m. Trần Xuân An (bs. & kc.) - Thơ Nguyễn Văn Tường (1824-1886) - Tệp 13: Nt. (nhà thơ) Nguyễn Tôn Nhan dịch nghĩa

 

Web Tác giả Trần Xuân An

 

 

Trần Xuân An

biên soạn (tổ chức nội dung, khảo luận, bị chú các bài khảo luận của các tác giả,

chú giải thơ, chuyển ra ngôn ngữ thơ

trên cơ sở Thi tập chữ Hán do Nnc. Trần Viết Ngạc sưu tầm,

bản phiên dịch của Nnc. Trần Đại Vinh, Nnc. Vũ Đức Sao Biển, Nnc. Nguyễn Tôn Nhan

[Ts. Ngô Thời Đôn hiệu đính các bản dịch]).

 

Xem phần nguyên tác chữ Hán (hình ảnh quét chụp [scan]):

http://www.tranxuanan-writer-3.blogspot.com

http://www.tranxuanan-writer-4.blogspot.com

 

 

                    Chùm thơ hai bài 40. 41

 

HỌA BÌNH LÂM TÚ TÀI ĐẶNG

VỊNH VẬT NHỊ THỦ NGUYÊN VẬN:

MIẾU TRUNG NGỌA MỘC

NGUYÊN VẬN

 

40: BÀI A

 

                        Liên bão tằng khoa bách xích trường

                        Kỉ kinh tịch thảo ngọa trung đường

                        Vị thành bất khả đồng chi hủ

                        Nhất khởi kình thiên tác đống lương.

                                                           

NGUYỄN TÔN NHAN

                                                          phiên âm và dịch nghĩa

 

40. 41

 

HỌA THƠ TÚ TÀI [Ở] BÌNH LÂM (1) [HỌ]

ĐẶNG (2), HAI BÀI VỊNH VẬT, NGUYÊN

VẦN: “CÂY NẰM TRONG LƯƠNG MIẾU” (3)

NGUYÊN VẦN

 

40: BÀI A

 

Cùng ấp ủ [hoài bão], từng [tự] khen ngợi (khoe) dài                               

                  trăm thước (4)

Bao nhiêu [lần] trải qua [việc phải] đạp xéo (5) lên cỏ,                     

              nằm giữa bờ đê (6)

Chưa thành [việc], [lại] không tốt (bền), [thì] đồng cũng                 

                mục nát

[Quyết] một [lòng] vươn lên trời, làm rường cột.

 

            (1), (2), (3) Xin xem các chú thích ở bản dịch nghĩa bài số 42.

            (4) Thước ta: 40 cm.

            (5) Chữ “tạ” bao gồm nghĩa của chữ “tịch”. “Tạ” còn có nghĩa là “mượn, nhờ” (“tạ” chỉ khác với “tịch” là một chữ có bộ trúc, một chữ có bộ thảo). Có lẽ “cây nằm trong lương miếu” thuở hàn vi này cũng sống nhờ cỏ, còn chuyện “rường cột” của Triều đình, nước nhà vẫn đang là chí nguyện... (tất nhiên, Triều đình phải tốt đẹp, xứng đáng là biểu tượng của nước nhà)? [Xem HVTĐ., sđd., tr. 569 và tr. 466].

            (6) Chữ “đường” ở bài này còn có nghĩa là cái ao (ở Bắc Bộ). Loại gỗ tốt nào đó, có thể chịu được sự ngâm nước, ngâm bùn, người ta thường ngâm như vậy để tăng khả năng chống mối mọt, loại trừ hết các lớp vỏ dác, chỉ còn phần lõi ròng (bền hơn cả đồng, sắt), trước khi làm nhà.

 

40. 41

 

HỌA THƠ TÚ TÀI HỌ ĐẶNG Ở BÌNH LÂM HAI BÀI VỊNH VẬT NGUYÊN VẦN:

CÂY NẰM TRONG LƯƠNG MIẾU,

NGUYÊN VẦN

 

40: BÀI A

 

                        Cùng ước, từng khoe trăm thước suôn

                        Bao lần vùi cỏ, nằm đê sương

                        Chưa thành, không tốt, đồng còn nát

                        Một dậy, chống trời, làm cột, vươn!

                                                           

TRẦN XUÂN AN

                                                            chuyển lại thơ

 

 

Chùm thơ hai bài 40. 41

 

MIẾU TRUNG NGỌA MỘC

 

41: BÀI B

 

                        Bất tịnh quần tài giảo thốn trường

                        Chung phong na đắc phạ đồi đường

                        Cán trinh biệt hữu hiên ngang xứ

                        Khẳng tác nhân gia tiểu giác (1) lương.

                                                           

VŨ ĐỨC SAO BIỂN

                                                             phiên âm

                                                       (và dịch thơ ở bài giới thiệu).

 

            (1) TĐHV., sđd., tập thượng, tr. 195, phiên âm là “dác”.

 

40. 41

 

“CÂY NẰM TRONG LƯƠNG MIẾU”

 

41: BÀI B

 

Chẳng ganh đua [với] các loại gỗ [khác], so đo [tøừng li]            

                  tấc (1) [chiều] dài

[Xem như] chấm dứt hết [các] gió [bão] làm sao được,                 

               [sao lại] sợ mục nát (sợ sụt lỡ đê điều)

Gốc (rễ) [trung] trinh (2), có riêng cõi hiên ngang [để                          

                      đứng vững]

Dựng chắc chắn [cho] người (3) Ngôi Nhà (3), [có] cây              

                  rui, cây xà nhỏ [đây]!

 

            (1) Tấc của thước ta (còn gọi là thước mộc): 4 cm.

            (2) Trinh mộc: loại gỗ vững cứng.

            (3) Xin lưu ý đầu đề. Từ đầu đề, người đọc hiểu hai chữ Ngôi Nhà phải được viết hoa (theo quy tắc chung, chỉ viết hoa chữ “Ngôi”). Ngôi Nhà ở đây là Triều đình (lương miếu, miếu đường, Trung ương của Nhà nước quân chủ tập quyền). Trong ý hệ phong kiến, Triều đình là biểu tượng Đất nước.

 

40. 41

 

“CÂY NẰM TRONG LƯƠNG MIẾU”

 

41: BÀI B                    

 

                  Họa thơ tú tài họ Đặng ở Bình Lâm

 

            Li tấc chẳng so, chuyện ghét tài

            Làm sao hết gió? Sợ hư cây?

            Có riêng gốc vững, hiên ngang cõi

            Dựng chắc Ngôi Nhà, xà nhỏ đây!

                                                             

(bản biên soạn)

 

 

 

 

Chùm thơ hai bài 42. 43

 

HỌA BÌNH LÂM TÚ TÀI ĐẶNG

VỊNH VẬT NHỊ THỦ NGUYÊN VẬN:

TÙNG THỤ NGUYÊN VẬN

 

42: BÀI A

 

                        Khẳng khoa chất mĩ lăng phàm thổ

                        Đặc thị tài cao ấm dị cầm

                        Trực đãi miếu đường tư thái khứ

                        Đống lương song ỷ ngũ vân thâm.

                                                           

NGUYỄN TÔN NHAN

                                                          phiên âm và dịch nghĩa

 

42. 43

 

HỌA THƠ TÚ TÀI [HỌ] ĐẶNG [Ở] BÌNH LÂM (2) HAI BÀI VỊNH VẬT, NGUYÊN VẦN:

“CÂY TÙNG” NGUYÊN VẦN

 

42: BÀI A

 

[Quyết] khoe cho được cái đẹp [của] phẩm chất, vượt                 

                lên [mặt] đất phàm tục (tầm thường)

Riêng một mình cậy mình cao cường [về] tài năng, che

        chở đặc biệt [cho] chim chóc ([hay] che chở [cho]                

               loài chim [quý hiếm] khác thường)

Ứng xử ngay thẳng, Triều đình siêng năng chọn lựa   

          [những cây tốt, cần thiết và] loại bỏ đi [những                             

                   cây xấu chưa cần] (3)

Rường cột (cột nhất và xà nhà), [hai cái ấy] dựa vào                    

                năm [loại] mây trời (3) sâu thẳm.

 

            (1) Cũng như “Miếu trung ngọa mộc” (Cây nằm trong miếu [: miếu đường = Triều đình]), với đầu đề “Tùng thụ” (Cây tùng), trên trang giấy viết chữ Hán nguyên tác, bài A (tức bài 42) này được viết chữ nhỏ hơn. Có thể Nguyễn Văn Tường đã họa hai bài (cả hai, bài 42 và 43 đều là của ông). Cũng có thể của ông một bài chữ lớn (bài 43), còn bài chữ nhỏ (bài 42) này, là của tú tài họ Đặng (chưa rõ là ai). Xin xem bị chú cuối phần chú thích.

            (2) Có thể là Bình Lâm thuộc huyện Kim Anh, Bắc Ninh (Bằng Lâm? ĐNNTC., tập 4, sđd., tr. 99).

            (3) Mây ngũ sắc là mây lành, theo điển Trịnh Nhân Biểu hoặc Hán Cao Tổ (Lưu Bang) thời hàn vi (TĐTNTN., sđd., tr. 427). Mây năm màu còn có nghĩa khác: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Đó là năm yếu tố vật chất khởi nguyên, xuất phát từ cái rỗng không, mờ mịt được gọi là Đạo. [Đạo sinh ra âm dương, ngũ hành...; Đạo chỉ là tinh vân (có thể hiểu rõ là mây bụi); âm dương, vừa rất khái quát, trừu tượng, vừa rất cụ thể, thấy được, cầm được]. Ngũ sắc vân cũng có thể hiểu là năm tầng mây, trong hệ thống mà nhà vua (thiên tử) là cửu trùng (chín tầng). Ý thứ hai này cũng chỉ là “có thể”, không dám khẳng định một cách thô thiển, dung tục như vậy.

Ngay ở câu thứ ba, cũng có thể dịch khác đi, trong tính chỉnh thể của tứ thơ, liền mạch trong văn cảnh:

            “Ứng xử ngay thẳng [với] triều đình /

                [tự] cần mẫn chọn lựa [và] loại bỏ [những gì tốt,

                   chưa tốt, cần hoặc chưa cần]”.

            Nếu chấp nhận câu dịch này, thì không có vấn đề dựa vào tầng mây thứ năm (quan lại, cỡ tam phẩm), mà chỉ dựa vào Trời Đất, khí thiêng sông núi, theo quan điểm nhà nho Việt Nam (tam giáo khúc xạ trong bản lĩnh Việt).

            Và có lẽ như thế là cảm nhận được tứ thơ của tác giả (?) (*).

           

            

 

42. 43

 

HỌA THƠ TÚ TÀI HỌ ĐẶNG Ở BÌNH

LÂM, HAI BÀI VỊNH VẬT, NGUYÊN VẦN:

CÂY TÙNG NGUYÊN VẦN

 

42: BÀI A

 

                        Quyết khoe đẹp chất, miền phàm, vượt

                        Riêng cậy cao tài, chim lạ nương

                        Xử thẳng, triều đình chăm chọn lọc

                        Mây sâu ngũ sắc, cột liền rường.

                                                           

TRẦN XUÂN AN

                                                            chuyển lại thơ

 

 

Cước chú của chùm thơ bài số 42, 43, bài A (42), thuộc Phần thứ III (Thi tập Nguyễn Văn Tường):

(*) Bị chú: bổ sung chú thích (1):

            a) Có thể bài 40, bài 42 cũng của tác giả Nguyễn Văn Tường. Nguyễn Văn Tường viết hai bài này như hai phản đề mở đầu, để hai bài 41, 43 làm kết đề. Bởi là phản đề, nên tác giả viết chữ nhỏ, trình bày khác đi, như kiểu tự đề từ (dạng phản đề) hiện nay. Nếu quả thực như vậy, thì bài 40, bài 42 không thể đứng riêng rẽ, phản ánh quan niệm sống của Nguyễn Văn Tường. Quan niệm sống của ông là ở hai bài 41, 43. Phản – kết đề (căn cứ vào nội dung) là kết cấu tự đối thoại.

            b) Không dám nghĩ hai bài 40, 42 là của tú tài họ Đặng. Cả hai bài tạm gọi là đề từ kiểu phản đề này hơi tự thị, tự đắc... cho dù là thơ khẩu khí.

            c) Yoshiharu Tsuboi, trong cuốn sách của ông, NĐNĐDVP. & TH., đã phân tích sâu sắc về tư cách, uy tín và đặc biệt là chí nguyện, tư tưởng của giới nhân sĩ mà “trung tâm của giới nhân sĩ là nhóm tú tài, một vị trí không rõ rệt giữa quan và dân [...] họ hoàn toàn thuộc giới giỏi của tỉnh” (sđd., tr. 227). Y. Tsuboi đã trích dẫn E. Louvet (Louis - Eugène), “Cuộc đời của giám mục Puginier”, Hà Nội, 1894, tr. 387 với câu nói của Puginier: “Về các nhân sĩ, tôi không sợ mà khẳng định rằng họ sẽ luôn là kẻ thù của nước Pháp, với tính cách tập thể cũng như cá nhân. Phe chiến đấu cực đoan biết rõ họ và hiện nay (1886 – nbs.) còn dùng họ làm tay sai” (NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 228).

              Đấy là sự nhìn nhận đúng, ít ra là ở khía cạnh này, của Puginier, và được y phát biểu theo giọng lưỡi của một tên trùm gián điệp thực dân đội lốt giám mục Thiên Chúa giáo.

            Người chú thích tập thơ Nguyễn Văn Tường chợt liên tưởng đến tú tài Đặng Như Mai (học trò của tú tài Trần Tấn) ở Nghệ An, lãnh tụ phong trào Văn thân ở đấy. Xin xem chú thích (4), bản dịch nghĩa bài thơ số 47; xem thêm NĐNĐDVPVTH., sđd., tr. 239 - 245, 283 - 287; ĐNTL.CB., tập 31, sđd., tr. 213; đặc biệt là ở tập 33, tr. 10 - 11: lệnh của vua Tự Đức về việc trấn áp phong trào Văn thân Nghệ – Tĩnh.

            Tất nhiên, chỉ là liên tưởng! Chúng tôi chưa xác minh được Bình Lâm (hay Bằng Lâm) là nơi nào. Nếu là Bằng Lâm ở huyện Kim Anh, Bắc Ninh, thì biết đâu Đặng Như Mai đã có lần trốn tránh sự truy bắt của Triều đình, chạy ra ẩn thân ở đấy? Và chữ “trượng”, ở bài số 44, là để chỉ Trần Tấn? Hoặc giả, ông tú tài họ Đặng ở Bình Lâm này cũng là một dạng với tâm nguyện, tư tưởng như của nghĩa tướng Văn thân Đặng Như Mai?

 

Chùm thơ hai bài 42. 43

 

TÙNG THỤ

 

43: BÀI B

 

                        Tài bồi tự cụ lăng tiêu tháo

                        Ấm tí năng dung thụy thế cầm

                        Lương đống vị ngôn tha nhật dụng

                        Độc cao vũ lộ thụ ân thâm.

                                                 

VŨ ĐỨC SAO BIỂN

                                                            phiên âm

                                                       (và dịch thơ ở bài giới thiệu).

 

42. 43

 

“CÂY TÙNG”

 

43: BÀI B

 

Hoàn toàn tự mình vun đắp [cái] tiết tháo [trên] gò đất                      

             lớn [và ngang] mây xanh (1)

Bóng râm che tỏa [, lại] thường bao bọc chim muông                        

                      nương nhờ, tựa ngủ

[Nếu là] rường cột, chưa [dám] nói [trước là sẽ] sử dụng              

               [vào] ngày [tháng] khác

Một mình [đứng] cao [chót vót giữa] mưa móc [rơi đều               

                 cho thiên hạ], nhận ân sâu.

 

            (1) “Lăng tiêu tháo” có cụm từ tương tự: “lăng vân chí” với nghĩa: chí vượt cao lên khỏi dung tục, phàm phu [TĐHV., sđd., tập thượng, tr. 490, và tập hạ, tr. 357].

 

42. 43

 

“CÂY TÙNG”

 

43: BÀI B

                                                    

                 Họa thơ tú tài họ Đặng ở Bình Lâm

 

                         Tiết tháo ngang trời, tự đắp, vươn

                        Bóng cây che chở, giấc chim nương

                        Ngày nào chưa nói, nên rường cột

                        Mưa móc ơn sâu, vút một phương!

                                                           

(bản biên soạn)

 

Bài 44

 

KÍ PHỎNG ĐẶNG TÚ TÀI

 

                        Kỉ kinh sương tuyết phí mang bôn

                        Mỗi ức tiên giao cứu trượng hồn

                        Hoàng Thạch phi vô phương lược tại

                        Truyền thư khước hận tải không ngôn!

                                                           

NGUYỄN TÔN NHAN

                                                          phiên âm và dịch nghĩa

 

44

 

GỬI THĂM TÚ TÀI [HOï] ĐẶNG (1)

 

Bao nhiêu [độ] nếm trải sương tuyết, [đành] lãng phí                        

                        sự chạy vạy bận rộn!

Mỗi [lần] nhớ [sự] gắn bó (keo sơn) trước đây, [cố gắng]

     cứu giúp [cho] cái ẩn chứa bên trong (: năng lực              

                tinh thần) [của] ông

[Người như] Hoàng Thạch (2) không phải không có;                           

                      phương lược [vẫn] còn [đó]

Gửi thư [lại] bèn giận [là chỉ] chuyển tải [những] lời                 

                      rỗng không!

 

            (1) Xin xem các chú thích ở hai đôi bài, 40 - 41 và 42 - 43, đặc biệt là bị chú bổ sung cho chú thích (1).

            (2) Hoàng Thạch công, người truyền thụ binh thư, phương lược cho Trương Lương để Trương Lương giúp Lưu Bang (Hán Cao Tổ), thời “Hán – Sở tranh hùng” ở bên Trung Hoa.

            “Theo truyền thuyết, Trương Lương gặp một ông già ngồi trên cầu Dĩ; ông già mấy lần đánh rơi giày xuống nước, Lương đều xuống nhặt, kính cẩn đưa lên trả. Ông già bèn cho một cuốn binh thư và bảo: “Mười ba năm sau thấy hòn đá vàng ở chân núi Cốc Thành, đó chính là ta”. Vì vậy, người đời gọi là Hoàng Thạch công” (chú thích, Thơ Đường, tập 1, Nxb. Văn Học, 1987, tr. 84).

 

44

 

GỬI THĂM TÚ TÀI HỌ ĐẶNG

 

Trải bao sương tuyết, phí in lòng

Thường nhớ, keo sơn, cứu chí ông

Hoàng Thạch đâu chăng, phương lược đó

Gửi thư bèn hận, chuyển lời không!

                                                           

TRẦN XUÂN AN

                                                            chuyển lại thơ

 

 

 

 

 

Bài 45

 

TẶNG BẮC PHIÊN PHẠM GIÁ (GIẢ) (1)

HỒI BỆNH

 

                        Nguyệt tà thiên dục hiểu

                        Gia Viễn khách sơ quy

                        Chính hỉ kim tao yết (2)

                        Ưng thương tích biệt li

                        Tử phi vinh hoạ cẩm

                        Ngã vị giải nhung y

                        Tương đối nan tương tống

                        Du du hữu sở ti (tư).

                                               

NGUYỄN TÔN NHAN

                                                          phiên âm và dịch nghĩa

 

            (1) TĐHV., sđd., tập thượng, tr. 56, 193 phiên âm là “dả” (“bệnh dả”). HVTĐ. của Thiều Chửu, sđd., tr. 30: “giá”.

            (2) Chúng? Chữ “chúng” đúng hơn.

 

45

 

TẶNG BỐ CHÁNH [TỈNH] BẮC [HỌ]

PHẠM (1), BUỒN LO [SAU KHI ĐI THĂM

THÂN NHÂN] TRỞ VỀ, NGHỈ NGƠI  

 

Trăng nghiêng, trời muốn sáng

Gia Viễn (2), người mới về (hoặc: Nhà xa, người mới về)

Đáng vui [buổi] tất cả [nhiều người] (bất ngờ) gặp lại                        

                        hôm nay

Nên thương [lần] chia biệt (riêng) trước

Ông không vẻ vang [bởi] gấm vóc [thêu] hoa văn

Tôi chưa cởi [được] áo chiến trận

Đối mặt nhau khó cùng tặng biếu (hoặc: đưa tiễn) nhau:

[Cái] dằng dặc [thời gian, không gian từng] hiện hữu                   

                 [niềm] lo nghĩ [của] chúng ta! (3)

 

            (1) Phạm Thận Duật. Xin xem các chú thích của bài số 15, “Tặng bố chánh Bắc Ninh Phạm [Thận Duật]…”.

            (2) Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình (ĐNNTC., tập 3, sđd., tr. 241).

            (3) Không thể tặng nhau cái xa xăm, mênh mông, sâu thẳm từng chứa đựng nỗi lo nghĩ! Một tứ thơ quá mới mẻ, sâu sắc của nhà thơ Nguyễn Văn Tường, được viết cách đây gần một trăm ba mươi năm!

 

45

 

TẶNG BỐ CHÁNH TỈNH BẮC NINH

PHẠM THẬN DUẬT BUỒN LO TRỞ

VỀ, NGHỈ NGƠI

 

                        Trăng nghiêng, trời muốn sáng

                        Gia Viễn, người vừa về

                        Đáng chúc nay vui tất (1)

                        Nên thương dạo biệt li

                        Ông không vinh gấm vẽ (2)

                        Mình chửa cởi chinh y

                        Nhìn mặt khó cùng tặng:

                        Nỗi dằng dặc nghĩ suy.

                                                 

TRẦN XUÂN AN

                                                             chuyển lại thơ

             (1) & (2) Để tiểu đối bằng từ Hán – Việt với “biệt li”, “chinh y”: “Đáng chúc nay tao ngộ” “Bạn không vinh lễ phục”.

 

Bài 46

 

THỨ SƠN ĐỐC TRẦN ĐỊNH CHI

NGUYÊN ĐÁN THÍ BÚT

 

                        Ngũ niên do tác khách

                        Tam nguyệt hựu cánh xuân

                        Đáo gia duy hữu mộng

                        Tải tửu khởi vô nhân

                        Quá xứ giang sơn cựu

                        Phùng thời thảo thụ tân

                        Biên phân (phần) hi tảo tĩnh

                        Cung mã phục nhung thần.

                                               

NGUYỄN TÔN NHAN

                                                        phiên âm và dịch nghĩa

 

46

 

LÀM TIẾP HỘ ĐỐC SƠN TÂY (1) [HỌ]

TRẦN (2) CÂU THƠ ĐÃ LÀM SẴN, BÀI “THỬ BÚT [VÀO DỊP] NGUYÊN ĐÁN”

 

Năm thứ năm, còn làm khách

[Nhưng dẫu đến] tháng ba [thì tháng ba] lại càng xuân

Đến [với] ông (3), tưởng [còn] hiện hữu giấc mộng

Chở rượu, chẳng lẽ không người [sao]?

Đi qua nơi xứ [mà] núi sông [đều quen thuộc như] cũ

Gặp giờ giấc (: thời gian) cỏ cây tươi tắn

Biên cương khí độc, mong sớm [được] yên tĩnh

Cung [tên], ngựa [chiến] lại trở về [với] quan võ (4).

 

            (1) Sơn Tây với địa giới hành chính thời Tự Đức (xem ĐNNTC., tập 4, sđd., tr. 183 - 264).

     (2) Trần Công Bình, sau đổi thành Trần Bình, người Thân Nộn [Tiên Nộn?], Thừa Thiên, đỗ cử nhân khóa 1840 (QTHKL., sđd., tr. 198). Lưu ý: Hai câu thơ đầu theo luật bằng (chữ thứ hai câu thứ nhất: “niên” [thanh bằng]) nhưng sáu câu tiếp lại là luật trắc. Do đó, hẳn hai câu đầu bài là của Trần Bình?

            (3) Dịch từ chữ “gia” (người có học vấn, chuyên môn cao); lẽ ra tạm dùng chữ “kẻ sĩ”. Chữ “ông” chẳng nói lên ý ấy.

            (4) Thời chiến tranh, các quan văn cũng phải làm tướng, tá, cầm quân tiễu phỉ, đánh giặc. “Cung” (cung tên) [“cung mã” (cung tên và vó ngựa)] chỉ là ước lệ. Thời này, trong chiến tranh, vũ khí là súng đạn (ngoài gươm đao vẫn còn sử dụng).

 

46

 

Ở NHÀ TRỌ,

HỘ ĐỐC SƠN TÂY HỌ TRẦN LƯU LẠI,

NÊN THỬ BÚT VÀO SÁNG ĐẦU NĂM

 

                        Năm Tết còn làm khách

                        Tháng ba, càng thắm đời!

                        Đến nhà, đang ngỡ mộng

                        Chở rượu há không người?

                        Qua chốn non sông cũ

                        Gặp giờ cây cỏ tươi

                        Sốt biên mong sớm tĩnh

                        Cung trả võ quan thôi!

                                                           

TRẦN XUÂN AN

                                                            chuyển lại thơ

 

Bài 47

 

HỌA CHÍNH SỨ LÊ TỰ ĐÔNG GIA

KHỞI HÀNH TỰU THUẬN TẤN HỎA

THUYỀN NGUYÊN VẬN

 

                        Kỉ niên sóc tái kiên nhung kì

                        Thử nhật Tây phù tá hỏa trì

                        Hoàng tuất tiền đồ kha khảm lịch

                        Chi thương vãng sự hải tang di

                        Lỗ tình tự thị đa tư sính

                        Triều sĩ hà thường thiểu kiến nguy

                        Độc quý phi tài thao trọng tuyển

                        Sinh bình đồ tụng bách thiên thi.

                                                           

NGUYỄN TÔN NHAN

                                                          phiên âm và dịch nghĩa

 

47

 

HỌA THƠ CHÁNH SỨ LÊ (1): “TỪ ĐÔNG GIA (2) BẮT ĐẦU ĐI ĐẾN THUYỀN HƠI NƯỚC

[Ở] CỬA THUẬN (3)”, NGUYÊN VẦN

 

Bao năm, đầu biên ải, vững ngọn cờ quân đội

Ngày nay, đi sứ [qua] Tây (Pháp...) (4), (vượt sông biển)  

               (5), [ngồi ở] xe lửa giúp cho [chánh sứ]

Rảnh rỗi [mà bận lòng] lo nghĩ (cho dân nghèo) [về]  

            con đường phía trước, [sẽ phải] trải qua gập        

                                        ghềnh (sóng gió)

Kính cẩn ưu tư [về] việc cũ (đã qua) [của vua,

         của nước], [đành gặp] biến dời [như] biển dâu (6)

Lòng dạ bọn tôi mọi (: giặc Pháp) (7) [cứ] tự cho là 

             phải, [cứ] hoài tưởng nghĩ trò múa men khoái ý

Đại thần ở Triều đình sao từng trải biết, [vẫn] ít                

                 [người] thấy ra nguy cơ [cho nước nhà]?

Riêng một mình thẹn thùng [là] không tài năng, lạm    

          ơn (8) [được] quý trọng, tuyển chọn [làm phó sứ]

Bình thường vốn dĩ sống [như] người học trò (tay     

            trắng), đọc to (ngâm nga sang sảng) trăm thiên             

                   (bài) thơ ca [mà thôi]!

 

            (1) Lê Tuấn (Toán), (ĐNTL.CB., sđd., tập 32, tr. 293, 304, 333...), (ĐNLT., sđd., tập 4, tr. 323 - 328).

            (2) Nay quen gọi là Đông Ba (ở Huế).

            (3) Cửa Thuận An, Thừa Thiên – Huế. Cửa biển này còn có tên là cửa Nhuyễn hải (VNSL., bản 1999, sđd., tr. 429).

            (4) Việc chiến đấu tiễu phỉ chưa ngớt ở biên giới phía Bắc (bởi vì Jean Dupuis, Puginier tăng cường mua chuộc, quấy phá), Nguyễn Văn Tường được điều về kinh để nhận nhiệm vụ đi sứ sang Pháp, Anh, Tây Ban Nha, nhưng trước hết phải cùng chánh sứ Lê Tuấn đến Gia Định (Nam Kì) thương nghị với phủ súy Pháp Dupré. Nguyễn Văn Tường lúc này là phó sứ của sứ bộ. Tự Đức hiểu ông có tài năng lớn, nhưng bởi một số “sự cố”, như vụ khởi nghĩa “Chày Vôi” ở Huế lúc ông làm phủ doãn, vụ ông lại đề xuất việc tổ chức, xây dựng kế hoạch kháng chiến cùng Thân Văn Nhiếp, Nguyễn Quýnh, với tinh thần tự nguyện về lại Cam Lộ, Quảng Trị, từ chức phủ doãn Thừa Thiên, do đó, ông không được Tự Đức tin dùng, không được phe chủ “hòa” đang thắng thế ủng hộ. Tuy vậy, Nguyễn Văn Tường quá xuất sắc, nổi bật, nên Triều đình không thể không chọn ông. Ngay cả Trần Tiễn Thành cũng buộc lòng phải đề cử Nguyễn Văn Tường! Có điều, ông chỉ mới được cho mượn... hàm tham tri Bộ Binh để sung làm phó sứ! Và rồi, vì tình thế biến đổi, do cuộc đấu tranh ở bàn thương nghị căng thẳng kéo dài, Pháp không bớt ngoan cố, lại đánh chiếm Bắc Kì (âm mưu khởi từ lúc Jean Dupuis tới Vân Nam, Trung Quốc, lúc y tìm cách ngược sông Hồng...), nên dẫn đến việc Nguyễn Văn Tường, theo lệnh của Tự Đức, phải kí hai thỏa ước với Philastre, 1873, để Pháp trả lại bốn thành ở Bắc Kì, đồng thời chúng rút quân khỏi ngoài ấy; sau đó là hiệp ước 1874, thương ước 1875; và cả việc đi Pháp, Anh, Tây Ban Nha... cũng bãi bỏ. Kí điều ước 1874, thương ước 1875, nước ta chịu một số nhượng bộ đau lòng (trong đó, có việc chính thức hóa việc Pháp cướp ba tỉnh Miền Tây Nam Kì, từ sự “dâng đất” của Phan Thanh Giản, 1867, việc mà, 1868, Nguyễn Văn Tường phản đối quyết liệt, khi Pháp đòi chính thức hóa sự cướp đất đó). Mặc dù vậy, đất nước có được một thời kì ngắn hòa bình để chấn chỉnh, củng cố, nâng cao nội lực, trong tinh thần chuẩn bị lại đương đầu với giặc Pháp. Tuy nhiên, việc đau lòng nhất là Nguyễn Văn Tường, Lê Bá Thận, Tôn Thất Thuyết, cả Nguyễn Khuyến (nhà thơ, tam nguyên Yên Đổ)... phải cắn răng, ngậm miệng chấp nhận “sách lược thỏa hiệp tạm thời” với giặc Pháp để trấn áp phong trào Văn thân Nghệ Tĩnh do Trần Tấn, Đặng Như Mai lãnh đạo. Đó là một phong trào vừa “sát tả đạo” vừa chống Pháp, đúng với ước nguyện của những người phải đánh dẹp, đúng với tôn chỉ trước đây của Triều đình Huế! Ngay cả lúc phải trấn áp phong trào Văn thân, Triều đình Huế cùng những người như Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết nói trên, cũng vẫn đồng tình với lời Hịch Văn thân! Oái oăm là ở đó, bi kịch lịch sử là ở đó! Bởi Triều đình Huế ngỡ rằng, cần trấn áp, phủ dụ (vỗ yên) tất cả các lực lượng yêu nước không chấp nhận “sách lược thỏa hiệp tạm thời” để Triều đình khỏi bị phân tán tâm lực, nhằm để dành tâm lực đối phó với giặc Pháp, tranh thủ thời gian đặng củng cố, tăng cường binh lực, khả năng phòng thủ, tiến đến giành lại lục tỉnh bằng vũ trang.

            V.I. Lê-nin (Lénine) cũng từng nói: “Thỏa hiệp với kẻ thù mà có lợi cho Cách mạng, chúng ta vẫn sẵn sàng thỏa hiệp”, và Lê-nin cũng từng phải kí hòa ước Brest-Litovsk (13. 5. 1918) với phát-xít Đức để đối phó với 14 nước tư sản, lực lượng đang trực tiếp đe dọa và tấn công Nhà nước Xô-viết non trẻ (mới thành lập được khoảng 6 tháng!), [xem Lịch sử thế giới, Ban THTƯ. VHH., sđd., tr. 80 - 82, 94].

            Trong thực tế lịch sử, Nguyễn Văn Tường đi trên tàu binh của Pháp (theo hiệp ước 1874) để vỗ yên, bắn súng thị uy, dọa bóng dọa gió cuộc khởi nghĩa Văn thân. Lực lượng Văn thân nghe súng bắn dọa đã bỏ chạy tán loạn (ĐNTL.CB., tập 33, sđd., tr. 77 - 80).

            Ở cánh quân phía bắc Nghệ An, Thanh Hóa, Tôn Thất Thuyết cũng thế (xin xem: ĐNTL.CB., tập 33, tr. 68 - 70, 80; Trần Văn Giàu, Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử, Nxb. TP. HCM., 1993, tr. 451 - 452, 455 - 456).

            Oái oăm nữa là Nguyễn Văn Tường phải đem số tiền của Triều đình là 2000 quan để ủy lạo (!) cho giáo dân và các cha cố ở Nghệ Tĩnh – tất nhiên “tả đạo” này cũng thuộc lực lượng “tả đạo” Hải Dương mới tổ chức bắt cóc Nguyễn Văn Tường để phá hỏng việc tại Hà Nội, nhưng Nguyễn Văn Tường đã đối phó được (ĐNTL.CB., sđd., tập 32, tr. 355 - 356).

            Đó là thành công lẫn bi kịch của Nguyễn Văn Tường, 1873 - 1875! [ĐNTL.CB., sđd., tập 32, tr. 11, 225, 293, 304, 342; tập 33, tr. 8 - 12, 58, 88, 103, 112, 126 - 127...; xem NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 239 - 245, 283 - 287].

            (5) Chữ “phù” trong nguyên tác chữ Hán là “nổi trên nước”, là “quá độ” (giao tiếp, thương nghị giữa Phương Đông với Phương Tây, giữa Việt Nam với Pháp...), tức là đi sứ.

            (6) Biển dâu: “thương hải biến vi tang điền” (biển xanh biến đổi, thành ruộng dâu), chỉ sự biến đổi của tự nhiên, xã hội...

            (7) Chữ “lỗ”, nguyên nghĩa là “tôi mọi”. Ở bài thơ “Thần” của Lí Thường Kiệt, có câu: “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm”... Nguyễn Văn Tường trực chỉ bọn tay chân người Pháp của chính phủ Pháp, của Pháp hoàng... Đó là bọn “tôi mọi” xâm lược. Xem chú thích (4), (5) bản dịch nghĩa bài số 3, về chữ “man”, “hồ”... và thái độ, tình cảm tốt đẹp của ông đối với đồng bào nhân tộc thiểu số, trong hạn chế của ước lệ ngữ ngôn thời phong kiến. Giặc xâm lược, cho dù Tàu hay Tây, đều là “lỗ”.

            (8) Sắc thái biểu cảm như “chi”, “khể”... Xin lạm bàn chữ “khấu” với nghĩa “cúi đầu sát đất” (“khấu đầu”; ví dụ: “khấu đầu bái tạ quân ân”). Sống dưới chế độ quân chủ phong kiến, kẻ bề tôi thường khởi đầu câu nói trước mặt vua, hoặc khi nói về việc có liên quan đến nhà vua, nhất là lúc nhận chức, nhận sắc dụ, bằng chữ “chi” (kính cẩn), “thao” (lạm ơn), “khể”, “khấu” (cúi đầu sát đất)... Tất nhiên thời dân chủ vẫn phải bày tỏ sự tương kính (kính trọng lẫn nhau), theo phép lịch sự, trong trật tự tôn ti, bình đẳng về nhân cách, nhân phận, nhân vị, cho dẫu là giữa người đứng đầu Nhà nước với kẻ nghèo mạt nhất trong xã hội. Hiện nay ở Phương Tây cũng không còn “sấp mình trước mặt chúa [thượng]” nữa. “Sấp mình”, nghĩa quỳ gối và dán trán xuống mặt đất! Tất cả mọi cái, mọi sự đều có tính lịch sử – cụ thể.

 

47

 

“TỪ ĐÔNG GIA BẮT ĐẦU ĐI ĐẾN

THUYỀN HƠI NƯỚC Ở CỬA THUẬN”

 

Họa thơ chánh sứ Lê Tuấn (Lê Toán)

 

Bao năm đầu ải, vững cờ soi

Nay vượt biển Tây, xe sứ ngồi

Xa liệu, cứu dân, đường sóng gió

Kính thương, biến nỗi, việc thung đồi (1)

Giặc khoe, cứ mãi khua hanh thế

Quan ngó, sao thưa thấy hiểm thời?

Cúi thẹn không tài, vua quý chọn

Sống thường (2) tay trắng, đọc thơ thôi!

                                                           

TRẦN XUÂN AN

                                                            chuyển lại thơ

 

            (1) Tạm thay hai chữ “biển dâu” thành “vũng đồi”. Hai chữ “vũng đồi” ấy, của Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong câu: “Thế gian biến cải vũng nên đồi”. Hai câu thực cũng có thể thoát khỏi cách ngắt nhịp, cách gieo thanh thông thường phải theo đúng niêm luật Đường thi cổ điển (3 / 4) vốn rất đơn điệu, để có nhạc điệu khác (2 / 3 / 2):

“Xa liệu, đường cứu nghèo, sóng gió

Kính thương, việc thay cũ, thung đồi”;

            Ít ra cũng chỉ thay đổi nhịp điệu:

“Xa liệu, nỗi đường dài, sóng gió

Kính thương, thời giặc loạn, thung đồi”.

            (2) Có thể dùng hai chữ “bình sinh” trong tiếng Việt (vốn quen dùng): “Bình sinh tay trắng, đọc thơ thôi”.

 

Bài 48

 

HỌA CHÍNH SỨ LÊ: “ĐĂNG YẾT

THIÊN Y THÁP TẠI BÌNH THUẬN

TỈNH, CÙ HUÂN TẤN”, NGUYÊN VẬN

 

                        Quần phong tranh hạ nhất loan hoành

                        Địa mạn sơn cao thủy diệc thanh

                        Thác tục đương niên truyền Liễu Hạnh

                        Siêu tình hà xứ tiếp kì sinh?

                        Thê nham linh tích tồn chiêm vọng

                        Phù hải kì duyên tá phẩm bình

                        Nam thổ thiên thu hoàn cố quốc

                        Quy cương ưng tướng thử Tây hành.

                                                           

NGUYỄN TÔN NHAN

                                                          phiên âm và dịch nghĩa

 

48

 

HỌA THƠ CHÁNH SỨ [HỌ] LÊ (1): “LÊN THÁP

THIÊN Y (2) TẠI CỬA HẢI PHÒNG CÙ HUÂN (3), TỈNH BÌNH THUẬN (3)”, NGUYÊN VẦN

 

Cụm núi tranh nhau hạ thấp xuống, một vũng biển (4)               

                   (chảy vòng vào đất liền) nằm ngang

Đất xuôi tràn, núi cao, nước cũng xanh theo

Mượn thế tục, năm xưa (5), [thần thiêng] truyền [đạo]        

                           Liễu Hạnh (6)

Vượt khỏi thực tại, ở nơi nào, [Bà] tiếp nối kiếp sống            

                        có hạn định [ở trần gian của Bà]?

Hang núi lạnh lẽo u tịch, dấu tích linh thiêng, [người                  

                    ta] vẫn còn ngẩng mặt trông nhìn

Biển cồn mối duyên lạ lùng, [ai] mượn [tiếng] khen chê

                                                              bàn luận!

Đất Nam [Bộ] (7) [phải] nghìn thu trả về cho nước cũ                      

                                                                [Việt Nam]

Lấy về, gồm lại các vùng biên cương theo trạng mạo,          

            ([Bà Thiên Y] nên giúp cho (8)), [trong chuyến]                

                     đi Tây (9) này.

 

            (1), (9) Xem chú thích (1), (4) về Lê Tuấn (Lê Toán) và mục đích chuyến sang Pháp, Tây Ban Nha, Anh... của sứ bộ: chuộc lại các tỉnh Nam Bộ bị Pháp xâm chiếm, Phan Thanh Giản “dâng đất”, ở bài 47, bản dịch nghĩa.

            (2) Xem ĐNNTC., Nxb. Thuận Hóa, 1992, tập 3, tr. 106 - 108, về cổ tích Tháp cổ Thiên Y (Thiên Y tiên nữ, Thiên Y A Na Diễn Phi, Thiên Y A Na Diễn Bà, Chúa Ngọc Thánh Bà, Hồng Nhân Phổ Tế linh ứng thượng đẳng thần, là các tên gọi, danh hiệu khác nhau của Bà).

            (3), (4) Tấn (cửa hải phòng). Tấn cửa lớn Cù Huân, tấn cửa bé Cù Huân (xem ĐNNTC., sđd., tập 3, tr. 110). Không hiểu vì sao tác giả Nguyễn Văn Tường lại viết rõ tất cả các thắng tích, địa danh trên lại thuộc tỉnh Bình Thuận, trong khi ĐNNTC., sđd., lại xác định rõ là, thuộc tỉnh Khánh Hòa? Có thể Nguyễn Văn Tường sơ suất; có thể có một sự thay đổi địa giới hành chính nào đó trong một quãng thời gian nhất định (?!).

            Vả lại, xin lưu ý, có thể có sự nhầm lẫn địa danh Cù Huân, còn “tỉnh Bình Thuận” vẫn đúng, bởi theo ĐNNTC., tập 3, sđd., tr. 138 thì ở Bình Thuận cũng có đền thờ Thiên Y, tại Đảo Bà (đền thờ ngoài đảo). Rất tiếc là ĐNNTC. không chỉ rõ ở đảo này có tháp hay không, mà chỉ nói là có tượng thờ bằng đá.

            Xin nêu thêm để rộng đường tra cứu, xác minh. Kính mong được chỉ bảo giúp.

            (5) Đương niên: năm gánh vác công việc; năm xưa.

            (6) Liễu Hạnh là một trong “tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam (Liễu Hạnh, Tiên Dung - Chử Đồng Tử, Thánh Gióng, Tản Viên sơn thánh). Không phải một anh hùng dân tộc, nhân vật lịch sử được thần thánh hóa, như Đức Thánh Trần (thánh Cha), Liễu Hạnh là một nhân vật hoàn toàn xuất phát từ tư duy tín ngưỡng. Hẳn Liễu Hạnh cùng Thiên Y A Na, Bà Chúa Xứ đều khởi nguyên từ một nguồn cội Đông Nam Á, tín ngưỡng thờ hình tượng Người Mẹ. Do đó, “ở Trung Bộ, bà được đồng nhất với Thiên Y A Na” (xem Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. VHTT., 1998, tr. 365 - 387; Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb. TP. HCM., 1992, tr. 283 - 309, đặc biệt là các trang: 298, 306 - 309).

            (7) Lục tỉnh: Gia Định, Biên Hòa, Định Tường; An Giang Vĩnh Long, Hà Tiên (địa danh và địa giới thời Tự Đức, nay đã xê dịch, thay đổi...). Xem chú thích (1), (9), bài này.

            (8) Đây là biểu hiện của tâm thức linh hồn giáo lâu đời của văn hóa Việt Nam, ở Nguyễn Văn Tường, trong hạn chế ý hệ của thời đại ông. Về “linh hồn giáo”, xin xem Phan Ngọc, BSVHVN., sđd., tr. 343, 350, 365... Theo người chú thích mạo muội này, lao động sáng tạo ra con người, và con người ở một trình độ tiến hóa nào đó, cũng bằng lao động, sẽ tạo ra cho bản thân cái gọi là linh hồn có tính vật chất (sóng sinh điện chẳng hạn), còn sự tương ứng (“linh ứng”!?) giữa kẻ sống và hồn người chết chỉ là ngẫu nhiên, phần lớn là vớ vẩn.

            Riêng về hai câu kết, kết lại tứ thơ mà tác giả biểu đạt trong toàn bài:

                        “Nam thổ thiên thu hoàn cố quốc

                        Quy cương ứng tướng thử Tây hành”

có bốn chữ cần lưu ý: “hoàn” (trả lại), “quy” (thu lại, lấy về, gom nhóm lại), “ưng” [hoặc: “ứng” cũng cùng mặt chữ Hán], “tướng” [xem nghĩa ở đoạn dưới]. Trần Đại Vinh (KVQC. NVT. TT., sđd., tr. 11) đã dịch:

                        “Lục tỉnh / nghìn năm về nước cũ

                        Cõi bờ thu lại / chuyến Tây hành”

            Rất đáng tiếc, vì để làm nổi rõ “cõi bờ thu lại” (“quy cương”), ông đành cho hai chữ “ứng tướng” bị lược bỏ. “Ứng tướng” có ba nghĩa thống nhất trong chỉnh thể tứ thơ là:

a.      quan tướng hai bên đối mặt ở bàn hội đàm;

b.      ứng theo trạng mạo bản đồ Việt Nam;

c.      nên giúp cho.

Trong đó, ý tưởng Việt Nam, từ Cà Mau đến ải Nam Quan, với một sự nhất thống cả về tâm linh (Thiên Y A Na cũng là Liễu Hạnh, cũng là Bà Đen, Bà Chúa Xứ), lại là một khía cạnh lớn của chỉnh thể tứ thơ ấy (chỉ là một khía cạnh lớn – tôi xin nhấn mạnh). Thiếu sót đó là đáng tiếc, cũng như ở một số bản dịch khác, rất khoa học (sát nghĩa, toát được thần, ý của nguyên tác), mặc dù cơ bản là rất tài hoa và trong sáng, giữ được hơi hướm cổ thi.

            Tuy nhiên, chủ đề của bài thơ vẫn là: cảm xúc, suy tưởng về thắng cảnh, về cõi tâm linh siêu hình (kể cả băn khoăn về sự siêu vượt thực tại trần gian của thần thánh), về sự thống nhất tâm linh tín ngưỡng, thống nhất cõi bờ đất nước về một mối. Do đó, hai chữ “ứng tướng” phải có thêm nghĩa thứ ba “ứng nghiệm, linh ứng giúp cho”, ngoài hai nghĩa cực kì quan trọng kia, như trên đã viết. Nhưng làm sao dịch hết các ẩn ý và hiển ý được, mặc dù vẫn cố gắng toát lên tất cả một cách rất “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời).

            “Kết” là vừa mở, vừa đóng, lại vừa đọng. Phải đọng nghĩa thứ ba (linh ứng giúp cho) mới đúng là “kết”, để có cơ sở mở ra hai nghĩa kia, dẫu biết rằng nghĩa thứ ba ấy, quả thực là hạn chế của ông, nhà thơ Nguyễn Văn Tường.

 

48

 

“LÊN THĂM THÁP THIÊN Y

TẠI CỬA HẢI PHÒNG CÙ HUÂN,

TỈNH BÌNH THUẬN” (1)

 

                                    Họa thơ chánh sứ Lê Tuấn (2)

 

Cụm đồi tranh xuống đầm ngang sâu

Biếc núi đất xuôi nước ánh màu

Mượn tục, xa thời (3) truyền Liễu trước

Vượt phàm, nào chốn nối đời sau?

Dấu linh hang lạnh trông vời đó (4)

Duyên lạ biển cồn khen trách đâu

Nghìn thuở đất Nam về nước Việt

Ứng giùm, thu cõi, chuyến đi Âu!

                                                           

TRẦN XUÂN AN

                                                            chuyển lại thơ

 

            (1) Chúng tôi vẫn giữ nguyên đầu đề bài thơ của Lê Tuấn trong ngoặc kép (xem thêm hai chú thích (3), (4) của bản dịch nghĩa bài này).

            (2) Lê Toán, theo phiên âm của QTCBTY., sđd.

(3) Dịch sát: Mượn tục, năm xưa truyền Liễu trước.

(4) Dịch sát: Dấu linh hang lạnh còn trông ngước.

 

 

Bài 49

 

THUYỀN CẬN CẦN GIỜ NGHỊCH

PHONG BẤT TIẾN

 

Phan Thiết kê minh nhất dạ đàm

Phi sơn bạc mộ bán vi lam

Hải quang tinh tán ba triều bắc

Oa phị (phí) yên phi hỏa chuyển nam

Lãnh thượng chiêu đăng tiêu tức cận

Thuyền đầu khuy kính lộ trình am

Thừa phong vạn lí hoàn dung dị

Chỉ xích trì hồi dã khởi cam.

                                                           

NGUYỄN TÔN NHAN

                                                          phiên âm và dịch nghĩa

 

49

 

THUYỀN ĐẾN GẦN CẦN GIỜ (1) [GẶP]

GIÓ NGƯỢC, KHÔNG ĐI TỚI [ĐƯỢC]

 

[Ở] Phan Thiết (2), gà gáy [suốt] một đêm (3) [ven] đầm              

                            [nước]

Núi Phi (4), [lúc] chiều nhạt [nắng], một nửa [núi] là                 

                     khí độc

Biển sáng, sao trời tản ra, sóng chầu về [phương] bắc

Nồi (5) sôi sục, khói bay, lửa chuyển vào [phía] nam (6)

Trên đỉnh núi, vẫy vẫy [trước] đèn (7), [thế là] tin tức                

                    [đã] gần tới

Đầu chiếc thuyền, liếc nhìn [vào] tấm gương [ở mặt   

          đồng hồ đo dặm, la bàn], nẻo đi [cũng] biết             

                           [được]

Theo (cỡi) gió, vạn dặm, trở về dễ dàng

[Chỉ một] thước ta, [một] tấc ta (: gang tấc), [đường đến

     Gia Định], [lại] chậm trễ, luần quần luẩn quẩn;      

                 vậy chẳng lẽ bùi tai (đành lòng) sao?!

 

            (1) Cần Giờ, nay thuộc địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

(2) Phan Thiết, Bình Thuận, ĐNNTC., tập 3, sđd., tr. 128, 130.

            (3) Có thành ngữ “kê minh khuyển phệ” (gà gáy chó sủa), chỉ cảnh làng thôn (TĐHV., tập hạ, tr. 417). Ở đây, tác giả có lẽ chỉ nói phóng đại để cường điệu cảm giác sốt ruột, khó ngủ, suốt một đêm (rồi còn suốt một ngày cho đến khi trời xế  chiều và suốt tối hôm sau), vì phải đợi lặng gió.

            Điển tích “kê minh” (một thiên trong Kinh Thi, nói về phong tục nước Tề, dân dậy sớm để làm việc [TĐTNTN., sđd., tr. 321]), có lẽ không phù hợp với ngữ cảnh này.

            (4) Núi Phi? ĐNNTC., tập 3, sđd., không ghi có ngọn núi nào là Phi hoặc Phi Sơn cả. Có lẽ đây là hòn núi nhỏ (xem sđd., tr. 134 - 139), không ghi, hoặc là núi Bà.

            (5) Nồi hơi nước của tàu thủy chạy bằng năng lượng này.

            (6) Ở vị trí Cần Giờ, Triều đình Huế thuộc về phương bắc. Chữ “nam” này cũng không viết hoa: hướng nam.

            (7) Có lẽ đó là một cách phát tín hiệu.

 

49

 

THUYỀN GẦN ĐẾN CẦN GIỜ,

GẶP GIÓ NGƯỢC,

KHÔNG ĐI TỚI ĐƯỢC

 

Phan Thiết, một đêm gà rộn đầm

Núi Phi chiều nhạt nửa sương thâm

Biển ngời sao tản, khơi chầu bắc

Nồi bỏng khói bay, lửa chuyển nam

Đèn vẫy đỉnh non: tin báo tới

Liếc gương đầu lái: dặm ngàn băng

Vạn trùng theo gió lui thường dễ

Gang tấc chậm, quành, không lẽ cam!

                                                           

TRẦN XUÂN AN

                                                            chuyển lại thơ

 

 

 

 

 

 

 

Xem tiếp:

http://tranxuanan.writer.2.googlepages.com/tho_nvt-vnvcnthvttuong_14.htm

 

Cũng có thể xem tại:

http://www.tranxuanan-writer-5.blogspot.com  

http://www.tranxuanan-writer-6.blogspot.com

Trở về trang

danh mục tác phẩm -- muc lục:

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/danhmtphamtxa_googlepcreator.htm

 

bài mới -- sách mới -- tin tức mới: 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/baimoi-sachmoi-2

______________________________________________________________________________________________________________

 

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/home

 

 

Google page creator /  host

 

GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE  

 

    lên đầu trang (top page)   

 01 & 02-5 HB7 (2007) = 15 & 16-3 Đinh hợi HB7