7 bis. Trần Xuân An - Luận về hư cấu và hình tượng nhân vật trong thơ tình

 

LUẬN VỀ HƯ CẤU VÀ HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRONG THƠ TÌNH

(Thêm đôi lời vào bài “CHÚT ƯỚC AO GIẢI PHÓNG

CHO NGƯỜI LÀM THƠ YÊU ĐƯƠNG”)

 

Trần Xuân An

 

Từ xưa đến nay, người đọc thường đồng nhất tuyệt đối con người trong đời thực của nhà thơ với cái tôi trữ tình trong thơ, đặc biệt là thơ về đề tài tình yêu đôi lứa. Ngay cả các nhà thẩm bình thơ ca lão luyện, tinh tế cũng trượt theo lối mòn của tư duy không đúng ấy, mặc dù họ nhận thức rất rõ lối mòn đó là không hẳn đúng, mà chỉ đúng phần nào, và nếu chỉ đúng phần nào thôi, là có nghĩa tỉ lệ phần sai quá lớn.

 

Thực chất, các nhà thơ làm thơ yêu đương (gọi theo danh từ quy ước là thơ tình) cũng huy động vốn sống về các mối tình chính bản thân họ trải nghiệm, có điều, họ luôn luôn tưởng tượng sáng tạo thêm, để mỗi bài thơ đều trở thành tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Quá trình huy động vốn sống trực tiếp, vốn sống đích thân ấy cũng có sự cộng hưởng của vốn sống gián tiếp từ vô vàn xuất xứ (bạn bè, người thân, sách vở, phim ảnh…) và sáng tạo của nhà thơ chân chính vẫn là hoàn toàn độc sáng, chứ không phải vay mượn, lặp lại của người khác, nguồn khác. Do đó, những bài thơ ấy thường là khác xa, vượt cao, có chiều sâu hơn sự thật trong đời sống thật, xét ở tình huống trữ tình, ở chủ thể trữ tình (cái tôi trữ tình) và cả ở đối tượng trữ tình (nàng thơ, nàng hương hay chàng thơ, chàng trượng phu – người tình của nam hay nữ thi sĩ)… Nói rõ hơn, đó là sự thật (hiện thực) đã được chưng cất, lắng lại, tinh lọc và nâng cao.

 

Dĩ nhiên, quá trình sáng tác một tác phẩm, như đã phân tích, là một quá trình hoạt động tinh thần, tương tự như bao hoạt động tinh thần khác, nhưng đặc biệt là sự tổng hòa lí trí – tình cảm, cảm xúc, lại tùy thuộc vào mức độ thành thạo, thuần thục nghề nghiệp (tay nghề): một phần diễn ra theo cơ chế tự động (hoạt động tự nhiên, đắc thủ của bộ não), một phần do nỗ lực của ý thức, có ý thức kiểm soát (lao tâm khổ tứ), trong tâm trí người sáng tác, một cách tiệm tiến, cũng có khi xuất thần (nói theo từ ngữ nhà Phật là “tiệm tu”, “đốn ngộ”).

 

Nếu nhà thơ tình chuyên nghiệp (nói theo cách nói hiện nay) vốn chỉ có một vài mối tình trong đời thực, nhưng lại viết hàng trăm, hàng ngàn bài thơ tình với nhiều tình huống thơ, nàng thơ (hay chàng thơ) khác nhau, và các tứ thơ đều không giống nhau, thì cũng không có gì là đáng ngạc nhiên, một khi công chúng thưởng ngoạn thấu hiểu được bản chất lao động sáng tạo thơ ca nói chung, và đặc biệt về lĩnh vực lao động sáng tạo thơ tình nói riêng.

 

Thơ trữ tình, trong đó có thơ yêu đương, cũng mang bản chất chung của văn học – nghệ thuật như ca khúc, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản sân khấu, phim truyện…

 

Nói vắn tắt, thơ yêu đương cũng là một trong những lĩnh vực thuộc loại hình nghệ thuật hư cấu (fiction) (1), mặc dù có thể có một tỉ lệ nào đó là xuất phát từ vốn sống thực của tác giả (chuyện tình có thật giữa tác giả nam [hay nữ] với cô gái [hay chàng trai] có thật nào đó).

 

Cũng cần phải thấu hiểu, cảm thông thêm rằng, dẫu thực chất của lao động sáng tạo là như vậy, nhưng cái tôi trữ tình và nàng thơ, nàng hương (chàng thơ, chàng trượng phu) trong thơ yêu đương cũng phản ánh con-người-bên-trong, kể cả những lúc tự trào, tự buông thả cảm xúc, của từng nhà thơ và đối tượng là con-người-như-mơ-ước hay ít ra là con-người-khả-dĩ-rung-cảm-được dưới ánh sáng thẩm mĩ riêng, với cá tính sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ. Tất nhiên, thơ tình có khi cũng chịu những hạn chế, những ảnh hưởng do từng hoàn cảnh lịch sử đề cao (những kiểu mẫu người trung tâm, có khi là thời thượng…).

 

Đối với người phê bình thơ, khi viết, có lẽ nên cho in nghiêng những đại từ chỉ chủ thể trữ tình và đối tượng trữ tình, như tôi – nàng, anh – em, ta – mình, để khỏi đồng nhất con người thật của nhà thơ, người yêu thật của nhà thơ với hình tượng trong thơ. Trong giảng dạy thơ, có lẽ nên nói rõ và đủ: hình tượng chàng trai (hình tượng anh, hình tượng xưng tôi…), hình tượng cô gái (hình tượng em, hình tượng xưng em...) (2).

 

Tất nhiên, nói chung, câu nói thuộc loại chân lí “bút pháp, ấy là người” (le style, c’est l’homme) vẫn không hề sai. Từ khi khái niệm “bút pháp” được thay bằng “phong cách” (cũng là “le style”), gồm cả mọi yếu tố thuộc về nội dung tư tưởng, chứ không chỉ là hình thức nghệ thuật, mệnh đề ấy lại càng tiến gần đến chỗ hoàn hảo.

 

Về phía người đọc, họ cũng không cần biết tác giả đã yêu ai để viết nên bài thơ này hay bài thơ kia. Vấn đề là bài thơ ấy có nói lên nỗi lòng yêu đương của họ hay không, có đúng như tình yêu đương của riêng họ không, có giúp cho trái tim yêu đương của họ thăng hoa (yêu sâu hơn, yêu đẹp hơn, yêu trong sáng hơn) hay không, có giúp họ khám phá ra thế giới tâm lí của những người yêu nhau ở mức độ tinh tế hơn hay không… Cũng như yêu hoa, ngắm hoa trên bàn viết, trong quán cà phê, nào ai cần biết hoa ấy được trồng ở đâu, bón tưới bằng gì. Dĩ nhiên, đó phải là hoa thật chứ không phải hoa giả! Và cũng nhờ đó, các nhà thơ tình cũng không mang mặc cảm lố bịch là đã phô bày tâm tình yêu đương riêng tư ra giữa đời.

 

Về khía cạnh này, Chế Lan Viên có viết bốn câu thơ:

 

“Tôi muốn biết cơn nắng cơn mưa

                                          năm Nguyễn viết Kiều

Và lúc ấy Nguyễn yêu ai mà khổ vậy

Văn học sử là tìm hiểu cả màu tóc hoa râm kia đấy

Cho lòng có cớ để thêm yêu”.

                                          (Đọc Kiều [II])

 

 

Tôi nghĩ rằng, việc tìm hiểu cặn kẽ, tỉ mỉ và chính xác như yêu cầu của Chế Lan Viên là hoàn toàn cần thiết, không những đối với nhà văn học sử mà cả với nhà tâm lí học sáng tạo văn chương. Tất nhiên họ phải tính đến độ khúc xạ ở chủ thể trữ tình, đối tượng trữ tình, sau khi qua lăng kính lí tưởng thẩm mĩ của nhả thơ; và nghiên cứu vô vàn khía cạnh khác nữa, rất cần thiết cho các ngành khoa học về văn chương, tâm lí học… Nhưng những việc phô bày về “tôi”, về “nàng” với những chi tiết thực (tên tuổi, nhân thân; nơi chốn họ gặp gỡ…) thật ra không cần thiết đối với công chúng độc giả, mà có thể khiến người đọc cảm thấy khó chịu, thậm chí phản cảm, chứ không riêng nhà thơ, người yêu của nhà thơ cảm thấy lố bịch. Thơ ca khi được viết và khi đi ra giữa đời là đã thành hình tượng văn chương.

 

Vì thế, chính Chế Lan Viên cũng viết:

 

“Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi

Còn một nửa cho mùa thu làm lấy

Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá

Nó không là anh nhưng nó là mùa”.

                                         (Sổ tay thơ [trích])

 

Nhà thơ chỉ viết những nét nào đó để khơi gợi cả đất trời mùa thu, và cái tôi của nhà thơ cũng chính là ngoại cảnh mùa thu vang vọng vào. Sát hợp hơn, Victor Hugo cũng đã từng nói, đại để: Tôi viết về tôi, nhưng đừng tưởng tôi (tác giả) không phải là anh (người đọc muôn thời). Thiên chức thi sĩ đối với xã hội là ở đó.

 

Tuy nhiên, nếu bài viết dừng lại ở đây, hẳn mọi người đều cảm thấy lương tâm của mỗi chúng ta đều không thể yên ổn. Quả vậy, không thể yên ổn lương tâm vì sự phiến diện trong việc lí giải vấn đề. Đối với các nhà thơ, cũng như tất cả các nhà cầm bút văn học - nghệ thuật nói chung, ai cũng đã từng trải qua cảm giác và ý thức bất khả của ngọn bút trên tay mình, trước trang giấy trắng, khi muốn phản ánh lại những con người, những mảng hiện thực vô cùng cao đẹp, cao đẹp một cách hồn nhiên, hồn nhiên vì phẩm chất cao đẹp đó đã tự nhiên nhi nhiên trong những con người ấy, đã kết tinh một cách tuyệt vời ở những mảng hiện thực ấy. Ở trường hợp này, rõ ràng tài năng của nhà thơ không đủ sức để phản ánh con người, hiện thực cao đẹp mặc dù tự thâm tâm khôn nguôi ngưỡng mộ. Trong lịch sử, trong cõi đời hằng ngày đã và đang diễn ra, đã từng có nhiều anh hùng, danh nhân, chiến sĩ, nhiều người cha, người mẹ, người chị, người em, nhiều người thầy, người bạn cao đẹp, thì dĩ nhiên cũng có nhiều nàng thơ, chàng thơ cao đẹp, mà những bài thơ tuyệt vời nhất viết về họ chỉ là những dòng chữ vụng về, nông cạn, không ghi nhận và thể hiện nổi. Nói rõ hơn, những bài thơ hay nhất, được mọi người đánh giá cao nhất vẫn không xứng đáng với những con người cao đẹp, những mảng hiện thực cao đẹp nào đó. Đối với người đọc cũng thế. Nói chung, công chúng độc giả không cần và không thích làm công việc của nhà văn học sử hay nhà tâm lí học sáng tạo văn chương, nhưng cũng có một vài người đọc yêu quý một nhà thơ nào đó với toàn bộ tác phẩm của nhà thơ ấy đến mức tự xây dựng bảo tàng để sưu tập, trưng bày tất cả những gì liên quan đến tác giả - tác phẩm mà họ ngưỡng mộ, bất chấp tâm lí chung của đại đa số công chúng độc giả đương thời cũng như muôn thuở vốn chỉ và chỉ yêu thích hình tượng văn chương, bất chấp tâm lí ngượng ngùng, khiêm tốn của nhà thơ. 

 

Nhưng dẫu sao, trọng tâm của bài viết này vẫn là vấn đề hư cấu trong việc sáng tác thơ ca và thơ ca khi được viết, khi đi ra giữa đời là đã thành hình tượng văn chương.

 

Trần Xuân An

TP.HCM., 07-04 HB11 (2011)

Bổ sung, 24-4 HB11

Bổ sung, 25-4 HB11

 

(1) Để tránh những ngộ nhận đáng tiếc, xin vui lòng lưu ý:

 

Hư cấu

Về thuật ngữ lí luận văn học này, xin vui lòng xem các sách hoặc từ điển chuyên ngành, chẳng hạn như: Từ điển văn học, Nxb. KHXH., 1983, tr. 331-332. Xin trích một đoạn từ “Từ điển văn học” (mục từ do Nguyễn Xuân Nam viết, sđd.): “Giá trị của hình tượng hư cấu tùy thuộc ở vốn hiểu biết, trình độ nhận thức cuộc sống, lí tưởng thẩm mĩ, và tài năng nghệ thuật của nhà văn. Những hình tượng do trí tưởng tượng tùy tiện, kết hợp những yếu tố ngẫu nhiên sáng tạo nên, không nói lên được quy luật của cuộc sống, thì không có giá trị nghệ thuật. Tùy theo thể loại văn học, tùy theo phương pháp sáng tác khác nhau, quá trình hư cấu diễn ra khác nhau và mang những sắc thái khác nhau”.

 

Dưới đây là trích nguyên văn từ “Từ điển bách khoa Việt Nam” (điểm mạng toàn cầu):

“HƯ CẤU: phương thức xây dựng hình tượng điển hình qua việc sáng tạo ra những giá trị mới, những yếu tố mới, như sự kiện, cảnh vật, nhân vật trong một tác phẩm theo sự tưởng tượng của nhà văn. Hư cấu là yếu tố không thể thiếu của sáng tác văn học nghệ thuật. Văn học nghệ thuật bắt nguồn từ cuộc sống nhưng không sao chép nguyên cuộc sống. Từ những tài liệu rút ra từ thực tại xã hội, nhà văn nhào nặn, cải tạo, tổ chức lại, sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật tập trung hơn, rõ nét hơn, sinh động hơn theo chủ đề mà nhà văn xác định cho tác phẩm…”.

 

(2) Xem: mục từ "nhân vật" (Phương Lựu viết), Từ điển văn học, tập 2, Nxb. KHXH., 1984, tr. 109-111; hai mục từ "hình tượng nghệ thuật", "nhân vật trữ tình" (Lại Nguyên Ân viết), Từ điển văn học, bộ mới, Nxb. Thế Giới, 2004, tr. 594-595, 1254: "Thông thường người ta cho rằng quan hệ giữa nhân thân xã hội của nhà thơ (một cá nhân có tiểu sử xác định) với nhân vật trữ tình của anh ta cũng giống như nguyên mẫu trong đời thực với điển hình nghệ thuật: các sự kiện mang tính kinh nghiệm được tái tạo và khái quát hóa về mặt thẩm mĩ, giống như việc sáng tạo ra tính cách văn học. Đó là cái "tôi" được sáng tạo ra. Đồng thời đi kèm với hình tượng tác giả như trên, một sự chân thực đặc biệt trong thổ lộ trữ tình, quan sát bản thân, và sự tự bạch phải chiếm ưu thế so với sự hư cấu; nghĩa là cảm giác trực tiếp của người đọc không lầm khi tin nhân vật trữ tình như một con người có thực" (trích sđd.). Dĩ nhiên cần phân biệt nội dung trữ tình của chủ thể trữ tình (thổ lộ trữ tình, quan sát bản thân, và sự tự bạch) với tình huống trữ tình, đối tượng trữ tình, trong thơ yêu đương. Về chủ thể trữ tình, cần có một cái nhìn tinh tế, biện chứng, không thể máy móc. Cho dù nhân vật trữ tình được gọi là “cái tôi được sáng tạo ra” trong từng bài thơ cụ thể hay nhân vật trữ tình xuyên suốt toàn bộ tác phẩm thơ ca của tác giả được gọi là “hình tượng nhà thơ – hình tượng tác giả” thì đều phản ánh con-người-bên-trong, con-người-bản-chất của nhà thơ với lí tưởng thẩm mĩ (bao hàm tất cả các khía cạnh tư tưởng, thái độ sống…) nhất định, vừa nhất quán vừa chuyển biến theo từng giai đoạn trưởng thành, lịch sử - cụ thể. Tình huống trữ tình, đối tượng trữ tình trong loại thơ này có khi chỉ là hư cấu (hư cấu nhưng rất chân thành), thể hiện khát vọng yêu đương, mơ ước yêu đương, mộng tưởng yêu đương mà thôi -- mộng được thể hiện như thật, có thể so sánh đại loại như nội dung hiện thực tâm lí, phần lõi trong Bích Câu kì ngộ chẳng hạn (không liên can gì đến khía cạnh nguyên tác và bản dịch) -- TXA..

 

Tư liệu xem thêm:

Nguyên do nào Trịnh Công Sơn sáng tác 

hai tuyệt tác Hạ trắng và Cát bụi?

__________________

 

Xem lại những dòng cảm nghĩ đã lâu:

Trần Xuân An - Nghĩ về thơ

và lao động sáng tạo thơ (1992) 

_______________________

 

Google Sites /  host

WORDPRESS, GOOGLE PAGE CREATOR, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE