t.a. Bàn luận về bài 20-Tl.3 - Nhật kí tìm hiểu thực trạng độc thân của Bác Hồ

NHỮNG LỜI BÀN LUẬN

CUỐI BÀI “NHẬT KÍ TÌM HIỂU THỰC TRẠNG ĐỘC THÂN CỦA BÁC HỒ”

1.                  

February 25, 2009 at 5:25 pm

BỔ SUNG (25-02 HB9 [ 2009 ]):

Lo ngại rằng, sẽ có một số độc giả bất bình, thậm chí phẫn nộ, do mâu thuẫn văn hóa trong tâm lí tiếp nhận, bởi tính chất khốc liệt trong việc giải mã nhãn từ “Bò Đái” (*), tôi bổ sung thêm một bài thơ của chính nhà thơ Hồ Chí Minh:

Trong tập thơ “Nhật ký trong tù”, Hồ Chí Minh cũng đã có lần gây “sốc” cho người đọc bằng thủ pháp nghệ thuật dung tục hóa: dung tục hóa khát vọng tự do, một giá trị thiêng liêng, cao quý nhất, để làm nổi rõ một mặt khác của tự do, ấy là tính cụ thể, bình thường, thậm chí là tầm thường, dơ bẩn nhưng vô cùng cần thiết: “đi đại tiện” (đi tiêu) ”        ” (”đi rón rén”) [từ lệch nghĩa]. Qua đó, Hồ Chí Minh cũng không tự thần thánh hóa mình:

限 制

沒 有 自 由 真 痛 苦

出 恭 也 被 人 制 裁

開 籠 之 時 肚 不 痛

肚 痛 之 時 籠 不 開

 (Tư liệu Hán – Nôm – Từ điển trực tuyến Việt – Hán – Nôm: NKTT., bài 116

http : // sager – pc . cs . nyu . edu / ~ huesoft / tulieu / ntnk . htm )

Hạn chế

Một hữu tự do, chân thống khổ

“Xuất cung” dã bị nhân chế tài

Khai lung chi thời đỗ bất thống

Đỗ thống chi thời lung bất khai

Bị giới hạn, ngăn cấm

Mất tự do vốn có, khổ đau thật sự

“Đi một cách cung kính” [:“đi rón rén”] mà cũng bị người ta ngăn cấm

Mở lồng [:lao tù], ấy lúc bụng không đau

Đau bụng, ấy khi lao tù không mở

(WebTgTXA. tạm dịch nghĩa)

Bị hạn chế

Đau khổ chi bằng mất tự do

Đến buồn đi ỉa cũng không cho

Cửa tù khi mở không đau bụng

Đau bụng lại không mở cửa tù.

(Nam Trân dịch vần)

Chắc chắn bản dịch của nhà thơ Nam Trân đã được chính tác giả Hồ Chí Minh đọc duyệt. Bản dịch này đã được đưa vào chương trình ngữ văn các trường phổ thông và đại học từ thuở sinh thời Bác Hồ đến nay.

Và không chỉ một lần, nhà thơ Hồ Chí Minh còn gây “sốc” ở một bài khác, khi Người sử dụng thủ pháp tả thực, tự nhiên chủ nghĩa kết hợp với biểu tượng hóa, có ý nghĩa khái quát cao: “Ngồi trên hố xí đợi ban mai” (Xí khanh thượng toạ đãi triều [:triêu] lai”                          “Ngồi trên hố xí đợi hừng đông đến” [bài 34: “Sơ đáo Thiên Bảo ngục”, nguồn bản chữ Hán: tlđd.; dịch vần: Nguyễn Huệ Chi]).

17:20, 25-02 HB9 & 26-02 HB9

______________________________

(*) 27-02 HB9: Nhắc lại tổng thể hình tượng bài sấm kí: Nhãn từ chứa đựng ẩn dụ “Bò Đái” trong cụm hình tượng miêu tả những hiện tượng thiên nhiên dữ dội như động đất, núi Đụn nứt hai, suối thác Vũ Nguyên tắt tiếng, lũ lụt dâng lên đến rú Thành dẫn đến sự đản sanh thánh nhân trong bài sấm kí “Nam Đàn sanh Thánh”. Tổng thể cụm hình tượng khiến chúng ta không thể giải mã nếu không vận dụng hình tượng Thần Shiva (hiện thân là Bò thần Nandin). Đó là Vị Thần Hủy diệt và Sáng tạo, biểu tượng của Trời — Đất, nguyên khí vũ trụ âm [-] — dương [+]. Chính vị thần Shiva này đã đản sanh ra thánh nhân. Tôi không đồng nhất Thần Shiva với thánh nhân Hồ Chí Minh và anh chị ruột của Người.

Trong bài viết, tôi cũng đã xem những hiện tượng thiên nhiên dữ dội kể trên như các ẩn dụ về lịch sử.

Như vậy, bài sấm kí đã giải thích, tiên đoán về sự vận động, chuyển biến của địa lí và lịch sử bằng động lực siêu nhiên, thần bí và nhãn quan duy tâm, huyền học, tôn giáo Bà La Môn (tiền thân của Hindu).

Cố nhiên sấm kí không thuộc lĩnh vực nào khác ngoài huyền học!

Dẫu thế, trong bài viết, tôi cũng đã bày tỏ là không tin tưởng vào những yếu tố thần bí của sấm kí, mà chỉ thu nhặt lấy cái lõi ghi nhận hiện thực — lịch sử từ cuối thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX và Hồ Chí Minh (thánh nhân thuần khiết bẩm sinh) — chứa đựng trong chúng.

Bài sấm kí này cùng một câu theo thuyết phong thủy trong bài viết là hai tư liệu không căn bản, lại quá phức tạp, nhưng cũng khá cần thiết. Vì tính chất phức tạp của chúng, tôi phải phân tích, rút tỉa lượng thông tin, nên những câu chữ viết về chúng chiếm một tỉ lệ đáng kể. Do đó, nếu không lưu ý khi đọc (bảng liệt kê màu vàng), chúng ta sẽ dễ bị lệch trọng tâm chủ đề.

Trần Xuân An

2.                  

February 26, 2009 at 10:48 pm

LỜI THƯA CUỐI MỘT BÀI VIẾT

Bài này được khởi viết trong sự bức xúc của công luận về cuốn “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh” và tiểu thuyết “Đỉnh cao chói lọi” (Dương Thu Hương) cùng những thông tin tuyên truyền có tính chất quảng cáo về hai cuốn sách ấy.

Bài viết trên đây được khởi công và hình thành từ ngày 02-12 HB8 ( 2008 ) đến hôm nay, 26-02 HB9 ( 2009 ). Trong đó, ngày tôi bắt đầu viết thành bài hẳn hoi như trên, chỉ mới từ hôm 10-02 HB9. Và 16 ngày qua, bài viết đã được chỉnh sửa, bổ sung nhiều lần. Tuy vậy, nội dung bài viết vẫn nhất quán.

Bài viết đã được gửi đến các tạp chí điện tử: BBCVietnamese, Chim Việt Cành Nam; các trang thông tin điện tử: Trúc Sơn Trang (nhà văn Xuân Đức), Phong Điệp, Lê Thiếu Nhơn, Lề Bên Trái (nhà văn Đào Hiếu), Ngô Hữu Đoàn; cùng các nhà văn, nhà giáo, các tác giả quen thân khác: nhà văn Trần Thanh Giao, nhà giáo Ngô Vưu, nhà nhiếp ảnh Phạm Bá Thịnh, nhà văn Nguyễn Bội Nhiên, tác giả Nguyễn Phúc Vĩnh Ba, TS. Tôn Thất Dụng, PGS.TS. Hoàng Dũng, TS. Trần Hoàng, nhà giáo Lê Phước Sinh, nhà giáo Lê Thị Bác Nhã, thạc sĩ Lê Tiến Công, nhà văn Võ Nguyên (Võ Văn Tám), nhà giáo Nguyễn Chiến, nhà thơ Nguyễn Tấn Sĩ, nhà báo Lê Đức Dục, TS. Phan Văn Hoàng, nhà thơ Inrasara, nhà thơ Võ Văn Luyến, nhà thơ Võ Văn Hoa…

Xin cảm ơn sự chia sẻ, đồng cảm, nhất trí và cả những ý kiến dè dặt. Tôi cũng cảm thấy buồn lòng trước sự im lặng, không bày tỏ chủ kiến.

Trân trọng,

Trần Xuân An

26 & 27-02 HB9 ( 2009 )

3.                  

February 28, 2009 at 5:13 pm

THƯ CỦA NGƯỜI ĐỌC TRẦN LIÊNG ( 27-02-”09 ):

Kính gửi ông Trần Xuân An,

Tôi có một thu hoạch như sau:

Bài viết của ông đã đưa ra 2 hướng lí giải:

1) Theo hướng duy tâm, thần bí (sấm kí, huyền học): “Nhưng điểm tật về chức năng một bộ phận cơ thể của nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh và anh chị ruột của Người chỉ minh định thể trạng hiền nhân thuần khiết bẩm sinh của họ, như nhân dân Nam Đàn, Nghệ An ca ngợi: “Nam Đàn sinh Thánh”. Hồ Chí Minh là thánh nhân cần thiết phải xuất hiện trong tình hình đấu tranh cận - hiện đại, đặc biệt là đấu tranh về tôn giáo, ý thức hệ, trước các thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ ngày càng tinh vi, thâm độc” (trích từ bài trên).

2) Theo hướng duy vật (đột biến gène sinh dục, di truyền học): “Anh chị ruột của Bác Hồ (bà Nguyễn Thị Thanh, ông Nguyễn Sinh Khiêm) cũng không có chồng, có vợ và con cháu ruột. Đó là sự thật tuyệt đối đến mức 100%. Theo suy luận của tôi [tức là tác giả TXA], chắc hẳn hai người này cũng là thánh nhân thuần khiết bẩm sinh. Đây là một chứng cứ bổ trợ để chứng minh cho thể trạng thánh nhân thuần khiết bẩm sinh của Bác Hồ. Ở đây, tôi cũng chỉ nhấn mạnh đến yếu tố gien thể chất, không đề cập đến tác nhân môi trường xã hội trong việc hình thành tính cách, tư tưởng” (trích từ bài trên). Đây là hiện tượng không phải xa lạ trong sinh học. Cho dù lí giải theo hướng khoa học, duy vật này, vẫn phải thừa nhận: Trong thực tế đấu tranh về tôn giáo, ý thức hệ, Bác Hồ vẫn là một nhân vật chính trị, nhân vật lịch sử không thể bị xuyên tạc, bôi nhọ về nhân cách, đạo đức, nhất là về lĩnh vực tình dục.

Ông Trần Xuân An quý mến,

Tôi nhận thấy cho dù trong xã hội hẳn còn tồn tại lâu dài 2 luồng lí giải như thế, thì Bác Hồ vẫn chỉ là một thánh nhân thuần khiết bẩm sinh hay là người chỉ có chút TẬT nhưng hoàn toàn không thể vướng TỘI (nói văn tắt là CÓ TẬT NHƯNG KHÔNG THỂ CÓ TỘI). Ông viết “cao siêu” quá, tôi chỉ nói ngắn gọn, giản dị thế thôi.

Đó là điều tôi thu hoạch được từ bài viết của ông Trần Xuân An. Xin nhấn mạnh để chia sẻ với những bạn đọc khác.

Cảm ơn ông An rất nhiều.

Trần Liêng

4.                  

TXA. said

March 1, 2009 at 7:08 am

ÔNG TRẦN LIÊNG BỔ SUNG VÀO LÁ THƯ Ở KHUNG TRÊN:

Đây là một điều khác tôi thu hoạch được ở bài khác của ông Trần Xuân An:

“Chuyện phòng the, chăn gối, sinh thực khí hay nói chung là chuyện tình dục của nhân vật lịch sử, nếu không có gì vi phạm luật pháp và đạo lí từ xưa đến nay thì không nên cường điệu, phóng đại tầm mức quan trọng. Vả lại, bàn chuyện này cho thật rốt ráo cũng khó. Nguyên tắc chung vẫn phải có cơ sở: nhân chứng đi đôi với vật chứng được giám định khoa học thực nghiệm; mọi sự tố cáo mà không có nhân chứng đi đôi với vật chứng có giá trị pháp lí đều vi phạm pháp luật, người tố cáo chỉ là kẻ vu cáo, phải chịu án phạt do tòa án xét xử và tuyên án”.

(TXA., “Ý NGHĨ VỀ DỰ KIẾN SỬA ĐỔI SÁCH GIÁO KHOA VĂN HỌC & SỬ HỌC”, txawriter.wordpress,

comment-354).

Tôi không rõ bà Dương Thu Hương đã có quốc tịch Pháp hay chưa, nhưng cho dù bà mang quốc tịch nào và hiện nay đang lưu vong ở hải ngoại, chắc hẳn vẫn có thể khởi kiện, đưa bà ấy ra trước tòa án: Truy tố về tội tố cáo nhân vật chính trị, nhân vật lịch sử không có bằng chứng mang tính pháp lí (nên rõ ràng là xuyên tạc, bôi nhọ). Thế giới không thể sống trong LUẬT RỪNG mãi. Ám sát, thủ tiêu cũng là hành xử theo luật rừng. Xuyên tạc, bôi nhọ cũng là kiểu viết sách báo theo luật rừng.

Không những đối với nhân vật chính trị, nhân vật lịch sử, mà đối với mọi công dân, đều phải được pháp luật mỗi nước và công pháp quốc tế bảo vệ.

LOÀI NGƯỜI MÃI SỐNG TRONG LUẬT RỪNG HAY SAO?

Trần Liêng

5.                  

March 1, 2009 at 7:30 am

Kính gửi ông Trần Liêng,

Đơn giản như thế mà chúng ta bàn bạc quá tốn phí thời gian, công sức.

Thành thật cảm ơn ông Trần Liêng.

NHÂN ĐÂY, XIN GỬI LỜI THƯA CHUNG:

VẤN ĐỀ ĐÃ RÕ, WEBTGTXA. XIN ĐƯỢC ĐÓNG LẠI ĐỀ MỤC NÀY.

THÀNH THẬT CẢM ƠN QUÝ NGƯỜI ĐỌC.

01-03 HB9

6.                  

txa said

March 3, 2009 at 2:35 pm

GOOGLE LƯU TRỮ:

GOOGLE LƯU TRỮ — bấm vào đây

http : // 209 . 85 . 175 . 132 / search?q=cache:sNLEk9tVsEsJ:txawriter.wordpress.com/2009/02/24/thuctrangdocthan-bacho/+%22Th%E1%BB%B1c+tr%E1%BA%A1ng+%C4%91%E1%BB%99c+th%C3%A2n%22+%22H%E1%BB%93+Ch%C3%AD+Minh%22&hl=vi&ct=clnk&cd=1&gl=vn

THƯ NGÔ HỮU ĐOÀN:

Vào 10:54 Ngày 03 tháng 3 năm 2009, Ngo Huu Doan:

Kính tác giả - Nnc. Trần Xuân An

Rất cảm ơn anh đã gởi cho em bài viết này, mặc dù anh vẫn nói nó không phải là bài ‘nghiên cứu’, nhưng em thấy nó là cái phát hiện mà anh đã tốn nhiều công nghiên cứu. Biết đâu đó là thật sự là những điềm báo trước về sự ra đời của con người tài ba lỗi lạc Hồ Chí Minh - Người đã có công to lớn giải phóng nô lệ cho dân tộc. Theo cái học, cái đọc quá ít ỏi của em, bài này nên được đăng ở một nơi trang trọng và có tính nghiên cứu hơn, vì nó như một phát hiện mới anh à.

Cảm ơn anh lần nữa!

NHĐ

THƯ TRẦN XUÂN AN:

13:46 Ngày 03 tháng 3 năm 2009, Tran Xuan An:

Bạn Ngô Hữu Đoàn quý mến,

Cảm ơn Ngô Hữu Đoàn.

Đây là bài viết không có nhiều tư liệu, tư liệu có được lại “hóc” quá.

Vì có những phát hiện mới, nên tôi mới gửi cho Đoàn để phổ biến rộng rãi, mặc dù nó cũng được đăng rồi, 3 phân đoạn cùng ý tứ trên Tạp chí điện tử CHIM VIỆT CÀNH NAM, tháng 01 HB9, và trọn bài mới viết lại, trên Tạp chí điện tử SÁCH HIẾM, hôm kia, ngày 01-3 HB9, hình như vậy…

Quý mến,

TXA.

7.                  

March 5, 2009 at 11:22 am

THƯ CỦA NGƯỜI ĐỌC ĐỖ THÚY:

Bai viet ve Ho Chi Minh

Thứ Tư, 4 tháng 3, 2009 08:16

Người gửi:

Người gửi này đã có xác minh DomainKey

“Do Thuy”

Thêm người gửi vào Danh bạ

Gửi:

tranxuanan.writer@gmail.com, tranxuanan_vn@yahoo.com

từ Do Thuy

tới tranxuanan.writer@gmail.com,

tranxuanan_vn@yahoo.com

ngày 23:16 Ngày 04 tháng 3 năm 2009

chủ đề Bai viet ve Ho Chi Minh

được gửi bởi gmail.com

Xin chào anh An

Tôi mới đọc bài viết của anh đăng trên mạng sachhiem.net và muốn chia sẻ với anh một vài suy nghĩ xung quanh những thông tin gần đây về Hồ Chí Minh.

Nói thật với anh, tôi cũng đã đọc nhiều tài liệu, hầu hết là từ hải ngoại, nói về những chuyện liên quan đến đời tư của Hồ Chủ tịch. Nhưng gần đây, lần đầu tiên tôi đọc về điều này từ một người được nuôi lớn lên và trưởng thành dưới chế độ này, đó là cuốn hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh (NĐM). Tìm hiểu thêm về tác giả, tôi mới biết ông đã từng viết nhiều sách giáo khoa, nghiên cứu về văn học Việt Nam, một điều làm tôi rất bất ngờ, rồi tôi đã hiểu tại sao học sinh ngày càng không thích học văn. Có thể nhận xét ngắn gọn về con người NĐM là “hợm hĩnh và vô trách nhiệm”. Hầu hết các tên tuổi lớn trong nền văn học Việt Nam đều bị ông chê bai, đầu tiên là đời tư, sau đó là kiến thức, rồi suy ra đến văn của họ. Một điều quan trọng hơn cả là những thông tin mà ông đưa ra để nói xấu người khác đều là qua miệng người khác, hoặc ông gắn nó vào mồm một ai đó. Đó không thể là tác phong làm việc của một nhà nghiên cứu, một nhà khoa học. Sau khi đọc xong cuốn hồi kí, tôi không thể không có ý nghĩ rằng phải chăng NDM sợ mình không được nổi tiếng bằng những người cùng thời và cả đàn em của ông, nên ông phải viết cái gì đó, cố để gây tiếng vang, kẻo mai chết đi sẽ không có ai nhớ đến những cuốn sách nhàn nhạt kia của ông. Cái này cũng giống như một cô gái mới lớn tuy gái nhưng lại muốn nổi tiếng bèn tung tin rằng đã ngủ với nhân vật này nhân vật kia, mượn mồm người nổi tiếng này chửi người nổi tiếng kia.

Còn về Dương Thu Hương và cuốn “Đỉnh cao chói lọi”, tôi nghĩ cũng vậy thôi. Tất cả những điều mà DTH viết cũng chỉ toàn chuyện nghe lại từ ai đó, rồi kể lại bằng cái giọng đanh đá, chua ngoa nhất có thể. Chẳng hạn, DTH viết rất tệ về Trần Quốc Hoàn. Trong khi đó, tôi được biết vị bộ trưởng này là do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn. Cụ Hồ không thể dùng một người vô đạo đức như DTH đã vẽ ra, hoặc nghe lại từ đâu đó. Tóm lại, giống như Nguyễn Đăng Mạnh, Dương Thu Hương cũng không vượt qua được cái bản ngã [tự ngã? – ct.] của mình, vẫn luẩn quẩn trong cái ước muốn được nổi tiếng của mấy cô cậu choai choai.

Vì vậy, sẽ là phí lời nếu bàn thêm về hai người này.

Quay lại những câu chuyện về đời tư của Hồ Chí Minh, tôi có suy nghĩ thế này: Liệu những gì mà Hồ Chí Minh đã làm cho đất nước này (cả khi sống lẫn khi đã mất) quan trọng hơn hay chuyện Người có vợ hay không có vợ quan trọng hơn. Và nếu (chỉ là nếu) Người đã từng có vợ, hay người yêu, và rồi vì muốn cống hiến trọn đời cho đất nước mà chuyện hôn nhân không vẹn toàn, thì bất kỳ ai, nếu còn một chút tình người, cũng phải nên coi đó là một hy sinh lớn của Người.

Đôi lời tâm sự cùng anh, rất mong được hồi âm.

Đỗ Thúy

THƯ CỦA NGƯỜI CẦM BÚT TRẦN XUÂN AN:

Kính gửi quý người đọc Đỗ Thúy ( dongocthuy@gmail.com )

Chắc hẳn quý người đọc Đỗ Thúy đã quá thông cảm đối với tình trạng im lặng, không bày tỏ chủ kiến hoặc chỉ phát biểu đôi dòng, một vài bài báo ngắn để đối phó theo kiểu “chiếu lệ”, qua loa, tránh đề cập trực tiếp, rõ nét về “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh” và tiểu thuyết “Đỉnh cao chói lọi” (của Dương Thu Hương), nhất là vấn đề đời tư của nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh, theo cách căn cứ vào “cáo trạng” (!) của hai tác giả này để phản biện.

Quan trọng nhất là vấn đề đời tư nhân vật có tầm vóc chính trị và ảnh hưởng lớn trong thế kỉ XX. Tại sao tình hình chung là im lặng, “chiếu lệ”, qua loa?

Thứ nhất, đại đa số người ta không rõ.

Thứ hai, hầu hết người ta chờ thông báo chính thức của giới cấp có thẩm quyền cao nhất về chính trị và sử học.

Thứ ba, về phía chính quyền, báo chí, giới bảo vệ pháp luật và quyền lợi công dân, người ta không muốn rơi vào quỷ kế của thế lực thù địch, vì cãi lại điều chúng bôi nhọ, xuyên tạc là mắc mưu chúng. Ở trường hợp khác với trường hợp nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh, thường là khó lòng chứng minh trước những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ. Vì thế, người ta chỉ có thể vận dụng pháp luật để truy tố về tội đưa ra “cáo trạng” (!) mà không có bằng chứng, nhân chứng có giá trị và tư cách pháp lí. Pháp luật quy định rõ: những cáo trạng kiểu ấy chỉ là vu cáo mà thôi.

Thứ tư, đối với giới trí thức, người có quan tâm đến chính trị, sử học, người ta ít nhiều đều biết và biết khá rõ, có tư liệu, có suy luận trên cơ sở tư liệu hẳn hoi, nhưng không muốn chuốc họa vào thân. Nói đúng sự thật, theo nhận thức của mỗi người, cho dù theo hướng ca ngợi hay dung tục hóa, đều có thể dẫn đến nguy cơ chuốc họa ấy. Họa có thể đến từ nhiều phía, từ chính quyền trong nước nhưng cũng có thể từ các thế lực chống chế độ trong và ngoài nước.

Tôi cũng vậy thôi, thuộc trường hơp thứ tư, nếu báo chí chính thống trong nước không đề cập đến. Thoạt đầu, tôi trực nhận và phỏng đoán thêm, hẳn đã đến lúc sự thật về đời tư Hồ Chí Minh được báo chí chính thống nói rõ, cụ thể, chi tiết. Như thế, tôi không muốn “chiếu lệ”, qua loa hoặc im lặng. Về giới cầm bút (và một người cầm cọ), tôi đã viết 3 bài ngắn, liên hoàn nhằm đưa ra chủ kiến của tôi (đã đăng trên tạp chí điện tử Chim Việt Cành Nam) (1). Nhưng cái chính vẫn là về Hồ Chí Minh. Về khía cạnh quan trọng này, tôi viết, có lẽ với động cơ chính là bởi tôi vốn thích dân chủ trong sử học, không muốn khía cạnh nào đó thuộc sử học cứ mãi bị chìm khuất đến nỗi sai lạc về sau, khi hạn giải mật đã vượt qua quá lâu. Trong đó, tôi cũng đã mạnh dạn viết một cách ngắn gọn nhưng rất cụ thể về đời tư nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh (triển khai từ một chi tiết trong một tiểu thuyết, “Mùa hè bên sông”, tôi đã viết cách đây 12 năm). Quý người đọc Đỗ Thúy có thể tìm đọc.

Bài mới đây nhất, tôi xoáy sâu vào vấn đề tôi cho là quan trọng nhất, như tôi vừa xác định ở dòng chữ trên, đã đăng trên tạp chí điện tử Sách Hiếm, và quý người đọc Đỗ Thúy cũng đọc rồi.

Tôi tự biết giới hạn của mình, nhất là về tư liệu, trong những trang viết vừa nói đến. Thực tâm, tôi cũng muốn xới vấn đề lên để đọc được những thông tin từ những nguồn tin đáng tin cậy nhất với đầy đủ sử liệu có giá trị. Nhưng đến lúc này, sau năm ba tháng, từ khi “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh” và tiểu thuyết “Đỉnh cao chói lọi” (của Dương Thu Hương) công bố, cảnh tượng sự-thật-được-công-bố như trực nhận và phỏng đoán thoạt đầu, vẫn chưa diễn ra: Chưa có bài viết nào bàn cụ thể trên báo chí chính thống, chưa có thông báo chính thức nào của giới cấp có thẩm quyền cao nhất về chính trị và sử học.

Có lẽ tôi đã bị “hố”, hụt hẫng chăng?

Ở thư trả lời này, cho phép tôi không bàn đến vấn đề nào khác ngoài vấn đề đời tư Hồ Chí Minh bằng cách đi sâu vào điểm mà quý người đọc Đỗ Thúy đã đưa ra cuối thư gửi cho tôi.

Quý người đọc Đỗ Thúy viết: “Quay lại những câu chuyện về đời tư của Hồ Chí Minh, tôi có suy nghĩ thế này: Liệu những gì mà Hồ Chí Minh đã làm cho đất nước này (cả khi sống lẫn khi đã mất) quan trọng hơn hay chuyện Người có vợ hay không có vợ quan trọng hơn. Và nếu (chỉ là nếu) Người đã từng có vợ, hay người yêu, và rồi vì muốn cống hiến trọn đời cho đất nước mà chuyện hôn nhân không vẹn toàn, thì bất kỳ ai, nếu còn một chút tình người, cũng phải nên coi đó là một hy sinh lớn của Người”.

Thật ra, ý nhỏ thứ nhất trong đoạn thư cuối vừa trích lại, tôi đã khẳng định rồi: “Đánh giá một con người, căn cứ vào mức độ cống hiến của người ấy cho dân tộc và nhân loại, chứ không phải căn cứ vào sự bình thường hay không bình thường của bộ phận nào đó trong cơ thể”, có vợ hay không có vợ. Tôi đã đẫn chứng: Lý Thường Kiệt, Lê Văn Duyệt và Trịnh Công Sơn. Tôi cũng đã nhấn mạnh, nhân cách chính trị, nhân cách văn hóa, nhân cách sinh hoạt, ứng xử trong đời thật của Hồ Chí Minh là không thể xuyên tạc, bôi nhọ vì mọi người dân và toàn thế giới đã biết rõ.

Về ý thứ hai của quý người đọc Đỗ Thúy trong đoạn thư vừa trích, tôi và rất nhiều người khác đã được đọc trên sách báo và cũng đã tiếp xúc với nhiều người có hoàn cảnh đời tư tương tự như vậy. Tâm lí của mọi người Việt Nam từ xưa đến nay, theo bảng giá trị văn hóa nghìn đời của dân tộc, đều ngợi ca những con người vì nước, vì dân, quên thân mình, quên gia đình, vợ con hay chồng con. Có nhiều người cưới vợ, lấy chồng trong 10 phút, có tổ chức chứng kiến, xác nhận, sống với nhau trong mươi ngày, vài tháng, rồi họ bịn rịn chia tay, vợ ở quê nhà (có thể đã mang thai, tiếp đó là mấy mươi năm nuôi con, chờ chồng), chồng lao vào kháng chiến, hoặc mỗi người đảm trách một công tác khác nhau (con được gửi cho cơ sở kháng chiến hay ông bà nội ngoại), mãi cho đến tuổi 50 hoặc cuối đời mới gặp lại nhau. Những đôi vợ chồng đó xứng đáng được ca ngợi và bao nhiêu là sách báo đã ca ngợi. Nhưng ở nhân vật Hồ Chí Minh, Người lại không thuộc vào trường hợp tuyệt đẹp, đẹp nhất, tuyệt đối lí tưởng theo nhân sinh quan nho giáo, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa như vậy. Người phải cam chịu theo số phận độc thân, mặc dù Người thành thật xem độc thân trọn đời là khuyết điểm thứ nhất trong đời Người. Đó là bất hạnh của Người. Đó cũng là bất hạnh của anh chị ruột của Người. Nhưng đó lại là cái may cho dân tộc và cả cho Người. Họ là những thánh nhân bẩm sinh. Về điều này, tôi đã viết: “Hồ Chí Minh là thánh nhân cần thiết phải xuất hiện [theo yêu cầu lịch sử -- ct.] trong tình hình đấu tranh cận - hiện đại, đặc biệt là đấu tranh về tôn giáo, ý thức hệ, trước các thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ ngày càng tinh vi, thâm độc”. Câu ấy hiểu theo quan điểm duy tâm, huyền học hay duy vật lịch sử và xét theo trường hợp đột biến gien trong di truyền học cũng được. Trong thực tế, cho đến nay, năm thứ 9 của thế kỉ XXI, Hồ Chí Minh và anh chị ruột của Người vẫn không có một ai là con cháu ruột của họ cả. Nếu có, ai đó đã chính thức, công khai nhìn nhận và được chứng nhận theo thủ tục giám định khoa học thực nghiệm, thủ tục hành chính.

Tôi nghĩ quý người đọc Đỗ Thúy vì quá kính yêu nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh nên đã đem ước muốn của mình gán vào Người mà thôi. Nếu Hồ Chí Minh thuộc vào trường hợp tuyệt đẹp, đẹp nhất (không thể có trường hợp đẹp hơn, cao cả hơn), tuyệt đối lí tưởng (không có trường hợp nào lí tưởng, cao quý hơn) về đời sống vợ chồng, con cái, theo nhân sinh quan nho giáo (thứ yếu), nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa (chủ yếu), như trên đã đơn cử, thì còn gì bằng. Nhưng sự thật lịch sử là không như vậy, về khía cạnh đời tư của anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh. Người ta thường nói, trong sử học, không có chữ “nếu”, mà chỉ có thể giả định như một thủ pháp hành văn để khẳng định sự thật đã diễn ra, không thể đem ý chí cá nhân hay tổ chức mà khiên cưỡng được.

Tôi lặp lại, một lần nữa, như đã viết, đó là bất hạnh của Người, đó cũng là bất hạnh của anh chị ruột của Người, nhưng đó lại là cái may cho dân tộc và cả cho Người. Họ là những thánh nhân bẩm sinh. “Hồ Chí Minh là thánh nhân cần thiết phải xuất hiện [theo yêu cầu lịch sử -- ct.] trong tình hình đấu tranh cận - hiện đại, đặc biệt là đấu tranh về tôn giáo, ý thức hệ, trước các thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ ngày càng tinh vi, thâm độc”. Những khía cạnh khác như về chính trị, các mặt đạo đức khác, kể cả trong sinh hoạt ăn uống, ngủ nghỉ thường nhật, đã quá nhiều sách báo bàn đến, nhiều nhân chứng trong và ngoài nước chứng kiến, chúng ta có lẽ không cần phải khẳng định lại. Riêng về khía cạnh “không vợ con”, thánh nhân bẩm sinh này, có lẽ lịch sử sẽ tôn vinh Người, nhân dân thờ kính Người mà không gợn lên trong lòng một mảy may nghi ngờ nào hay có thể giả định một khả năng xấu nào về Người. Các nhân vật thánh thiêng trong tôn giáo như Đức Phật, Đức Mẹ, Khổng Tử… vẫn còn ẩn số tiêu cực, nếu tâm ai đó đôi khi tai quái “giả định” ra. Hồ Chí Minh không thể có ẩn số tiêu cực đó, vì Người là thánh nhân bẩm sinh.

Chủ kiến của tôi về khía cạnh này hình thành từ những tư liệu tôi đã có được và đã tự thẩm định lại. Nhưng tôi tự biết mình không phải là người có đầy đủ tư liệu đến mức không ai có thể phản bác được.

Chúng ta phải chờ đợi thông báo chính thức của giới cấp có thẩm quyền cao nhất về chính trị và sử học, đặc biệt là giới sử học, với đầy đủ tư liệu xác thực, kể cả nhân chứng đáng tin cậy nhất, trước khi họ qua đời… Tôi nghĩ các nhà chính trị có thẩm quyền cao nhất, dân chủ nhất, hẳn phải dành cho các nhà sử học quyền công khai và chính thức công bố về điều này, kể cả quyền họ được mời nhân chứng công khai viết, phát biểu. Chẳng lẽ giới sử học hiện nay không đủ quyền bằng các sử thần phong kiến sao!

Xin đừng để lại một dấu hỏi về anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh, dù chỉ là dấu hỏi về đời tư ở khía cạnh sinh dục.

Xin thành thật cảm ơn quý người đọc Đỗ Thúy.

Trân trọng,

Trần Xuân An

8: — 11: ngày 05-3 HB9

15: 00, có sửa chữa vài chữ.

_____________________

(1) Cũng có thể xem tại đây:

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/thongbao-update-12

THƯỞNG NGOẠN, HỌC TẬP, NGHIÊN CỨU VĂN CHƯƠNG LÀ ĐỂ CÙNG NHÀ CẦM BÚT CHÂN CHÍNH VƯƠN TỚI CHÂN THIỆN MĨ VÀ CÙNG NHẮC NHAU LUÔN LUÔN NUÔI DƯỠNG KHÁT VỌNG VƯƠN TỚI ẤY. TRONG CHIỀU HƯỚNG ĐÓ, MỌI NGƯỜI ĐỀU CÓ THỂ MỖI NGÀY MỘT TIẾN GẦN ĐẾN CHÂN THIỆN MĨ HƠN.

BẢN THÂN NHÀ CẦM BÚT KHÔNG PHẢI LÀ HIỆN THÂN CỦA CHÂN THIỆN MĨ.

Trần Xuân An, 19-12 HB8

KHOA HỌC TỰ NHIÊN & CÔNG NGHỆ LÀM GIÀU ĐẸP PHẦN XÁC (DÂN GIÀU NƯỚC MẠNH).

KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN, ĐẶC BIỆT LÀ VĂN, SỬ, TRIẾT, GIÚP NÂNG CAO PHẦN HỒN (TÂM HỒN, TƯ TƯỞNG CỦA MỖI CÔNG DÂN VÀ CẢ DÂN TỘC).

PHẢI HỌC VĂN, SỬ, TRIẾT ĐỂ GÓP PHẦN GIẢI QUYẾT NHỮNG VẤN NẠN CHIẾN TRANH, HẬU CHIẾN, HẬU THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC, TỰ GIẢI PHÓNG KHỎI BỆNH SÙNG NGOẠI, NÔ LỆ TƯ TƯỞNG NGOẠI LAI TỪ XƯA ĐẾN NAY, NHẤT LÀ TRƯỚC SỰ XÂM THỰC VĂN HÓA TRONG THỜI “HỘI NHẬP” ĐANG DIỄN RA.

KHÔNG THÍCH VĂN, SỬ, TRIẾT HIỆN TẠI, LẠI CÀNG PHẢI HỌC ĐỂ ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO MỚI TRÊN CĂN BẢN TÔN TRỌNG SỰ THẬT LỊCH SỬ, PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ THUẦN VIỆT VÀ VIỆT HÓA TRUYỀN THỐNG Ở TẦM CAO MỚI, ĐỒNG THỜI PHÊ PHÁN NHỮNG CÁI CŨ, LẠC HẬU, SUY ĐỒI, LAI CĂNG.

THẬT KINH NGẠC, ĐÁNG SỢ BIẾT BAO KHI CÓ NHỮNG AI ĐÓ CHÈN ÉP HOẶC XÚI DẠI LỚP TRẺ XA LÁNH, BỎ BÊ VIỆC ĐỌC SÁCH, HỌC TẬP VĂN, SỬ, TRIẾT.

WebTgTXA., 09-03 HB9

8.                  

txa said

March 7, 2009 at 5:45 am

Báo SGGP online:

VĂN HÓA VĂN NGHỆ

Hướng vào những vấn đề hệ trọng của văn học nghệ thuật

Thứ năm, 05/03/2009, 01:14 (GMT+7)

Trích phát biểu của đồng chí TÔ HUY RỨA (ảnh) tại Kỳ họp thứ V của Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương (nhiệm kỳ Đại hội X)

http : // www . sggp . org . vn / vanhoavannghe / 2009 / 3 / 183018 /

“… Về vấn đề triển khai cuộc đấu tranh chống quan điểm sai trái trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, các đồng chí sẽ nghe và thảo luận để xây dựng kế hoạch thực hiện Thông báo Kết luận số 213 của Ban Bí thư về vấn đề quan trọng này. Lúc này, cùng với nhiệm vụ xây dựng, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, văn học, nghệ thuật đang là vấn đề bức xúc, nóng bỏng. Cần phê phán mạnh mẽ các khuynh hướng như: hạ bệ thần tượng, nói xấu chế độ và lãnh đạo của các thế lực thù địch và những người vô tình hay cố ý a dua, làm theo….”.

Cũng có thể xem: Báo điện tử ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM:

http : // www . cpv . org . vn / print _ preview . asp ?id = BT 430959441

Ngày 4/3/2009. Cập nhật lúc 16h 33′

“… Đồng chí Tô Huy Rứa, Ủy Viên Bộ Chính Trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương đã tới dự và có bài phát biểu quan trọng chỉ đạo Hội nghị…” (như trên)

0==0==0==0==0==0==0==0==0==0==0==0==0==0==0==0==0==0==0==0

Tự viết châm ngôn cho bản thân:

HẠ BỆ THẦN TƯỢNG (ANH HÙNG DÂN TỘC) LÀ U MÊ, VONG BẢN, PHẢN QUỐC.

TUY NHIÊN, RẤT NÊN SƯU TẦM TƯ LIỆU, NGHIÊN CỨU, NHẰM CUNG CẤP CƠ SỞ KHOA HỌC CHO VIỆC TÔN VINH NHÂN VẬT LỊCH SỬ ĐÃ CÓ CÔNG VỚI DÂN, VỚI NƯỚC, CHỐNG NGOẠI XÂM VŨ TRANG, CHỐNG NGOẠI XÂM VĂN HÓA, VÀ ĐÃ TRỞ THÀNH ANH HÙNG DÂN TỘC, ĐỂ SỰ TÔN VINH ẤY KHÔNG PHẢI MÙ QUÁNG, CUỒNG TÍN.

Trần Xuân An

05:43, 07-03 HB9 ( 2009 )

WEBTGTXA. DỨT KHOÁT ĐÓNG LẠI ĐỀ MỤC NÀY. NẾU CÁC CƠ QUAN CHỨC NĂNG HỮU TRÁCH NHẬN THẤY CẦN PHẢI XÓA BỎ, XIN VUI LÒNG TRỰC TIẾP THÔNG BÁO CHÍNH THỨC, MINH BẠCH CHO TÔI RÕ. TÔI SẼ XÓA BỎ NGAY, KHÔNG CHẦN CHỪ.

9.                  

March 8, 2009 at 6:40 pm

TRẢ LỜI ÔNG TRẦN LIÊNG VỀ LỜI GIỚI THIỆU TRÊN TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ “SÁCH HIẾM” (Theo thư hỏi ngày 07-03 HB9 [ 2009 ]):

Nguyên văn “Lời giới thiệu” ấy như sau:

“LTS: Tác giả Trần Xuân An thường biên soạn, khảo cứu, phản bác & tập hợp một số bài nghiên cứu, các bản phiên dịch của các nhà cầm bút khác. Ông nói, lập trường và quan điểm dân tộc thuần túy luôn luôn là phương châm của ông với ý thức rõ rệt trong các sáng tác hay biên khảo về bất cứ đề tài nào. Nhiều đề tài trong 30 đề tài đăng trong website của ông rất có tầm cỡ trong lãnh vực chính trị, lịch sử và học thuật. Mục đích của ông là sáng tạo một hệ tư tưởng mới, gạt bỏ những yếu tố ngoại lai, nhục quốc thể, khiến cả dân tộc đã hao tổn biết bao xương máu.

Tác giả Trần Xuân An minh thị bài viết này để phản biện lại 2 cuốn sách của GS. Nguyễn Đăng Mạnh (”Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh”) và của nhà văn Dương Thu Hương (”Đỉnh cao chói lọi”). Nếu bạn đọc có ý kiến về bài viết này, xin gửi thẳng đến tác giả ở địa chỉ như đã ghi trên (SH [Sách Hiếm -- ct.])”.

Kính gửi ông Trần Liêng quý mến,

Tôi xin được trả lời như sau:

I. Thật ra, tôi chỉ tập hợp thêm một số bài viết, bản phiên dịch của các nhà nghiên cứu khác trong 2 cuốn (và chỉ ở trong 2 cuốn này mà thôi): 1) Dạng đọc và bình chú ở cuốn “Nguyễn Văn Tường (1824-1886), một người trung nghĩa” (Nxb. Thanh Niên, 2006); 2) Dạng bản phiên dịch, dạng bài khảo luận nguyên văn, toàn văn nhưng có thêm chú thích, bị chú của tôi ở cuối bài hoặc có thêm bản dịch vần, bản biên dịch (bản dịch biên soạn) của tôi, sau mỗi bản dịch, ở cuốn “Thơ Nguyễn Văn Tường (1824-1886) – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng” (Nxb. Thanh Niên, 2008)…

II. Lập trường và quan điểm dân tộc thuần túy của tôi không cực đoan, mà luôn luôn biết tiếp thu tinh hoa tất cả các nguồn văn hóa của nhân loại (chủ yếu là các giáo thuyết, học thuyết lớn). Tuy nhiên, điều tôi luôn tâm niệm là, tất cả tinh hoa nhân loại ấy phải được tiếp biến, Việt hóa. Mặc dù chúng ta vẫn ghi rõ xuất xứ của mỗi giá trị văn hóa, dân tộc chúng ta tiếp biến, Việt hóa, nhưng chúng cần được và phải được tiếp thu với ý thức loại bỏ bớt, sáng tạo thêm, Việt hóa thật nhuần nhị. Tôi muốn góp phần sáng tạo nên một hệ tư tưởng Việt Nam mới, trên căn bản chủ yếu là các giá trị truyền thống và hiện đại thuần Việt cùng những yếu tố Việt hóa mới ấy. Mục đích là để các thế hệ mai sau có thể tự hào về dân tộc Việt Nam, không phải mang mặc cảm tự ti về “bệnh sùng ngoại”, “bệnh bê nguyên xi”…

III. Không kể những các tập thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn liên hoàn, tiểu sử biên niên, truyện - sử kí - khảo cứu tư liệu lịch sử v.v… (21 cuốn sách trước tháng 3-2005) và các bài báo nhỏ, mà chỉ kể những bài nghiên cứu, khảo luận công phu, thì cũng ngần ấy: Khoảng ba mươi (30) bài (hay quen gọi là 30 “đề tài”). Thật ra, tôi cũng chưa đếm lại. Xin xem tại đây: TOÀN BỘ TÁC PHẨM TRẦN XUÂN AN TRÊN GOOGLE PAGE CREATOR (21/24 tác phẩm sáng tác, biên soạn, nghiên cứu đã cố định):

Bấm vào dòng chữ link-hóa này , hoặc:

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/danh_mtpham-tranxuanan

Mọi lời ngắn gọn, cho dù hết sức trân trọng, của bất kì ai cũng đều có thể thiếu sót, không đầy đủ.

Thành thật cảm ơn ông đã gửi thư thăm hỏi và nêu thắc mắc…

Kính chúc ông luôn mạnh khỏe.

Trân trọng,

Kính thư,

Trần Xuân An

18:32, ngày 08-03 HB9 ( 2009 )

___________________________________________________

12-03 HB9:

Thư trả lời ông Trần Liêng đã được gửi Tạp chí điện tử Sách Hiếm qua Gmail, lúc 09:18, ngày 10 tháng 3 năm 2009 và qua Yahoo Mail, lúc 19:25 ngày 11 tháng 3 năm 2009, để được đăng tải, tránh những ngộ nhận đáng tiếc.

15-3 HB9:

Kính mời ông Trần Liêng và quý người đọc xem nguyên văn thư trả lời ( 08-3 HB9 ) trên Tạp chí điện tử Sách Hiếm:

http://sachhiem.net/LICHSU/TranXuanAn_3.php

hoặc:

http://sachhiem.net/LICHSU/TranXuanAn.php

10.              

txa said

April 5, 2009 at 5:57 pm

Nhà văn Sơn Tùng: “Nếu không làm được phúc thì đừng gieo hoạ” (4/1/2009 11:01:24 AM) :

http://hoinhavanvietnam.vn/News.Asp?Cat=28&SCat=&Id=1194

Mây ôm núi núi ôm mây,

Lòng sông sạch chẳng mảy may bụi hồng;

Bùi ngùi dạo đỉnh Tây Phong,

Trông về cố quốc chạnh lòng nhớ ai

– (Bản dịch của T.Lan, một bút danh của Bác Hồ) –

“… tôi muốn nhắc đến câu nói trứ danh của Nhà tư tưởng Pháp Jean-Jacques Rousseau từ thế kỷ XVIII: “Những tâm hồn thấp kém không thể hiểu được các bậc vĩ nhân. Cũng như những tên nô lệ chỉ biết nhe răng cười khi nghe hai tiếng Tự do”.”

_________________________________________________

Về “Đỉnh cao chói lọi” của Dương Thu Hương:

Tiểu luận nguyên tác tiếng Pháp của Janine Gillon, do Cao Việt Dũng dịch ra tiếng Việt

BBC Vietnamese, 10:07 GMT - Thứ Sáu, 3 tháng 4, 2009

“… quả thực câu chuyện nói về - thật là lớn lao! - mối quan hệ đam mê mà “Chủ tịch” (tên thật của ông ta không bao giờ được nói rõ, nhưng ngay cả độc giả thiếu hiểu biết cũng không vướng phải chút nghi ngờ nào) hẳn đã từng có với một người phụ nữ trẻ và xinh đẹp, trong những năm 50… [...] … trên thực tế điều này thuộc về một tập hợp những lời đồn đại mà tất cả những ai viết tiểu sử về Hồ Chí Minh đều đã nói đến từ rất lâu, đồng thời cũng nói rõ rằng không có một bằng chứng nghiêm túc nào cho phép khẳng định các tin đồn ấy…”.

– Bà Janine Gillon, Phó giám đốc Trung tâm thông tin tư liệu Việt Nam (CIDVietnam) –

=x=x=x=x=x=x=x=x=x=x=x=x=x=x=

THỬ CÓ MỘT PHẢN HỒI NHỎ

TXA.

Sau khi đọc bài phỏng vấn nhà văn Sơn Tùng, “Nếu không được phúc thì đừng gieo họa” (phongdiep-net) (*), tôi cứ ngẫm nghĩ mãi về bài thơ “Tân xuất ngục, học đăng sơn”, bản dịch ra tiếng Việt với thể lục bát, được đề cập trong bài phỏng vấn ấy. Mặc dù chỉ biết cảm nhận, tra cứu thơ chữ Hán, chứ không rành chữ Hán (link [**]), tôi vẫn mở trang sách cũ, đọc lại:

TÂN XUẤT NGỤC, HỌC ĐĂNG SƠN

Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân

Giang tâm như kính tĩnh vô trần

Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh

Dao vọng Nam thiên, ức cố nhân

MỚI RA TÙ, TẬP LEO NÚI

Mây ôm dãy núi, dãy núi ôm mây

Lòng sông như tấm gương không chút bụi mờ

Một mình ta dạo bước trên đỉnh núi Tây phong, trong dạ bồi hồi

Nhìn về phía trời Nam xa xăm, nhớ người bạn cũ.

MỚI RA TÙ, TẬP LEO NÚI

Núi ấp ôm mây, mây ấp núi

Lòng sông gương sáng bụi không mờ

Bồi hồi dạo bước Tây Phong lĩnh

Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa.

(Thơ Bác Hồ, Nxb. Văn học giải phóng, 1975, tr. 47)

   新 出 獄 學 登 山

雲 擁 重 山 山 擁 雲

江 心 如 鏡 淨 無 塵

徘 徊 獨 步 西 峰 嶺

遙 望 南 天 憶 故 人

 ( http : // sager-pc. cs. Nyu. edu / ~huesoft / tulieu / ntnk. htm )

Xin vô phép, mạo muội điều chỉnh lại bản dịch của T. Lan (HCM.) cho thật sát nghĩa và đúng tinh thần bài thơ:

MỚI RA TÙ, TẬP LEO NÚI

Mây ôm dãy núi, núi ôm mây

Lòng sông như gương, trong sạch, không bụi

Bồi hồi, một mình dạo bước trên đỉnh núi Tây Phong

Xa xăm trông trời Nam, nhớ người cũ

MỚI RA TÙ, TẬP LEO NÚI

Mây ôm, dãy núi ôm mây

Gương sông sạch chẳng mảy may bụi hồng

Bùi ngùi dạo đỉnh Tây Phong

Trông vời cố quốc, nhớ lòng bạn xa.

Nếu cách hiểu của nhà văn Sơn Tùng là về tình yêu nam nữ, thì đây lại về tình đồng chí cách mạng:

Rất cần thiết phải nhấn mạnh hai chữ “trùng sơn” (dãy núi) để thấy cả hai câu thứ nhất và thứ hai là tả cảnh, nhưng đồng thời cũng là một ẩn dụ, thể hiện lòng mong ước phút giây gặp lại, Bác Hồ cùng các đồng chí vốn thân cận ôm chầm lấy nhau, như mây trắng ôm chầm lấy các ngọn núi đứng liền nhau và các ngọn núi ấy cũng ôm chầm mây trắng; tình cảm của họ như lòng sông không chút bụi bặm quyền lợi (“bụi hồng”). Hai chữ “cố nhân”, nguyên nghĩa là “người cũ” (người vốn thân quen từ trước), có lẽ phải dịch là “bạn xa” (bạn đang xa cách) .

Sau khi sáng tác bằng chữ Hán, tự dịch ra tiếng Việt mẹ đẻ, vẫn bị câu thúc bởi vần luật, thể điệu, nên có lắm khi không thể toát hết tinh thần, ngữ nghĩa. Đó cũng là tình trạng chung của các nhà thơ song ngữ, như trường hợp Nguyễn Khuyến, ở một số bài nào đó.

14:30, 06-4 HB9 ( 2009 )

TXA.

__________________

(*) Bài phỏng vấn do nhóm phóng viên Tuần báo Văn Nghệ thực hiện (Hà Nội, 15-3-2009):

http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=6946

14:30, 06-4 HB9 ( 2009 )

WebTgTXA.

(**) 14-4 HB9: http://tranxuanan.writer.2.googlepages.com/tho_nvt-vnvcnthvttuong_18.htm

_____________________________

Bài phản hồi nhỏ này đã đăng trên điểm mạng toàn cầu Phong Điệp:

http://www.phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=6984

_____________________________

07-4 HB9: Câu thứ 3 có thể dịch sát nghĩa hơn: “Bùi ngùi lẻ bước đỉnh Phong (”Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh“).

______________________________

08-4 HB9:

MỚI RA TÙ, TẬP LEO NÚI

Dãy núi ôm mây, mây khoác (*) núi

Lòng sông gương sáng bụi không nhòa

Bồi hồi, Phong Lĩnh mình ta dạo (Đỉnh Phong, lẻ bước bồi hồi dạo)

Trông lại trời Nam, nhớ bạn xa.

(Đề xuất điều chỉnh bản dịch của Nam Trân [?])

—————–

(*) Có lẽ nên dùng chữ VỖ để thay chữ KHOÁC (quàng, choàng): Dãy núi ôm mây, mây VỖ núi

WebTgTXA. ( 12-4 HB9 )

11.              

April 12, 2009 at 3:11 pm

Tham khảo:

Tạp chí Hán Nôm, số 1-2001:

http://www.hannom.org.vn/web/tchn/data/0101v.htm

NHỮNG ĐIỀU TA CHƯA BIẾT VỀ

NGỤC TRUNG NHẬT KÝ CŨNG NHƯ VỀ

QUÁ TRÌNH DỊCH THƠ NGỤC TRUNG NHẬT KÝ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

TRẦN ĐẮC THỌ

Nhân một dịp được đi nghỉ ở Quảng Ninh ba tuần lễ, có nhiều thì giờ nhàn rỗi, tôi đã sang Hòn Gai tìm mua sách báo về đọc, trong số đó có cuốn Nhật ký trong tù (NKTT) của Bác Hồ, tái bản năm 1983. Tôi có quyển NKTT in lần đầu tiên năm 1960, nhưng vẫn mua quyển vừa nói để xem có gì khác trước, vì tôi có bản chụp nguyên tác của Bác Hồ với tiêu đề Ngục trung nhật ký (NTNK), tôi đã đọc kỹ và khi đem đối chiếu với bản dịch, tôi có những thắc mắc mà mãi đến nay vẫn chưa được giải đáp. May ở thư viện nhà nghỉ có bản in năm 1960, nên việc so sánh cũng thuận tiện.

Nhân tu chính các bản dịch của các Nhà xuất bản mà có nhiều người có ý kiến, tôi đã xem lại bản dịch đầu tiên của Nhà xuất bản Văn hóa phát hành vào dịp kỷ niệm Bác Hồ tròn 70 tuổi (19-5-1960). Lần phát hành ấy, bản dịch chỉ có 114 bài (kể cả 1 bài không có trong NTNK là bài Mới ra tù tập leo núi). So với nguyên tác 133 bài, lần xuất bản năm 1960 đã để lại 20 bài không dịch.

Kể từ năm 1960, hàng triệu bản đã được ấn hành để dùng trong các trường Phổ thông trung học và Đại học, song nội dung vẫn sử dụng bản dịch năm 1960 nên vẫn còn những chỗ thiếu, chỗ dịch sai… thậm chí có chỗ còn sửa văn của Bác. Đó là một điều không thể chấp nhận về mặt văn bản học. Bản năm 1983 có dịch thêm mấy bài, song các bài đã dịch từ năm 1960 hầu như vẫn giữ nguyên như cũ.

Có lần tôi đã tìm hỏi đồng chí Vũ Kỳ là Bí thư của Bác Hồ (Theo quy định, đồng chí Vũ Kỳ có nhiệm vụ nhận những công văn, giấy tờ, kể cả thư riêng gửi lên Bác và khi Bác trả lời cũng do Văn phòng đồng chí Vũ Kỳ vào sổ, nhập phong bì chuyển đi). Đồng chí Vũ Kỳ cho tôi biết: “[đồng chí] không hề nhận được giấy tờ của ai xin ý kiến sửa đổi thơ Bác”, và tất nhiên cũng không có hồi âm của Bác chuyển qua đồng chí Vũ Kỳ. Duy, khoảng đầu năm 1960, Văn phòng Phủ Chủ tịch có nhận được bản thảo tập NKTT đã được dịch ra thơ quốc văn với đề nghị “Bác xem và cho ý kiến”. Đồng chí Vũ Kỳ vội mang trình với Bác, Bác không xem và bảo: “Chú đọc cho Bác nghe mấy bài”. Đồng chí Vũ Kỳ mở tình cờ mấy trang và đọc cho Bác nghe. Được 3 bài, Bác ra hiệu ngừng và nói: “Chú trả lại ngay cho nơi gửi” và nói; “Thơ các chú dịch hay hơn thơ Bác”. (Lời đồng chí Vũ Kỳ, có được ghi âm).

Tôi nghĩ tìm hiểu được Bác Hồ viết nhật ký như thế nào và số phận tập Nhật ký đã lênh đênh ra sao cũng là một điều bổ ích và lý thú.

Tháng 9 năm 1996, trong cuộc họp Kỷ niệm 50 năm ngày thành lập ủy ban Hành chính Bắc Bộ (1946 - 1996) có các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Xiển… dự, tôi được gặp cụ Hồ Đức Thành(1). Cụ Thành năm ấy đã 85 tuổi, từng làm Biện sự xứ ở Long Châu (Trung Quốc) để giúp các tổ chức cách mạng Việt Nam cuối những năm 30, đầu những năm 40 thế kỷ này khi cần liên hệ với chính quyền của Tưởng Giới Thạch. Công khai, cụ còn đi dạy chữ Hán cho học sinh Trung Quốc để lấy tiền hoạt động.

Mùa hè năm 1943, cụ đã về Lam Sơn (Cao Bằng) gặp đồng chí Lã tức Bắc Vọng, tức Hoàng Đức Thạc là Bí thư Liên tỉnh ủy Cao - Bắc – Lạng. Cụ đã báo cáo tình hình công tác của mình ở Long Châu, được đồng chí Lã cho nghe tình hình trong nước, giao cho một số nhiệm vụ, trong đó có việc “bằng mọi cách tìm ra tung tích Ông Cụ (Bác Hồ); Kết quả ra sao, báo tin về nước ngay”. (ở nhà lúc ấy, nghe phải một nguồn tin thất thiệt cho là Bác Hồ không còn nữa, nên ai cũng lo lắng, bán tín bán nghi).

Trở lại Long Châu, cụ Hồ Đức Thành vội đến tìm hiểu ở các nhà chức trách Trung Hoa dân quốc, song không ai biết tin gì (Lúc này, Bác Hồ của chúng ta đang trên đường bị “đệ giải” loanh quanh hết huyện này sang huyện khác của tỉnh Quảng Tây, nên không ai rõ tung tích). Mãi đến đầu trung tuần tháng 9 năm 1943, họ mới cho biết Hồ Chí Minh đã được trả lại tự do tại Liễu Châu. Cụ Hồ Đức Thành vội thu xếp đi Liễu Châu ngay và đã được gặp Bác Hồ ở Hợp tác xã của Đệ tứ Chiến khu do Trương Phát Khuê làm Tư lệnh.

Như vậy, cụ Hồ Đức Thành được gặp Bác Hồ vào khoảng cuối trung tuần tháng 9 năm 1943 sau khi Bác Hồ được trả tự do độ 9, 10 ngày và là một trong số ít người được gặp lại Bác sớm nhất, sau khi Bác ra tù. Bác Hồ, theo lời cụ Hồ Đức Thành, lúc ấy rất yếu, đi không vững. Bác được họ bố trí cho ở ngay trong Hợp tác xã quân đội (giống như kiểu các “căng tin” của ta thời bao cấp, có tổ chức bán cơm bữa cho ai muốn dùng). Bác Hồ được hưởng chế độ ưu đãi, nên có lúc ngồi ăn chung với các sĩ quan của Tướng Trương Phát Khuê(2).

Đồng chí Hồ Đức Thành với cương vị là Biện sự xứ, hằng ngày được vào Hợp tác xã gặp Bác Hồ, có khi ở lại cả ngày. Chuyến ấy, đồng chí Hồ Đức Thành ở lại Liễu Châu khoảng 20 ngày. Đồng chí báo cáo với Bác Hồ tình hình công tác ở Long Châu, nghe Bác Hồ giảng giải, phân tích những điều chưa hiểu rõ hoặc làm chưa tốt trong công tác Cách mạng ở hải ngoại, nghe Bác nhận xét về một số nhân vật Trung Hoa dân quốc ở Quảng Tây, về các hoạt động của Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam… Được độ hai tuần lễ, câu chuyện vãn dần. Căn buồng của Bác Hồ chỉ rộng hơn 10 mét vuông, có kê một giường gỗ không đến nỗi hẹp lắm, một bàn nhỏ và một ghế gỗ. Một bận đồng chí Hồ Đức Thành và Bác Hồ cùng nằm trên giường nhìn lên trần nhà, đột nhiên Bác hỏi Hồ Đức Thành: “Chú có đếm được số ngói trên trần không?” Hồ Đức Thành nhìn kỹ lại rồi đáp: “Thưa Cụ, tôi chịu”. Bác Hồ liền nói: “Thế mà tôi đếm được đấy; tôi chia mái ngói ra từng ô nhỏ rồi đếm, nhân lên và cộng lại”.

Có lần, Bác hỏi Hồ Đức Thành: “Chú có làm thơ không?” - “Thưa Cụ có”, đồng chí Hồ Đức Thành đáp.

- “Chú đọc tôi nghe một bài!” - Hồ Đức Thành dè dặt thưa: “Thưa Cụ, bài này tôi mới làm, chưa được hoàn chỉnh, xin Cụ phủ chính cho ạ!” Rồi Hồ Đức Thành đọc:

THĂM BÁC VỪA THOÁT NẠN

Nhớ Bác những ngày tại Liễu Châu,

Ra tù mươi bữa khóc ôm nhau!

Thân hình gầy guộc đi không vững,

Mái tóc lưa thưa lại lở đầu.

Đôi mắt lung linh ngời ánh sáng,

Từng lời ấm ấp đậm tình sâu.

Gông cùm, xiềng xích không lay chuyển,

Quyết dựng cơ đồ, chí vút cao!

- “Hừ ! chú này thật đa sự !” Bác nói, rồi chuyển ngay sang chuyện khác.

Chính ở thời điểm này, một buổi sáng, Bác Hồ đã cho đồng chí Hồ Đức Thành xem tập Ngục trung nhật ký. Nó được đóng bằng những tờ giấy báo cắt ra khâu lại, chữ được viết bằng bút máy, khổ giấy to hơn quyển NTNK bằng giấy bản, hiện lưu trữ ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Xét về mặt văn bản học, quyển mà đồng chí Hồ Đức Thành xem mới đích thực là chính bản; bản lưu trữ hiện nay ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam chỉ là á bản. Theo lời cụ Thành, khi chép lại, Bác Hồ có sửa. Chẳng hạn, bài Khai quyển, bài mở đầu tập NTNK đã được Bác Hồ viết như sau ở chính bản:

KHAI QUYỂN

Lão phu bản bất sính ngâm thi,

Nhân vị ngục trung vô sở vi.

Liêu tá ngâm thi ma tuế nguyệt ,

Ngâm thi đẳng đãi tự do thì.

Bác Hồ khi chép lại, đã sửa thành:

Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,

Nhân vị tù trung vô sở vi.

Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,

Thả ngâm thả đãi tự do thì.

Bác Hồ lại cho các đồng chí Hồ Đức Thành biết: bài Vấn thoại, bài thứ 10 trong tập NTNK, được làm sau khi Bác bị Vương Chi Ngũ(3) chất vấn: “Anh sang Trung Quốc liên lạc với Hán gian hay với Nhật Bản?” Bác đáp: “Tôi là người bị bắt, song tôi có nhân cách của tôi, anh hỏi thế, tôi không trả lời”. Chúng bàn với nhau định mang Bác ra tra tấn. Có tên đã nêu ý kiến: “Tra tấn cũng không khai thác được gì đâu. Chi bằng giải lên cấp trên lĩnh thưởng!”. Nghe cụ Thành kể đến đây, người viết bài này mới rõ lý do Bác Hồ viết đầu đề bài thơ là “Vấn thoại” (Hỏi chuyện) mà không phải là “Vấn cung” vì Bác không chịu nhận mình là kẻ có tội, nên không có gì để cung khai; Bác chỉ một mực cho mình là kẻ bị bắt oan.

Đọc hết tập NTNK, cụ Thành có hỏi Bác Hồ vì sao ở bìa tập nhật ký lại ghi: 29.8.1932 - 10.9.1933. Bác đáp: “Mình muốn đánh lạc hướng, ai hiểu thế nào thì hiểu”.

Nhân tiện tôi có hỏi cụ Thành về việc có người cho rằng trong NTNK, Bác Hồ đã viết sai chính tả nhiều chữ. Bác Hồ thường viết chữ ( ngã: ta) và ( dục: muốn) là 2 chữ không có trong tự điển thông dụng hiện nay. Cụ Thành nói: “Bậy nào ! ở Trung Quốc, chỉ trong các giấy tờ Nhà nước hay trong sách dùng cho học sinh mới bắt buộc phải viết nghiêm chỉnh, ngang bằng sổ ngay (trừ những chữ đã được thay bằng giản thể do Bộ giáo dục quy định). Bình thường viết cho nhau, người ta có quyền viết tắt gọi là “tỉnh bút” (         ). Riêng về chữ “ngã” Bác viết “ ” là một kiểu chữ thảo dùng trong dân dã, nhất là ở hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây là nơi Bác có thời kỳ dài hoạt động Cách mạng, nên không có tự điển thông dụng nào ghi. Bác Hồ viết nhật ký riêng của mình, dùng lối “tỉnh bút” là dĩ nhiên. Trong Trung văn có những chữ nhiều đến trên 30 nét, ai mà nhớ nổi được. Ngay người Trung Quốc có học vấn cao, vẫn phải tra tự điển đối với những chữ nhiều nét hoặc dễ lẫn lộn giữa chữ này chữ kia. Kiểu như ở bên ta, nhiều lúc ta băn khoăn không biết nên viết thế nào cho phải các phụ âm “d”, “gi”, “r”, “s”, “x”, lại phải tra tự điển, mà chữ Quốc ngữ của ta còn đơn giản hơn chữ Trung Quốc nhiều.

Khi về Pác Bó(4), Bác Hồ đã gửi quyển NTNK cho một nhà cơ sở mà không mang theo vào hang, vì sợ giấy bản không chịu được hơi ẩm trong hang. Cơ quan lúc ấy lại đổi chỗ ở luôn nên sau đó, Bác quên bẵng nơi gửi. Chính đồng chí Hồ Viết Thắng, người đồng hương với Bác Hồ, có thời là Bộ trưởng, là Phó Chủ nhiệm ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã phát hiện ra tập nhật ký này và chính tay đồng chí Hồ Viết Thắng đã trao nó lại cho Bác. Đồng chí Hồ Viết Thắng còn nhớ khi nhận được tập nhật ký, Bác đã nói: “Mình cứ tưởng quyển này đã bị mất rồi, may lại tìm thấy” (Phát biểu của đồng chí Hồ Viết Thắng, có được ghi âm).

Có một điều chúng ta không ngờ: Bác đã cho đưa quyển NTNK vào phòng lưu trữ của Văn phòng Trung ương Đảng.

Mọi chuyện chìm vào quên lãng. Chúng ta không biết số phận tập NTNK sẽ ra sao nếu không có những sự việc sau đây: Đồng chí Hùng, người giữ Phòng lưu trữ lại không biết chữ Hán và khi gửi tập nhật ký vào, cũng không ai nói về lai lịch tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nên đồng chí Hùng xếp vào một góc phòng lẫn với những sách vở tài liệu chữ Hán khác.

Phải đến đầu năm 1959, quyển NTNK mới được đồng chí Phạm Văn Bình tình cờ phát hiện ra. Đồng chí Phạm Văn Bình nguyên là Trưởng ban Giáo vụ Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc; đồng chí được phân công giảng về Cách mạng Việt Nam thời kỳ 1939 - 1945, nên đã đến Phòng lưu trữ của Trung ương Đảng đọc thêm tài liệu. Trong một góc buồng tối, đồng chí thấy một đống sách chữ Hán. Đồng chí Bình đã từng học mấy năm chữ Hán ở Trung Quốc, nên sau một lúc lục lọi, đồng chí đã moi ra được quyển NTNK to hơn bàn tay một chút của Bác Hồ. Đồng chí mang ra đưa cho đồng chí Hùng. Đồng chí Hùng không biết là quyển gì. Sau khi nghe đồng chí Phạm Văn Bình giảng giải, đồng chí Hùng mới hiểu rõ giá trị quyển “sổ” có bìa lem luốc mà đồng chí đã giữ bấy lâu nay. Đồng chí Hùng thuận cho đồng chí Bình mượn mang về dịch với điều kiện dịch xong, sẽ nộp cho phòng lưu trữ một bản dịch.

Đồng chí Phạm Văn Bình mang về giao cho đồng chí Văn Phụng là phiên dịch chữ Hán của trường phiên âm và dịch nghĩa. Dịch xong đến đâu, đưa lại cho đồng chí Bình đến đấy để đồng chí dịch ra thơ Quốc âm (Đồng chí Văn Phụng không biết làm thơ). Khi dịch thơ, đồng chí Bình lấy bút danh là Văn Trực; gặp chỗ nào ngờ ngợ về ngữ nghĩa đồng chí Phạm Văn Bình lại tranh thủ ý kiến cụ Phó bảng Bùi Kỷ khi ấy đang là học viên ở trường, và các nhân sĩ trí thức trong lớp.

Khi dịch xong 133 bài thơ trong NTNK, đồng chí Bình mang báo cáo với đồng chí Trường Chinh thường có giờ giảng ở trường. Đồng chí Trường Chinh khuyên nên đưa cho đồng chí Tố Hữu, hồi đó là Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, Bí thư Học ủy của trường, lại là một nhà thơ. Một sáng chủ nhật, đồng chí Phạm Văn Bình đã đến nhà đồng chí Tố Hữu lúc ấy còn ở phố Lý Thường Kiệt, song không gặp. Đồng chí Bình viết thư và để toàn bộ tập tài liệu lại. Vào 5 giờ chiều hôm ấy, đồng chí Tố Hữu đã cho xe xuống đón đồng chí Bình. Đồng chí Bình đến nơi đã thấy hai đồng chí Đặng Thai Mai và Hoài Thanh đến trước. Cuộc họp ngắn gọn. Đồng chí Tố Hữu giao nhiệm vụ cho Viện Văn học (hồi đó đồng chí Đặng Thai Mai là Viện trưởng, đồng chí Hoài Thanh là Viện phó). Về cơ quan, hai đồng chí đã giao cho đồng chi Nam Trân cùng làm việc gấp với đồng chí Phạm Văn Bình để kịp sang năm 1960, có thể phát hành sách vào dịp Bác Hồ tròn 70 tuổi (19 - 5 - 1960). Hai đồng chí Phạm Văn Bình và Nam Trân sau khi hoàn thành nhiệm vụ, đã nộp bản thảo cho Viện Văn học.

Vào dịp kỷ niệm sinh nhật Bác Hồ năm ấy, cuốn sách được phát hành rộng rãi. Đồng chí Bình không thấy tên mình được nhắc tới trong cuốn sách dịch, dù chỉ một lần. Đồng chí Bình có hỏi đồng chí Nam Trân. Đồng chí Nam Trân nói có lẽ sơ suất tại Nhà xuất bản. Công việc chấm dứt ở đó với nỗi niềm không mấy vui của đồng chí Phạm Văn Bình (câu chuyện này cũng được ghi âm).

Sau đó các Nhà xuất bản Giáo dục, Đại học và Trung học chuyên nghiệp dựa vào bản dịch năm 1960, hàng năm ấn hành để dùng trong các nhà trường.

Phải đến năm 1990, 1991 mới có những bản dịch trọn vẹn 133 bài thơ trong NTNK của Viện Văn học và Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Riêng bản của Viện Văn học vẫn đưa thêm bài “Tân xuất ngục, học đăng sơn” vào trong tập NKTT thành ra 134 bài. Việc dịch trọn vẹn NTNK là yêu cầu của đồng chí Trường Chinh khi đồng chí là Chủ tịch nước. Bản của Viện Văn học có bổ sung, sửa chữa một số bài. Bản của Nhà xuất bản Khoa học xã hội có dịch lại gần ba phần tư các bài thơ đã dịch trước đây.

Tôi không hiểu tại sao Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin tháng 8 năm 1996 lại cho ra đời một cuốn NKTT chỉ có 114 bài (kể cả bài Mới ra tù tập leo núi không có trong NTNK). Như vậy còn thiếu 20 bài không dịch. Tất cả những bài in trong NKTT lần này hầu như đều lấy nguyên văn bản dịch năm 1960 của Viện Văn học. Không những thế, lại còn bỏ cả những chú thích của Bác Hồ, đảo lộn trật tự các bài thơ, không tôn trọng trật tự vốn có của nguyên tác mà tác giả đã ghi và đánh số cẩn thận.

Trong NTNK, Bác Hồ dùng nhiều phương ngữ Quảng Đông là nơi Bác đã hoạt động nhiều năm, đã từng viết bài cho các báo Trung Quốc ở tỉnh ấy. Bác bị bắt ở Quảng Tây một cách vô cớ, bị giam lẫn với các tù nhân Trung Quốc cũng nói tiếng Quảng Đông (ở Quảng Tây từ Quế Lâm trở xuống nói tiếng Quảng Đông). Các bản dịch cũ không chú ý tới điểm này nên đã có bài hiểu sai ý Bác và đã sửa cả thơ Bác khi không tìm được xuất xứ.

Bài viết này nếu ngừng ở đây sẽ là một thiết sót lớn nếu không nhắc lại ý kiến của đồng chí Tố Hữu, một người đã theo dõi việc tổ chức dịch và in cho kịp ngày thượng thọ 70 tuổi của Bác Hồ. Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1998, tôi đã được đồng chí Tố Hữu tiếp chuyện. Nhà thơ của chúng ta rất khỏe, vui và cực kỳ minh mẫn. Tự nhiên nhà thơ lại đề cập đến bài thơ Đường Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế. Chúng tôi cùng trao đổi về bài thơ ấy đến hai mươi phút. Sau đó, đồng chí mới nói đến thơ chữ Hán của Bác Hồ, đúng vào vấn đề mà tôi đang muốn tìm hiểu. Tôi đã nêu một số câu hỏi và được đồng chí trả lời như sau:

1. Xác nhận đồng chí Phạm Văn Bình là người có công phát hiện tập NTNK bị bỏ quên ở kho lưu trữ của Trung ương Đảng, tổ chức phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ.

2. Đồng chí Tố Hữu đã giao cho đồng chí Đặng Thai Mai và đồng chí Hoài Thanh, Viện trưởng và Viện phó Viện Văn học chịu trách nhiệm xem lại bản dịch của đồng chí Bình để kịp phát hành sách vào dịp 19 - 5 - 1960.

3. Đồng chí Nam Trân cùng với đồng chí Phạm Văn Bình đã cùng nhau biên tập lại tập NKTT đã được dịch nghĩa và dịch thơ.

4. Bác Hồ không biết tập nhật ký của mình đang được mang dịch, nên việc nói Bác đồng ý cho sửa chữ này chữ nọ là không đúng. Bác không quan tâm nên sau khi sách được phát hành, Bác cũng không hề đọc, coi như chuyện đã qua.

5. Đồng chí Tố Hữu đã dịch lại hoàn toàn bài thơ Tình thiên mang số 130.

6. Đồng chí Tố Hữu có lần hỏi Bác về việc làm thơ ở trong tù, Bác bảo: “Trong tù không có việc gì làm nên làm thơ cho qua ngày tháng, cho họ biết mình bị bắt oan, mình chỉ là một người yêu nước thôi”.

7. Bác Hồ chưa bao giờ trao đổi với đồng chí Tố Hữu về một bài thơ nào và của ai.

8. Bác Hồ hay làm thơ chữ Hán vì chữ Hán súc tích, lời ít ý nhiều, lại có nhiều điển để diễn tả.

9. Bài thơ Đi thuyền trên sông Đáy không phải của Bác Hồ. Có lẽ bài này là của đồng chí Xuân Thủy. Bác Hồ chưa một lần đi thuyền trên sông Đáy, làm sao lại có thơ được?

Cuối cùng, trước khi chia tay, đồng chí Tố Hữu cho biết chưa bao giờ đồng chí làm thơ nhiều như bây giờ vì lúc này tâm hồn thanh thản, không lo nghĩ gì (Thơ thường gửi đăng ở báo Nhân dân và báo Văn nghệ).

CHÚ THÍCH

(1) Hồ Đức Thành: một nhà hoạt động cách mạng rất sớm, năm nay cụ 89 tuổi. Đầu năm 1946, cụ được bầu vào Quốc hội khóa I và làm đại biểu Quốc hội trong 14 năm. Cụ được cử làm ủy viên ngoại giao của ủy ban hành chính Bắc Bộ để đối phó với quân Tưởng sang giải giáp quân đội Nhật.

(2) Xem cuốn Đầu nguồn, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1975, tr.416.

(3) Vương Chi Ngũ (             ): Đại tá đặc vụ Trung Hoa dân quốc, có sang Việt Nam công tác trong Bộ Tư lệnh giải giáp quân đội Nhật. Chi Ngũ có đến yết kiến Bác Hồ. Bác có tiếp và giao cho ủy viên ngoại giao UBHC Bắc Bộ Hồ Đức Thành chiêu đãi.

(4) Pác Bó: tiếng Tày, có nghĩa là “miệng nguồn”. Thường bị gọi nhầm là Pắc Bó.

TRẦN ĐẮC THỌ

Tạp chí Hán Nôm, số 1-2001:

http://www.hannom.org.vn/web/tchn/data/0101v.htm

______________________________________

Tham khảo:

GS.TS. Nguyễn Lân Dũng giới thiệu cuốn “Thưởng thức Ngục trung nhật ký của Hồ Chủ tịch” do Nguyễn Thế Nữu chủ biên, Nxb. Nghệ An, 2007, trên web Sách Hay:

“Bạn đọc thích thú được nhìn thấy bản sao nguyên gốc thủ pháp của Bác Hồ trong từng bài thơ của “Ngục trung nhật ký”, từ trang 1 đến trang 132 của nguyên tác. Cuối sách Bác Hồ ghi rõ: 9/8/1941-10/9/1943. Ngoài ra còn bút tích của bài thơ “Tân xuất ngục học đăng sơn” (Mới ra tù tập leo núi). Bài thơ này vốn không có trong “Ngục trung nhật ký”. Bác viết bằng nước cơm trên lề một tờ báo gửi về nước để các đồng chí ở nhà lấy thuốc iod hiện chữ lên mà đọc, nhằm thông báo là Bác đã được trả tự do và đang tập trèo núi để sớm có thể về nước. Vì tờ báo bị thất lạc nên bài thơ chỉ còn trong trí nhớ của Bác; năm 1960 Bác viết lại theo yêu cầu của Viện Văn học và đồng chí Trường Chinh đề nghị được đưa bài thơ này vào cuối tập “Ngục trung nhật ký”, coi như bài tổng kết tập thơ”.

http://www.sachhay.com/book/20080610912/nhat-ky-trong-tu.aspx

12.              

txa said

April 13, 2009 at 10:07 pm

Ý KIẾN NGƯỜI ĐỌC:

“Bài thơ ‘Đi thuyền trên sông Đáy’ không phải của Bác Hồ. Có lẽ bài này là của đồng chí Xuân Thủy. Bác Hồ chưa một lần đi thuyền trên sông Đáy, làm sao lại có thơ được?” (Trích: Trần Đắc Thọ, bài trên)

Không nhất thiết phải đi thuyền trên sông Đáy mới làm được bài thơ ‘Đi thuyền trên sông Đáy’! Tố Hữu không tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ vẫn có thơ về trận Điện Biên Phủ nổi tiếng.

LVHLH.

 

 

 

______________________________________________________________

 

17-4 HB9 (2009)

 

 

 

Google page creator /  host

 

GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE  

 

    lên đầu trang (top page)