĩ khi đọc lại tiểu thuyết của mình, "Mùa hè bên sông": "Danh dự Tổ quốc và thói tệ sùng bái cá nhân người nước ngoài"”.

Tóm lại, ở các chú thích (25), (28), I.115 và II.24, tôi muốn phê phán sự chuyên chế, bức hại trí thức, nhà văn bằng những cách thức quá tàn bạo. Xét về đối tượng: trí thức, nhà văn, kể cả chính khách, không phải là "thiên tử" (để xảy ra tình trạng như "phù Lê" dai dẳng, hoặc "tôn phù hậu duệ hoàng tử Cảnh" dẫu đã lỗi thời!). Xét trong bối cảnh giữa thế kỉ hai mươi (XX): lại là cao trào tự do, dân chủ, cộng hoà, chứ không phải chế độ chuyên chế phong kiến. Tôi phê phán theo quan điểm lịch sử - cụ thể là như thế; và đồng thời tôi muốn chứng minh rằng, sự sát phạt giữa các chính khách, đảng phái có khuynh hướng chính trị yêu nước, chống Pháp là xuất phát từ cái được gọi nguyên tắc không chia sẻ quyền lực hay còn gọi là đấu tranh giai cấp một cách triệt để, không khoan nhượng nhằm thực hiện chuyên chính giai cấp (thực chất là chuyên chính về hệ tư tưởng). Nếu quả thật những trí thức, nhà văn, chính khách nói trên là bè lũ tay sai, "thoả hiệp" với giặc xâm lược, thì việc họ phải bị trừng trị theo pháp luật, có toà án xét xử một cách công khai, minh bạch là sự đã đành! Nhưng đâu phải trường hợp nào cũng thế! Ngoài ra, hành quân chiến đấu và ở chiến trường phải nổ súng là việc tất yếu một khi lực lượng xung đột với lực lượng, như sự kiện quân đội Việt Minh quét sạch quân Việt Nam Quốc dân đảng chiếm đóng Lào Cai hồi năm 1946. Tôi không phải ngây thơ để không biết rằng, thời đại đã đặt ra quan niệm: Tinh thần, hành động yêu nước, chống ngoại xâm chẳng có nghĩa lí gì nếu không cùng hệ tư tưởng của giai cấp! Dân tộc và giai cấp, cái nào nặng, cái nào nhẹ? Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản (1848), Mác và Ăng-ghen đã trả lời bằng sự khẳng định: Giai cấp là trên hết! Đến đầu thập niên hai mươi của thế kỉ hai mươi, V. I. Lê-nin (Lénine) cũng đặt giai cấp trước dân tộc: "Vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!", chứ không phải "Các dân tộc bị áp bức và vô sản các nước, đoàn kết lại!". Như thế, với Lê-nin, quan điểm vẫn y nguyên: Giai cấp là trên hết! Giai cấp và dân tộc là hai vấn đề phải thống nhất làm một. Từ đó, có thể nói, phải chăng sự thể ấy cũng là một trong những cơ sở để lí giải về lịch sử cuộc chiến tranh dài dằng dặc, hận thù và máu xương chất ngất, lênh láng? Đó là một nỗi đau lịch sử, không phải không còn di chứng hậu chiến. Đâu rồi tinh thần đoàn kết dân tộc? Đâu rồi lòng nhân hậu vốn là truyền thống dân tộc? Ca dao, tục ngữ Việt Nam đã khẳng định những điều tưởng như phi lí, chỉ là thần thoại huyễn mị (chỉ là phép tu từ!), nhưng lại có thật: "Ba cây chụm lại nên hòn núi cao", "Bát nước đổ xuống, bưng lên lại đầy". Tình đoàn kết, lòng nhân hậu ấy cũng là biểu hiện tiểu tư sản chăng? Tôi cũng biết, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao khẩu hiệu "Tổ quốc trên hết", chứ không phải "Giai cấp trên hết", trong thời điểm Người đọc Tuyên ngôn độc lập và cùng biên soạn Hiến pháp 1946. Nhưng đâu là sức ép? Đâu là sách lược tạm thời? Và đâu là mục tiêu chiến lược? Hẳn ai cũng rõ, với cái nhìn toàn cục, một khi thế giới bị phân chia thành hai khối, tư sản đối đầu vô sản, cả hai đều quyết chiến, đấu tranh giai cấp triệt để và không khoan nhượng, không chia sẻ quyền lực, trong gần trọn thế kỉ hai mươi (XX).

Với quan điểm xây dựng và củng cố chuyên chính vô sản, tất nhiên các lực lượng yêu nước, cách mạng theo hệ tư tưởng tư sản như Việt Nam Quốc dân đảng, t-rốt-kít (troskiste) phải bị tiêu diệt, nếu không chuyển hoá ý thức hệ giai cấp. Chỉ có thể đoàn kết trên một lập trường duy nhất: lập trường dân tộc đồng nhất với lập trường giai cấp!

Cuộc phân tranh đến mức chiến đấu thật sự giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Việt Nam Quốc dân đảng thực chất là đấu tranh giai cấp, chứ không phải là đấu tranh giữa lực lượng yêu nước với bọn phản quốc, tay sai đúng nghĩa. Cuộc đấu tranh giai cấp đó cũng xuất phát từ sách lược "biến chiến tranh [chống] đế quốc thành nội chiến cách mạng" của Lê-nin. Nói cách khác, hai nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược vốn được xác định là phải tiến hành đồng thời: giành độc lập dân tộc (đánh đuổi Pháp, Nhật) và cách mạng vô sản (đánh bại các lực lượng phi vô sản mà Việt Nam Quốc dân đảng là một tổ chức có khuynh hướng tư sản [thực chất chỉ trung dung, tiểu tư sản mà thôi!]; do đó, hiển nhiên Việt Nam Quốc dân đảng là kẻ thù giai cấp của giai cấp vô sản, đối tượng phải tiêu diệt của chuyên chính vô sản).

Phải chăng đã đến lúc nên xem lại hai chữ "phản quốc", vốn chỉ là "chiếc mũ", trong hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, phải chụp lên đầu Việt Nam Quốc dân đảng? Phải chăng nên xác định lại cho thật rõ ràng: Việt Nam Quốc dân đảng, có khuynh hướng thuộc hệ ý thức tư sản, chỉ là kẻ thù giai cấp của giai cấp vô sản, đối tượng phải tiêu diệt của chuyên chính vô sản, trong bối cảnh lịch sử - cụ thể thuở bấy giờ?

Phải chăng đó là sự thật lịch sử?

Tôi không có ý định biện minh để phục hồi tư cách chính trị cho Việt Nam Quốc dân đảng. Dẫu sao, từ rất lâu về trước, Việt Nam Quốc dân đảng đã thật sự biến tướng, biến chất giữa hai gọng kìm lịch sử. Vả lại, hiện nay Việt Nam Quốc dân đảng trong thực tế, không còn đảng viên nào, tổ chức cũng đã tan hoang, chỉ còn là vấn đề sử học.

 

25.  Chú thích II.25, tr. 322 (kế tiếp chú thích II.24):

Khi tôi đặt dấu chấm hết của lần bổ sung này, trên Tạp chí Xưa & Nay, số 154 (202), tháng 12.2003 của Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, đã đăng tải tiếp phần hai bài báo của Hoàng Văn Lân, nhan đề "Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ nghĩa Mác như thế nào?". Phần hai bài nghiên cứu ấy được trang trọng in ở tr. 5 - 6 & in tiếp ở tr. 38 - 39 của số tạp chí trên, sau khi phần một đã được trang trọng in ở tr. 4 - 7, số trước: 153 (201), tháng 11.2003.

Xin mạn phép trích một đoạn thuộc phần hai để tham khảo thêm về mối quan hệ giữa Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng sản đệ tam và Liên Xô:

 

" ... Từ năm 1920, Hồ Chí Minh là người đầu tiên trong lịch sử cách mạng hiện đại đã vận dụng học thuyết Mác với một tầm nhìn sáng tạo mang đầy đủ tính chất một chiến lược đối với phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam [... TXA. lược bớt (lb.)].

Nhưng khi Hồ Chí Minh đến Mat-x-cơ-va (7.1923) với tư cách đại biểu chính thức duy nhất được Chủ tịch Đoàn Quốc tế Cộng sản mời tham dự Đại hội V - QTCS. (17. 6 - 08.7. 1924) thì V. I. Lê-nin qua đời. Trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu diễn ra một chuỗi đấu tranh nội bộ (còn kéo dài suốt thế kỉ XX), tranh giành quyền lực phe phái nặng nề. S-ta-lin ngày càng tập trung quyền lực, đàn áp thanh trừ những người khác mình, buộc các đảng cộng sản và phong trào cách mạng thế giới phải đi theo đường lối [:] thuyết tả khuynh cực đoan về đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, bôn-sê-vích hoá phong trào cộng sản quốc tế, chính quyền công nông, cách mạng thổ địa... [TXA. in đậm (iđ.)]. Học thuyết Mác bị tước mất tính sáng tạo biện chứng và tính thực tiễn. Một thực tế lịch sử không thể bỏ qua là, thuở ban đầu sau khi thành lập QTCS. (3.1919), hầu hết các phong trào cách mạng, các phân bộ (section) của QTCS. rồi các đảng cộng sản đều phải tìm chỗ dựa ở Liên Xô và QTCS., chứ không riêng gì Hồ Chí Minh và phong trào cách mạng Việt Nam [TXA. iđ]. Do đó, không lạ gì khi QTCS. và Liên Xô bắt đầu tác động tới cách mạng Việt Nam về đường lối và cả về tổ chức nhân sự, muốn thay thế vai trò Hồ Chí Minh, hướng cách mạng Việt Nam theo "đường lối cách mạng vô sản quốc tế" do S-ta-lin chi phối [TXA. iđ.]. Việc "bổ sung" học thuyết Mác cũng như tầm nhìn sáng tạo mang đầy đủ tính chất chiến lược của Hồ Chí Minh đối với học thuyết Mác, đặc biệt là đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh xuất phát từ sự bổ sung và theo như trình bày từ "Báo cáo về Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì" vừa phân tích trên kia, hoàn toàn không được S-ta-lin và QTCS. ủng hộ [TXA. iđ.]. Và cũng vì thế, các hoạt động của Hồ Chí Minh trước và sau Đại hội V - QTCS., đặc biệt là ý định Hồ Chí Minh mong muốn sớm trở về với cách mạng Việt Nam gặp không ít trở ngại [TXA. iđ.]. Nhưng [... TXA. lb.], cuối cùng, nhờ Đi-mi-tri Đa-khai-lô-vích Ma-nu-in-s-ki (1883 - 1959), một uỷ viên Ban Chấp hành QTCS. đồng thời là uỷ viên Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Liên Xô, tìm cách tranh thủ Đoàn Chủ tịch QTCS. chấp thuận bổ sung Hồ Chí Minh vào Ban Phương Đông và cử về hoạt động ở Trung Quốc, Hồ Chí Minh mới có điều kiện bắt tay thực hiện chiến lược đã định. Trong quyết định Ma-nu-in-s-ki trực tiếp trao cho Hồ Chí Minh có ghi "Nguyễn Ái Quốc thay mặt QTCS., đại diện toàn quyền của QTCS. tại Viễn Đông". Từ đó đến năm 1943, đó là chức vụ chính thức mà Hồ Chí Minh đã giữ để hoạt động [TXA. iđ.]. Ngày 11.11.1924, Hồ Chí Minh đến Quảng Châu và từ đó, trực tiếp định hướng và lãnh đạo cách mạng Việt Nam theo chiến lược đã định, từ tuyên truyền, tập hợp lực lượng, đào tạo cán bộ đến xây dựng tổ chức cách mạng, thúc đẩy phong trào cách mạng ở trong nước, xây dựng quan hệ quốc tế, gắn Việt Nam với thế giới, kết hợp dân tộc với thời đại. Toàn bộ hoạt động của Hồ Chí Minh từ 1924 đến 1945 (sử sách đã viết nhiều, chúng tôi xin phép không nói lại) đã trực tiếp dẫn thẳng tới Cách mạng Tháng tám 1945. Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là, [... TXA. lb.], Cách mạng Tháng tám diễn ra hoàn toàn khác quan điểm chính thống mà QTCS. bàn định suốt từ 1919 đến 1943 ...".

 

Tôi không nói đến phần một của bài nghiên cứu, khi Hoàng Văn Lân đề cao Nguyễn Trường Tộ một cách sai lầm quá đáng. Phần một cũng đề cao Đông Kinh nghĩa thục của những nhân sĩ yêu nước, nhưng không phê phán tên tay sai Nguyễn Văn Vĩnh đứng đầu tổ chức nghĩa thục ấy.

Tôi chỉ nhấn mạnh đến những thông tin khách quan đã được in đậm ở đoạn trích trên. Nếu quả thật lượng thông tin khách quan ấy được thẩm định chính xác, tôi xin phép được sử dụng để làm sáng tỏ hơn cho chú thích (38) và (39) của tiểu thuyết này, nhất là cho bài bạt: " Ý nghĩ khi đọc lại tiểu thuyết của mình, "Mùa hè bên sông": "Danh dự Tổ quốc và thói tệ sùng bái cá nhân người nước ngoài" " và cho hai câu của tôi viết về ý nghĩ của mình về vấn đề liên minh, một khi từ rất lâu, vào năm 1943, tổ chức Quốc tế Cộng sản đệ tam đã giải thể do yêu cầu, khát vọng độc lập, tự chủ, bình đẳng của các đảng cộng sản ở các nước:

Vấn đề là tính chất liên minh như thế nào!

Phải dân chủ, bình đẳng về dân tộc; phải độc lập tuyệt đối về chủ quyền đất nước!

Thiết tưởng không cần nói về cách thức tổ chức liên minh. Nói một cách giản dị là, cần có những đại hội của liên minh, bàn về các vấn đề chung, hỗ trợ lẫn nhau, nhưng tuyệt đối không được xâm phạm vào chủ quyền mỗi nước. Thế giới đã quá thấm thía thủ đoạn "củ cà rốt với cây gậy chỉ huy"! Và chỉ nói thêm một điều: Tôi có lần phê phán vai trò "thiên tử" của giáo hoàng La Mã cũng như vai trò "thiên đình" của Toà thánh Rô-ma (Rome), cho dù trong tương lai, biết đâu, sẽ có một giáo hoàng La Mã nhận nhiệm vụ có nhiệm kì một cách dân chủ, chứ không phải cho đến mãn đời như thể vua chúa; cho dù trong tương lai sẽ có một giáo hoàng La Mã thuộc chủng tộc da vàng hoặc da đen, chứ không phải da trắng như gần hai ngàn năm nay! Tôi đoan chắc, căn cứ vào xu thế dân chủ và tiến bộ ngày nay, sớm muộn cũng đến lúc cả Toà thánh Va-ti-căng (Vatican) sẽ giải thể, lẫn giáo hoàng Rô-ma sẽ cáo chung.

Xin thứ lỗi khi tôi nói trắng ra như thế này:

Chủ đích của tôi là muốn lí giải về lịch sử giai đoạn 1858 - 1975. Một trong những nguyên nhân khiến cuộc chiến tranh kéo dài đến thế là bởi ai cũng biết rõ, qua các sử liệu chính xác, đã được thẩm định, công bố: Các giáo hoàng La Mã trong một trăm mười bảy (117) năm ấy là những tên xâm lược đích thực. Một nguyên nhân khác: Thử hỏi, giả định như có một Việt kiều ở Mỹ, rồi ở Nga hoặc chỉ ở một cường quốc nào đó, lại có chân trong một tổ chức quốc tế nữa, cũng có viết cỡ vài cuốn sách, khoảng trăm bài báo, có khuynh hướng thân cường quốc [...], anh ta về nước, bạn có tin vào anh ta để trao vận mệnh Đất nước và dân tộc vào tay anh ta hay không? Câu trả lời ở đầu thế kỉ hai mươi mốt (XXI) về Việt kiều hiện nay, thời đại bùng nổ thông tin, vẫn 100% là "không".

Xin ngẫm nghĩ một chút nữa xem! Ngay người Việt Nam với nhau, đều ở trong nước suốt cả đời, nhưng người Miền Bắc không tin người Miền Nam, người Miền Nam không tin người Miền Bắc, nữa là Việt kiều Mỹ, Việt kiều Pháp, Việt kiều Nga!

Xin thưa rằng, đó là sự thật lịch sử thuở đầu thế kỉ hai mươi (XX). Đầu thế kỉ trước, thông tin vốn mù mịt. Bấy giờ, nhân dân Việt Nam từ vài thế kỉ trước đã phẫn hận với kinh nghiệm cay đắng về quá trình truyền đạo của Thiên Chúa giáo cùng hậu quả thực dân, tạo nội phản của nó (xem ra không khác gì hoạt động tuyên truyền, giác ngộ cách mạng!). Ngoài ra, nhân dân ta còn nghẹn ngào đến mức uất hờn, với kinh nghiệm cay đắng về phong trào Đông Du thân Nhật và thực chất của chiêu bài Đại Đông Á (phát xít!). Sau đó, kinh nghiệm cay đắng cũng không kém chua xót về Việt Quốc, nhất là Việt Cách, và thực chất của Tưởng Giới Thạch! Tất nhiên không thể đánh đồng (hoá đồng mẫu số) của bốn thực thể, lực lượng (phân số) trên.

Có một chi tiết nữa, tôi xin vô phép kể: Hồi đó, thực dân và các phe phái chống cộng còn tuyên truyền xuyên tạc rằng, Nguyễn Ái Quốc không phải là Hồ Chí Minh. Nguyễn Ái Quốc đã chết từ lâu rồi! Chẳng qua chúng muốn hạ uy tín quá lớn của Hồ Chí Minh! Thật là một sự xuyên tạc trắng trợn, nhưng cũng có lắm người nhẹ dạ, cả tin cứ tưởng đúng là như vậy!

Nỗi đau lịch sử là thế đó!

Tôi được sinh sau đẻ muộn, chỉ nghe nhiều người già tóc bạc da mồi, trước 1975, thở than như thế. Xin ghi lại để tham khảo và kiểm chứng, trên tinh thần "không có hoài nghi khoa học, sẽ không có khoa học", không gieo dấu hỏi vào nước uống, sẽ không biết H2O. Tất nhiên hoài nghi khoa học phải được hiểu như một thuật ngữ cố định, có ba dấu ngang nối giữa bốn chữ: hoài-nghi-khoa-học. Hoài-nghi-khoa-học (II.25.a) để phân tích, tổng hợp, loại suy, chứng minh, phản biện với nhiều thao tác nghiên cứu nghiêm túc khác nữa, để cuối cùng phải đi đến kết-luận-khoa-học (hay kết luận có tính khoa học). Dứt khoát không để rơi vào trường hợp đa nghi bệnh hoạn hoặc vô tình bị kéo vào âm mưu tung hoả mù gây hoang mang của bọn thù địch, tâm địa xấu xa, lợi dụng mặc cảm lầm lạc trong quá khứ để bôi đen tất cả cho huề hoà, xí xoá!

Xin thưa lại một lần nữa: Chủ đích của tôi là muốn lí giải về lịch sử giai đoạn 1858 - 1975. Trên đây chỉ là một vài trong những nguyên nhân lịch sử, xét về tình trạng nội bộ nhân dân Việt Nam chúng ta. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là tham vọng bành trướng, thực dân, phát xít, đế quốc của Thiên Chúa giáo, Pháp, Nhật, Mỹ...

Nỗi đau lịch sử là thế đó!

 

TRẦN XUÂN AN

Sửa chữa, bổ sung đến ngày hai mươi ba, tháng mười,

năm Đinh sửu (1997), lúc 15 giờ 40 phút;

và vào quý tư, năm Tân tị (2001), tại Tp. HCM.

Sửa chữa, bổ sung lần thứ ba, quý tư năm Quý mùi HB.3 (2003).

 

 

CƯỚC CHÚ của phần CHÚ THÍCH II:

 

(II.19.a) Thật ra, Phan Bội Châu chỉ lên án "quyền gian" trong vụ phế truất Dục Đức bằng vài dòng chữ ngắn ngủi khi viết về Phan Đình Phùng (NTPCPBC., VNVQS., sđd., tr. 89). Ai cũng biết Phan Bội Châu ám chỉ Tôn Thất Thuyết, người trực tiếp ra lệnh trói và Bộ Hình cách chức Phan Đình Phùng (lúc ấy, Phan Đình Phùng còn chủ hòa). Ngoài ra, Phan Bội Châu không viết một chữ nào về vụ Hiệp Hòa (thân Pháp) và vụ Kiến Phúc (do Hồng Hưu).

 

(II.19.b) Phương thức biên soạn tập thể đúng nghĩa: Không phải mỗi người trong ban biên soạn phụ trách một phần rồi đem ghép lại thành một bộ sách hoặc một cuốn sách, mà các tư liệu, chi tiết sự kiện, diễn biến lịch sử, hành trạng nhân vật lịch sử, kể cả nhận định, bình giá hiện nay đều phải được tập thể cân nhắc, lấy ý kiến chung, rồi phân công người chấp bút, sau đó tập thể biên tập lại. Hơn nữa, còn phải xuất bản để trưng cầu công luận bằng nhiều hình thức công khai, gồm việc lấy ý kiến nhân chứng còn sống (trong điều kiện hiện tại)...

 

(II.19.c) Ngoài ra, Quốc sử quán triều Nguyễn còn ghi tên họ thật, phẩm hàm của các viên bút thiếp thức, đằng lục... (rất tiếc là còn thiếu quê quán; xin xem ở “Quốc triều hương khoa lục”).

 

(II.21.a) Ngoài ra, còn có một cuốn hồi kí nhan đề: “Mẹ và Quốc hội”, của một cán bộ cách mạng lão thành tên là Nguyễn Văn Trấn. Trong đó có một số chương viết về Miền Bắc (1954 - 1975).

 

(II.22.a) Về mặt lí lịch cá nhân, vấn đề mã di truyền hay thường gọi là gien hoặc huyết thống là rất quan trọng (nên vấn đề phả hệ dòng tộc luôn luôn được đặt ra, và hoàn toàn có cơ sở khoa học thực nghiệm). Tuy nhiên một lần nữa xin nhấn mạnh đến yếu tố đồng biến, dị biến - đột biến gien (gien trội, gien lặn, gien đột biến) và đặc biệt quan trọng là điều kiện xã hội, môi trường sống.

 

Xin xem thêm chú thích về Nguyễn Công Trứ, tiết 5, chương VII và chú thích tiếp theo II.23: Ý thức không ngoan cố, trung quân mù quáng, mà phải sáng suốt theo lẽ biến dịch của lịch sử trong quan niệm chính thống của Nho giáo. Đó là về phía kẻ sĩ, với điều kiện phải nhận thức sáng suốt, không phải là thái độ xu thời hèn hạ, vô sỉ. Đối với triều đình, phải chính nghĩa, tiến bộ hơn triều đại cũ, phải có thái độ bao dung, không cố chấp, thực sự chiêu hiền đãi sĩ. Ngay trong khuôn khổ ý hệ Nho giáo cũng đã có hướng mở cho sự trói buộc, một khi đạo lí theo giáo điều trung quân đã trở thành sự trói buộc tai hại đối với kẻ sĩ do sự mù quáng, không hiểu nổi sự biến dịch lịch sử (triều đại này thay thế triều đại kia); một khi triều đại mới xứng đáng với vai trò lịch sử đương thời, so với triều đại cũ đã bại vong, và biết xoá bỏ định kiến, thù hận, biết "dụng nhân như dụng mộc".

 

(II.22.b) “Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền” cũng như hiến pháp xã hội chủ nghĩa đều có khẳng định sự tôn trọng, bảo vệ các quyền sống - quyền tự do cơ bản của cá nhân.

 

(II.25.a) Có lẽ để chính xác hơn, thay vì bốn chữ hoài-nghi-khoa-học, nên xác định thuật ngữ là đặt vấn đề nghiên cứu khoa học hoặc đặt dấu hỏi khoa học.

 

 

( xem tiếp : chú thích III )

 

 

E-mail: tranxuanan_vn@yahoo.com

Cập nhật 06/29/09                                                                   

Trở về trang chủ

                                                                 

 

 

DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE