m. Trần Xuân An - Mùa hè bên sông - Tệp 13a

author's

copyright

 

trần xuân an

MÙA HÈ BÊN SÔNG

tiểu thuyết

1997 & 2003

 

 

06/29/09

        

   

 

TRẦN XUÂN AN

 

 

 

m ù a 

 h è

 b ê n

  s ô n g 

    

(nỗi đau hậu chiến)

 

tiểu thuyết

 

 

nnhà xuất bản  

 

1997 & 2003

 

 

     

CHƯƠNG XIII

(phần A)

 

 

Hiền Lương cảm thấy chưa bao giờ cô hồi hộp, xúc động đến thế, khi nhận được phong thư của Hành gửi từ Đông Hà ra, qua một người cùng làng vừa đi chợ trong đó về. Hồi hộp, xúc động, cô cũng hơi ngờ ngợ và thất vọng, bởi ngay phút đầu, thoáng nhìn bao thư, thấy không phải là một lá thư bình thường của một chàng trai gửi một cô gái để nói lời khó nói, vốn là một hình thức cổ xưa nhất nhưng có lẽ chưa lỗi thời bao giờ. Không ai gửi một lá thư tỏ tình lại dày cộp với phong bì công văn như thế! Phong bì lại không dán keo nữa!

Hiền Lương khẽ cảm ơn người đàn ông luống tuổi cùng làng, không phải lần đầu cô gặp nhưng đây là lần thứ nhất cô với ông ấy đứng đối diện, trao đổi vài lời. Người đàn ông lại lên xe gắn máy, sau khi nói không có gì, với nụ cười thân thiện. Cô đi ngay vào nhà, ra gốc cây trứng gà, cố giữ vẻ bình thản trước đôi mắt khá tinh nghịch của cô bé Bông Bưởi.

Như một phản xạ rất con gái, Hiền Lương đâm ra giữ kẽ để khỏi bị Bông Bưởi coi thường. Tuy đã nằm trên võng, phong bì ở tay, cô cũng chưa vội lấy thư ra để đọc. Một lát khá lâu, Hiền Lương mới khẽ mở bao thư.

Cô nén tiếng thở dài thất vọng thật sự. Hoá ra đó là những trang văn thơ được xếp chữ vi tính, với mấy dòng chữ viết tay của Hành trên một tấm giấy bìa cỡ bằng bàn tay!

 

Hiền Lương thân mến,

Vào Đông Hà, anh phải vào ngay khoá học. Hết sức cập rập.

Tối hôm qua, anh ghé nhà một người bạn, lấy lại mấy trang bản thảo của Trần Nguyễn Phan, bạn anh, từ Tp. HCM. gửi ra đã lâu, lâu nay cho người bạn ấy mượn đọc. Nhân tiện, nhà người bạn có máy vi tính và tập Lặng lẽ ở phố của Trần Nguyễn Phan, anh gõ vội mấy bài thơ trong tập ấy để Hiền Lương lưu ý đọc, mặc dù Hiền Lương hẳn cũng đang có tập ấy trong tay. Nhân tiện, cũng gõ phím vi tính cho vui vậy thôi, nhưng nghĩ rằng đọc thơ với hình thức trình bày mới, so với bản sách đã xuất bản, nó cũng cho mình một cảm giác mới, đôi khi mình lại có những phát hiện mới, rất không ngờ.

Mong sẽ có buổi tối nào tranh thủ ra làng thăm Hiền Lương, trước khi Hiền Lương và bác gái vào lại Thủ Dầu Một, Bình Dương.

Chúc vui và khoẻ.

Hành.

 

Hiền Lương gượng mỉm cười một mình. Cho dù chưa phải là lá thư tỏ tình như đã vội ngỡ thế, nhưng cô không thể không thấy Hành rất quan tâm đến mình. Điều đó khiến Hiền Lương cảm thấy không lạnh hẳn trái tim, trái tim mươi phút trước đây gần như nóng bừng chất rượu.

Dưới bóng râm cây trứng gà rợp mát, Hiền Lương đọc một bút kí của Trần Nguyễn Phan (I.116), bài đã đăng ở tập san - kỉ yếu của một trường trung học, nhưng có sửa chữa, bổ sung thêm, trong tâm trạng đã phần nào thanh thản. Bút kí như một bài thơ văn xuôi, có nhiều câu chỉ là một ngữ.

 

TRẦN NGUYỄN PHAN

Một chút tự bạch:

Giữa vòng tay Tam Kỳ

và bè bạn

 

bút kí

 

yêu quá dáng người nết đất

nơi nơi xa thành thiên thai

(Quê quán,

trong tập thơ “Lặng lẽ ở phố”, 1995)

 

Kính tặng cha tôi,

một người yêu quê hương, Đất nước, theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam,

được miễn học tập cải tạo sau Ngày Thống nhất 30.04.1975.

 

Tặng: Nguyễn Đăng Chín, Cao Văn Phi, Nguyễn Tấn Sĩ, Hoàng Thị Nhụy, Phạm Dương Nam, Võ Công Thảo, Nguyễn Ngọc Khôi, và cộng tác viên thân thiết của nhóm bút: Huỳnh Ngọc Chiến, Trần Ngọc Thọ.

 

a

 

Học xong lớp đệ lục ở Quảng Trị, mười hai tuổi rưỡi, Phan lần đầu đến Tam Kỳ và có một mùa hè thị xã. Nhưng mãi đến mùa hè năm sau, khi từ giã ngôi nhà mà Phan được chào đời, từ giã Hàm Nghi - Quốc tử giám, mái trường cổ kính nhất Huế, cổ hơn cả Quốc Học, chú bé này mới thật sự sống với mảnh đất trung tâm chia đều đường sắt xuyên Việt.

            Một năm học ở Huế với nỗi lẻ loi, chất thơ của xứ sở trầm mặc đã ngấm vào, gọi dậy những rung cảm mơ hồ, nhưng có khi da diết đến tức tưởi, dù rất vô cớ.

Những con đường xanh. Những khu vườn xanh. Những rêu xanh trên thành quách và vàng son cũ với những vết thương lở loét do bom đạn ...

Huế của chú bé Phan không chỉ thế, Huế còn sinh động với nhiều nơi chốn khác.

Những lần lang thang đến nhạc viện, trường kịch nghệ. Những phòng tranh, rạp chiếu bóng. Những lần có giờ trống, cùng bạn bè qua tòa thượng thẩm xem xử án, bị mê hoặc bởi giọng điệu hùng hồn của luật sư. Và những lần bãi khóa, mít tinh, biểu tình, Phan sửng sốt, khâm phục trước tiếng hát, lời cáo trạng chế độ từ lồng ngực sinh viên, rồi ngỡ ngàng trước sự thăm hỏi của dân biểu quốc hội ngụy ...

            Huế của tuổi mới lớn trong Phan như vậy. Huế ấy đã cùng anh vào Tam Kỳ.

            Tam Kỳ nhỏ bé với một đường phố sầm uất duy nhất mang vẻ khô khốc.

            Nhưng chính ở nơi đây, chất thơ tiềm tàng đâu đó trong nắng gắt và đất cằn đã tạo ra một quê hương của nhiều thi sĩ và chí sĩ.

            Bấy giờ, với một cảm thức non nớt, Phan mơ hồ nhận được một điều gì đó không còn sương khói đến mềm ướt hoặc ngỡ như bùng lửa trong không gian quanh mình.

 

b

 

            Nhớ mãi một gò đất hoang chỉ có một túp lều xiêu vẹo và một ngôi miếu cổ bên gốc cây thấp bốn mùa xanh mướt. Đó là nơi tụ tập của lũ trẻ trong xóm. Đứa lớn nhất cũng là đàn anh của nhóm. Anh ấy mồ côi, thuộc nhiều câu thơ bi thảm, u uất, và cả thơ đầy hào khí nữa. Anh say truyện Kiều với rất nhiều bài thơ luận chiến về Kiều.

            Dưới bóng cây trưa, lũ trẻ ngồi nghe anh đọc thơ, bình giảng. Mắt anh mờ đi, có khi gần như khóc, thỉnh thoảng lại chói lên, gần như tóe lửa.

 

                        Em về điểm phấn tô son lại

                        Ngạo với nhân gian một nụ cười!

 

            Dù là chàng trai quá nhiều mặc cảm nhưng anh vẫn rất cảm khái với từ ''Ngạo'' của Thái Can. Giọng Quảng của anh đọc thành ''Ngộ''. Lúc đầu, Phan cứ đinh ninh là anh đã ngộ một chân lí, một triết lí sống để có thể sống được.

            Anh là ''người thầy'' của Phan bên ngoài lớp học.

            Anh không phải là người đầu tiên dẫn Phan đến cửa ngõ của văn triết. Tuổi ấu thơ Phan đã có những hai ''người thầy'' bên ngoài lớp học như vậy. Nhưng anh vẫn là người đã đánh thức cảm quan vần điệu thống thiết lẫn hùng tráng trong tâm hồn Phan.

            Và Phan sau này mới biết gò đất hoang ấy chỉ là một góc nhỏ của Tam Kỳ. Phan còn có ở thị xã này những ''người thầy'' là bạn học cùng lớp, cùng trang lứa nữa.

 

c

 

            Thầy giáo hướng dẫn năm lớp chín của Phan là một tu sĩ dạy công dân giáo dục kiêm cả hai môn sử địa. Tấm áo chùng trắng toát của Thầy với gương mặt khắc khổ của người ăn uống theo lối tân dưỡng sinh, quanh năm gạo lứt muối mè, như mãi khắc vào trí nhớ Phan. Ấn tượng đậm nhất về Thầy còn đọng mãi trong Phan là cái nhếch môi cay đắng gần như cay cú. Có phải nơi Thầy có một tuổi trẻ bừng sôi máu nóng nhưng thời cuộc đã dập tắt, nên Thầy tìm đến kinh kệ và trường chay để nguôi quên hơn là tìm đường siêu thoát?

            Những bài giảng về các thể chế chính trị, về kinh tế với các hình thái, về lịch sử và các vùng địa lí, hầu như bao giờ cũng đượm lẫn một tâm trạng u uẩn.

            Khi Thầy đã nhập hồn vào bài giảng, không ai còn nhớ đến tấm áo chùng trắng toát tu sĩ nữa. Thầy cực kì cay đắng với lịch sử cận hiện đại và thời cuộc (1858 - 1973). Đặc biệt, khi giảng về Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, hai nhà chí sĩ kiên cường của quê hương Thầy, Thầy như bị thôi miên bởi chính mình. Ngữ điệu, hình ảnh trong lời văn giảng bài của Thầy vừa cường điệu tạo ấn tượng mạnh, vừa biếm lộng đến chua chát, cay độc, khi chĩa thẳng vào chế độ ngụy Miền Nam Việt Nam đương thời.

            Lớp Phan vào dịp Tết năm ấy, có một tờ báo tường rực rỡ dựng ngay trước cửa lớp. Lúc ấy Phan và bạn bè nào biết, tâm trạng của Thầy đã phả vào những bài báo non nớt ấy.

            Cảm thức thời cuộc đã được khơi dậy.

            Và một ngày hội cổ truyền, cây nêu dựng lên, học sinh mặc áo dài khăn đóng, bộ quốc phục ngàn năm, được tổ chức riêng ở lớp Phan, như đánh thức một tình tự dân tộc bị ngủ vùi trong nếp sống phảng phất chút híp-pi (hippy) hiện sinh của thị xã. Thầy cũng ngạc nhiên, vì Thầy không đề xướng cách tổ chức buổi tất niên như vậy. Đấy là lớp tự động bàn với nhau. Khi lớp bàn bạc, Phan có kể lại một ngày hội của trường Nguyễn Du ở Huế do nhà giáo cũng là dịch giả thơ Đường, người Tiên Phước, Tam Kỳ, tổ chức. Và lớp hưởng ứng như một mạch ngầm bùng dậy.

            Lớp chín ấy đã tự hình thành một bút nhóm từ bao giờ chẳng rõ. Những say mê toán học, ngoại ngữ đã bị văn chương, báo chí lấn lướt.  

             Đặc san mùa hè năm đó có bìa in ty-pô (typo), ruột rô-nê-ô (ronéo) trên giấy tốt. Những bài văn, thơ chứa chan tình quê hương dân tộc. Người mẹ Việt Nam là hình tượng khơi nhiều cảm xúc nhất. Phan viết về Mẹ mình vì Phan xa Mẹ. Phan viết về Mẹ Việt Nam vì Phan mơ hồ cảm nhận Mẹ đang đau xót trong cảnh đàn con xâu xé nhau giữa một thế cuộc đau lòng trên chính Tổ quốc mình, mà căn nguyên là bởi thực dân Pháp, phát xít Nhật, đế quốc Mỹ và ''tả đạo''.

            Ban báo chí lớp chín năm ấy gồm những tấm lòng, những nỗi niềm thao thức. Và trường tìm trường giao lưu, ''nối vòng tay lớn''.

            Bạn bè cũ còn đó, và mãi còn trong tâm hồn nhau cả những năm tháng sau này:

 

Tam Kỳ, trời rất thơ ca

thoáng mưa non hạt cho già nắng non

phố phường gió rất trẻ con

reo mai ríu rít hát giòn tan đêm

                     

Cây Tam Kỳ rất anh em

chìa trăm nhánh biếc bao thềm nhà thân

nghe bối rối trước ân cần

như có lỗi giữa vô ngần mến thương

                     

Mắt Tam Kỳ rất thật gương

tôi soi thấy thuở đến trường, bâng khuâng

bạn bè trẻ lại, quây quần

ngỡ đang mới lớn, lớn dần trong nhau!...

 

            Bạn bè cũ còn đó, chắc chắn mãi còn đó một mùa hè dẫu bình thường trong một thời buổi đã xa.

            Những nhận thức tuổi ấy còn non nớt biết bao, nhưng những nhiệt tình dễ gì tìm gặp lại trong tâm hồn mình, bởi cuộc sống hôm nay đã khác...

            Có một thời, tuổi mới lớn như thế...

            Dẫu sao, không thể quên được người tu sĩ với tấm áo chùng trắng toát, trường chay khắc khổ, mang một tâm trạng thường xuyên chua chát, nặng nợ với Đất nước, xã hội hơn là đạo pháp, đạo hữu.

 

d

 

            Tam Kỳ đã thật sự dẫn dắt Phan và bạn bè chí cốt của mình đến với văn chương.

            Ban C (văn chương - ngoại ngữ) năm trước đã có một lớp và đã xuất hiện hai người thơ trẻ trên tập san văn học lớn của cả Miền Nam (Nguyễn Nhật Ánh, và Nguyễn Văn Dũng, tức Luân Vũ, về sau đổi là Ngữ Luân). Năm nay, lớp mười cấp trung học phân ban, ban văn chương - ngoại ngữ có một bút nhóm gần như đông đủ từ lớp chín. Đây là bút nhóm của khuynh hướng trữ tình phê phán với tâm nguyện vì tình tự dân tộc.

            Tên của bút nhóm nẩy sinh một cách tình cờ nhưng không tình cờ chút nào từ bài dân ca xứ Quảng. Bắt đầu là rung cảm trước vẻ đẹp của từ ngữ giản dị và làn điệu dân ca lạc quan đùa nghịch. Khi tách riêng ra, thành một cái tên, lại đượm những tâm trạng với nhiều ý nghĩa khác hẳn. Đó là Đất Mẹ, là Màu Da - biểu tượng của Cao Quí Thiêng Liêng. 

            Bài dân ca ấy từ trong dĩ vãng, trong tiềm thức của quê hương ruộng rẫy đã cất vang lên giữa sân trường trung học một đêm mưa lạnh, bập bùng tiếng đàn ghi ta thùng và bập bùng ánh lửa. Nhóm sinh viên cứu trợ nạn nhân bão lụt Quảng Đà đang tìm về với quê nhà, hong ấm lại tình quê, tình nước trong cơn đói rét. Suốt một tuần lễ, tay kìm, tay búa, cuốc và rựa, học sinh, sinh viên tìm về với dân tộc. Chỉ ở nông thôn, với lũy tre xơ xác, mái rạ xiêu vẹo, với bao người mẹ, người cha khốn khó, bao đứa trẻ bụng ỏng da chì, tình đồng bào ruột thịt, tình tự dân tộc mới thực sự được giữ gìn và còn mãi ấm nóng. Đó là một ngoại khóa mà không bài giảng nào có thể mang lại một chất lửa như thế.

            Trong trái tim Phan và bạn bè, chừng vang lên hành khúc, tiếng gọi, để trong những đêm sau đó, còn vọng lên từ đáy lòng mình lời đáp: ''Tổ Quốc ơi, con đã nghe!'', còn văng vẳng lời bài hát do Thầy hướng dẫn lớp sáng tác: Hành khúc Trần Cao Vân.

            Bút nhóm thực sự hình thành, đi vào hoạt động. Có một người bạn gái cùng lớp xin gia nhập nữa. Không ai bảo ban, chỉ vẽ. Như một cụm cây tự mọc, tự đâm rễ, bật chồi. Chỉ là một cụm cây bình thường giữa những phong trào gây sóng gió trong lòng đất một cách cũng bình thường lúc bấy giờ. Phong trào du ca sinh hoạt ở các chùa chiền. Phong trào viễn mơ như khát vọng trốn thoát thực tại. ''Đất Vàng'' (Đất nước - dân tộc da vàng) lại nhìn thẳng vào sự thật của thời mình sống, nhìn thẳng vào thao thức của chính tuổi học trò đam mê văn chương của mình...

Có một thời, tuổi mới lớn như thế...

            Những trưa rất thơ ca cùng nhau lang thang trên đường đê ngợp bóng hoa vàng, bên con sông lấp lóa cát và nước.

            Những chiều làm thơ trong vườn ổi An Thổ xanh ngát, thơm lừng mùi mật mía từ các lò đường, mùi dầu phụng từ các xưởng thủ công, tưởng chừng làm đôi khoảng không gian ven đường làng đặc lại.

            Những tứ thơ bất ngờ bật ra dưới bóng rừng dương liễu nhìn ra chiếc cầu đường sắt han gỉ, trong những chiều hôm sau ngày sinh hoạt hướng đạo.

            Những đêm thức trắng bên bàn viết.

Nhà Nguyễn Tấn Sĩ như một trại sáng tác. Ông cụ của Nguyễn Tấn Sĩ lại thấy tuổi học trò đam mê văn chương của mình.

            Những đêm đầy ắp hương thị vàng thơm và tiếng lá xạc xào sau nhà ...

            Bài vở nộp lại, tìm đến căn gác thầy Nguyễn Văn Bổn (Tần Hoài Dạ Vũ) - một nhà thơ phản chiến, chống Mỹ, yêu nước, nổi tiếng trên báo chí công khai lúc ấy. Có lẽ thầy Bổn ngạc nhiên nhưng biết đó là tất nhiên, vì bài giảng và thơ của thầy đọc trong lớp luôn có lửa.

            Có một thời, ngọn lửa dân tộc được truyền đi như thế. Truyền, và biết chắc lửa sẽ được nối tiếp truyền đi. Bởi từ lâu lắm rồi bối cảnh xã hội đã chuẩn bị cho những tấm lòng...

            Có một thời, tuổi mới lớn như thế...

            ''Tổ Quốc ơi, con đã nghe!'', một bản nhạc của phong trào và những bài viết đã được in rô-nê-ô, bìa ty-pô. Cảm ơn ông chủ nhà in, anh ruột của một người trong nhóm. Cảm ơn nhà văn Xuân Tùng không kiểm duyệt dù chức năng bắt buộc như vậy.

            - Khỏi. Cứ in đi!

            Những bích chương với nhiều câu hỏi xoáy vào lòng người do thầy Bổn viết đã được dán đầy ở các cổng trường trung học trong thị xã.

            Báo được treo bán ở các quầy sách.

            Những chuyến đi xa đến các trường trung học ở các quận. Những phút hùng hồn đầy tình tự dân tộc và thao thức xã hội trước các lớp bạn ở các trường.

            Báo với gần 200 bản bán hết vèo trong vài ngày.

            Và số 2 là khát vọng ''Xuân thanh bình''.

            Lại những đêm thức trắng, viết, đánh máy trên giấy sáp.

             Đâu đó có những lời hăm dọa bóng gió, ở các quầy sách, ở quán cà phê chị Được. Báo vẫn ra, số lượng bản nhiều hơn, bài vở khá hơn (dù bây giờ có dịp đọc lại, chắc sẽ thấy quá chừng thô vụng).

            Và đột ngột Phan bị chặn đường, xúc lên xe GMC., đưa vào trại tạm giam. Đêm đó, Phan cứ tin mình chỉ bị bắt vì lí do vi cảnh. Chẳng hiểu sao, một thủ lĩnh học sinh rõ ràng có màu sắc Việt Cộng lại ra nằm ở trại tạm giam, bên cạnh Phan.

            Anh ta ngỡ Phan là Việt Cộng! Phan chỉ trao đổi vu vơ rồi yên tâm ngủ. Vì lúc ấy, đối lập là chuyện bình thường. Tính chất đối lập, đối trọng đã thành một nếp sống, ngay trong các trường trung học tỉnh lẻ.

            Có phải cảnh sát dàn cảnh để tìm đường dây móc nối chăng?

 

đ

 

            Nhiệt huyết bùng lên rồi tự lịm tắt, không ai cấm, không ai trừng trị, dù ngay cả trong gia đình mỗi thành viên của nhóm. Cái chính là sự bế tắc về tư  tưởng...

             Tuổi mới lớn của một thời như thế...

            Và ngọn gió tình yêu đầu đời, năm mười bảy tuổi, lớp mười một, đã thổi dịu những ray rứt, trăn trở.

            Dù trước đó, Phan rất ghét ''viễn mơ'', nhưng khi yêu, Phan lại ''viễn mơ'' như một người không bước trên mặt đất. Thì ra, người ta không thể vượt quá lứa tuổi của mình!

            Phan lênh đênh trong mộng tưởng như sương và khói.

            Những bài thơ tình của Phan thậm chí không phải viết cho người mình đang thật yêu kia nữa. Chừng như Phan có một tiền kiếp nào đó với một người yêu trong tiền kiếp ấy. Thì hiện tại được chia về thì quá khứ xa xăm.

            Trong những tháng năm trước, Phan đã biết rung động với một tình cảm ''hình như là tình yêu''. Mơ hồ. Mong manh. Dễ vỡ.

            Chừng như mỗi người đều có một dáng dung vô thức hình thành khi còn tấm bé từ những huyền tượng trong cổ tích, từ những hình tượng trong văn chương, phim ảnh. Có phải đấy là người trong mộng mà không mấy ai có thể gặp trên đời? Và đời người là một hành trình ngược vào sâu thẳm từng tầng lớp thời gian để nhận diện một gương mặt mơ hồ đã kết tinh từ nhiều nguồn đâu đó, và cũng là hành trình phóng tới tương lai để tìm kiếm không nguôi?

            Người yêu đầu đời của Phan chỉ là cái cớ cho tình yêu ấy có một hình dáng thật. Tình yêu ấy được đan dệt bằng hàng trăm bức thư, mỗi bức như một tùy bút huyền ảo, có khi gần như một loại tân truyện bay bổng không có một chút cơ sở hiện thực nào trong đời sống.

            Cây mộng tưởng ấy không thể sống vì nó làm gì có đất thực tế!

            Tình yêu ấy như một giấc mộng dài gần suốt cả năm học. Phan như một kẻ mộng du trong tình yêu, một tình yêu chỉ làm nẩy nở trí tưởng tượng và làm đẹp câu thơ.

             Đừng trách gì, hỡi niềm yêu dấu cũ, vì ai có thể sống hoài trong giấc mộng, cho dù là giấc mộng ngọt ngào!

            Và tình yêu viễn mơ đến sớm vào tuổi học trò trung học ấy, mãi đến sau này, khi đã trưởng thành, Phan mới biết đó là một sai lầm, không nên có.

 

e

 

            Chừng như tuổi mới lớn nào cũng có những cơn địa chấn. Phan còn có một trận bão lũ khỏa ngập cả đất trời. Cơn đau của mối tình tuyệt vọng tưởng dìm anh vào cái chết. Phan đã quằn người trong niềm đau.

            Cũng mảnh đất Tam Kỳ đó!

            Và may mắn thay, ở Phan chừng như có sẵn tự bao giờ một sức bền chịu đựng. Phan không học kém đi. Học và viết vẫn là phương châm được khắc lên bàn học.

            Với một cách học ''tài tử'', Phan tìm đọc rất nhiều sách, vì học trình ban C đối với Phan tự bao giờ đã quá hẫng nhẹ. Từ lúc bùng dậy đam mê văn triết, trừ ngoại ngữ, Phan thường ít học lại những gì đã nghe được ở lớp, kể cả môn toán.

            Trong những cuốn sách tìm đọc, có một cuốn tình cờ Phan mua được vì rất mỏng nên giá rẻ:

            ''Kẻ Tuẫn Đạo'' của Unamuno (Ibk).

            Hôm đó như một lạ thường, Phan từ nhà Sĩ đi lên, bỗng dưng đâm thẳng qua đường đến tiệm tân dược Ngọc Lan, quặt trái, chứ không quẹo phải như thường lệ. Tiệm sách này không địa lợi lắm và hơi chật chội nên ít người vào.

            Tần ngần trước nhiều cuốn sách nhưng không thể mua vì một lí do dễ hiểu, học sinh có bao giờ đầy túi.

            Sau khi trả tiền cho cuốn sách mỏng và rẻ ấy, Phan về nhà chúi mũi đọc.

            Bàng hoàng như vỡ ra một lẽ thật. Nhưng lạ lùng sao, không có thất vọng đau đớn nào xảy ra trong tâm hồn. Chỉ một địa chấn nhỏ. Có rất nhiều điều người ta đã cảm nhận được nhưng vô thức xua đi, quán tính vẫn ngự trị, và một tác phẩm nào đó chỉ nói lên điều mà vô thức và quán tính bảo phải im lặng như mặc nhiên thừa nhận. Từ mâu thuẫn thăm thẳm không thể nhận biết ấy, người ta vẫn say sưa tìm tòi khám phá khoa học, không chấp nhận một giả thuyết nào chưa được thực nghiệm chứng minh và lô-gích học bảo là hợp luận lí, nhưng vẫn sùng tín những huyền tượng như một thói quen hoặc như một nhu cầu. Và cơ hồ mỗi người đều có riêng một hình ảnh về huyền tượng từ sự tiếp nhận, tái tạo theo lí tưởng thẩm mĩ, lí tưởng sống riêng của mình một cách biện chứng tâm linh, có khi khác xa với nguyên thủy đến không ngờ. Hầu như con người tôn thờ chính khát vọng thăng hoa của mình từ bi kịch của đời sống. Tôn giáo và văn chương nghệ thuật phải chăng có chung cội rễ là Nỗi Đau và ước vọng Giải Thoát, Cảm Thông.

            Sách xác tín giúp Phan một điều còn mơ hồ chưa dám nói và cũng không nên nói làm gì, dù sau này, sách vẫn luôn luôn gợi cho anh sự tự tra vấn để tự giải đáp, như một nỗi-niềm-hoài-nghi-khoa-học không nguôi, cho đến khi anh gặp Spinoza (IIbk).

            Nhưng quả thực, từ lúc ấy, Phan đủ can đảm để sống khác đi. Tâm hồn anh vẫn khát vọng chân lí và sự thật. Ở đời, có ai thích dối trá, cho dẫu là dối trá lương thiện hoặc ''lẽ thật'' qua ngàn năm đã thành dối trá! Đâu riêng gì Phan.

            Phan thân với một tu sĩ Phật giáo. Nhờ là bạn bè cùng lớp, Phan mạnh dạn trao đổi với người bạn tu sĩ ấy. Thì ra, từ rất lâu, Phật giáo đã biết thế nào là huyền thoại và thế nào là ''thực nghiệm tâm linh'', như kết quả của sự tương tác xa xưa giữa Lão học và Thích học (IIIbk).

Vâng, tôn giáo, là một hình thái ý thức chưa thể thay thế, và nó không thể chính-trị-hóa. Cũng không thể tôn-giáo-hóa-chính-trị để thay thế tôn giáo (IVbk).

            Không có tôn giáo chắc chắn loài người không đạt đến mức nhân đạo như ngày hôm nay. Nhưng cũng không có cái gì trưởng thành mà không có tuổi ấu thơ của nó, và ấu thơ thì dĩ nhiên, rất hay huyền thoại hoá!

            Cơn địa chấn, trận bão lũ nào rồi cũng qua đi.

            Có điều, phải chăng vì căn cơ (tạng chất), Phan đau niềm đau tình yêu quá chừng đau đớn, mà sự khám phá qua khải thị của Unamuno về '' Đạo'', dù mang lại sự choáng váng thất vọng, vẫn chỉ là niềm đau xen lẫn với một nỗi niềm không hẳn là buồn!

            Phan lại tự tin hơn trong nhận thức, với một nhận thức nhân sinh, một vũ trụ quan không tôn giáo.

            Có những vùng đất mà ở đó, diễn ra những bước ngoặt của nhận thức, tâm hồn mình, làm thay đổi cuộc đời mình, ngỡ chừng như sống một cuộc sống khác, thì làm sao quên được!

            Hầu như mỗi người có nhiều mảnh đất chôn nhau cắt rốn khác nhau. Những lần sau không phải nhờ cha mẹ, chỉ do chính mình tự sinh nở và cắt chôn.

            Con người tự làm nên chính mình trong điều kiện bất kì nào của hoàn cảnh. Con người phải có tự do, độc lập của riêng nó, để trở thành Con Người. Anh học được điều này từ thể nghiệm bản thân và cuộc sống bạn bè.

            Phan vẫn xem Tam Kỳ là nơi anh đã từng chết đi và tự tái sinh. Đó là Đất Thánh của riêng trái tim anh, là Quê Hương của riêng tâm hồn anh.

 

g

 

            Tình yêu như cơn gió thoảng suốt năm. Tình yêu như trận bão làm gãy đổ hết thân cành của một đam mê gần như cơn say thơ ca ngây ngất, mãnh liệt và đắm đuối. Nhưng thân cành còn non và bộ rễ còn khỏe, cây lại đâm chồi nẩy lộc.

            Bên cạnh tình yêu, một sự kiện chính trị lớn xảy ra trên Đất nước: những ngày tháng trước và sau hiệp định Paris 1973.

            Sân trường được tổ chức như một diễn đàn.

            Cuộc đối thoại nẩy lửa giữa học sinh và sinh viên sĩ quan Đà Lạt, khiến sự đơn điệu buồn tẻ trong nghiêm trang nhường chỗ cho không khí sôi động, cởi mở.

            Cũng vô thức, không hề chuẩn bị trước, Phan đã ứng khẩu một bài phê phán kịch liệt chế độ với những câu hỏi nhức nhối. Những điều này chưa ai nói cho anh: Nhà tù cưỡng bức và thực chất chính quyền bù nhìn (Vbk).          

            Nhóm sinh viên sĩ quan Đà Lạt cực kì trí thức và nghiêm túc đến khô cứng, dẫu đã được huấn luyện để đối phó trước mọi tình huống bất ngờ, vẫn không che giấu xúc động. Những trí thức mặc đồ lính ngụy ấy không bối rối mà xúc động, và lạ thay, lại đồng cảm, chia sẻ cùng Phan những băn khoăn! Phan không thể chấp nhận sự phi nhân và Phan không thể chấp nhận một tầng lớp lãnh đạo Miền Nam của Đất nước từng là sĩ quan của thực dân! Hầu như sinh viên sĩ quan Đà Lạt cũng vậy. Bởi đó là một sự thật lịch sử không ai không thấy. Và mọi người đành chấp nhận! Lịch sử bày ra một ván cờ trớ trêu. Giai đoạn lịch sử này là một kẻ có đầu óc điên rồ, nếu có thể ví von như vậy.

            Hai mươi năm ấy phải chăng như một sự thật oái oăm và một tấn tuồng bi hài, mà Phan, bạn bè Phan và cả nhóm sinh viên sĩ quan ngụy kia chỉ là nạn nhân, lại là nạn nhân bi đát ''vì ý thức được tính bi kịch'' (VIbk) trong hoàn cảnh lịch sử mình đang sống. Phải chăng, tận đáy lòng, ai cũng có những khổ tâm riêng?

            Lúc bấy giờ, tưởng chừng như vô thức lên tiếng nói và cũng vô thức đồng cảm trong mấy trăm học sinh trước sân trường.

            Những tràng pháo tay biểu lộ sự đồng cảm ấy.

            Không chỉ Phan. Lên diễn đàn còn có người bạn tu sĩ và một vài bạn khác với nhiều vấn đề buốt bỏng khác.

            Phan quả là ''gã nghệ sĩ'' trẻ tuổi liều lĩnh một cách chân thành. Quả thực, anh chỉ là gã con trai mới lớn đa tình (với nhiều loại tình cảm) đến mê đắm, và không ngớt băn khoăn trước những vấn nạn của cuộc sống tâm linh và xã hội. Phan vừa đam mê vừa tỉnh táo, vừa nhút nhát vừa táo bạo, vừa sai lầm vừa sáng suốt.

            Dẫu mang một gương mặt trầm buồn, trong anh vẫn sống động một người nghệ sĩ dám dấn thân, trải nghiệm đến giới hạn của đức lí, với đôi mắt mở to luôn ngạc nhiên, hiếu kì một cách hồn nhiên. Anh muốn dấn thân trên con đường sống thật để sáng tạo.

            Dẫu sao, anh vẫn chỉ là gã con trai mới lớn!

 

h

 

            Có một kỉ niệm không thể quên được. Chẳng biết bây giờ người học trò rất nông dân mang dép cao su như ''Việt Cộng'' thuở ấy còn sống hay đã chết. Còn sống, anh ta đã leo lên đến bậc ghế nào và cống hiến những gì.

            Từ hôm đối thoại giữa sân trường bốc lửa, có người học trò ở một lớp lớn hơn bỗng mang dép cao su lốp xe tìm cách làm quen cùng Phan.

            Anh ta chỉ vào đôi dép đang mang và nhìn Phan mỉm cười.

            Phan cũng chuyện trò vu vơ.

            Những ám hiệu không cùng tần số như chớp lóe rồi tắt lịm trong cuộc đời.

            Mãi sau này, Phan có dịp ngẫm lại, cái tính chất bồng bột đến khờ khạo một cách chân tình ở tuổi thanh niên thật dễ thương và cũng quá dễ để gặp tai họa. Tại sao anh học trò Việt Cộng ấy dám bật tín hiệu với Phan trong khi quá biết Phan sống trong một gia đình không có ai dính líu gì với tổ chức của họ, thậm chí, dù muốn dù không, cũng là đối phương của họ?

Sau lần ấy, thỉnh thoảng anh ta vẫn cười với Phan mỗi khi thoáng gặp ở sân trường hay trước hiên nhà. Như một kỉ niệm của tuổi trẻ, lắm khi nhớ lại, những lần gặp gỡ ấy gợi lên chút cảm động nhẹ nhàng. Có phải nhờ vậy, sau này Phan đã ''bị'' thuyết phục (đúng hơn, là được thuyết phục)?

Phan vẫn tin ở tấm lòng tuổi trẻ. Khi còn tuổi trẻ, dù với chính kiến, hàng ngũ nào, người ta vẫn còn nơi tâm hồn mình cả một trời trong sáng. Vòm trời giữa tâm hồn tuổi trẻ không hề có biên giới và rào gai. Và một khi sự thật lịch sử đã sáng rõ, chỉ một ''địa chấn'', họ dễ dàng tiếp cận chân lí xã hội chủ nghĩa, nhất là liên lập trong liên minh quốc tế (một vấn đề khắc khoải nhất!) (VIIbk), nếu nhận thức được tính tương đối của chân lí! Không hề có một thứ chân lí bất biến và tuyệt đối trên đời, nữa là chân lí chính trị - xã hội, vốn là một thứ chân lí phải luôn linh hoạt co giãn theo thực tiễn!

 

i

 

            Rồi Phan lại xa Tam Kỳ. Chỉ ba niên học ở thị xã nhỏ bé ấy nhưng chất chứa biết bao nhiêu kỉ niệm. Những năm đầu bước vào lứa tuổi thanh niên là những năm xáo động dữ dội và, phải chăng gần như có tính chất quyết định cho mỗi đời người?

            Tam Kỳ - một thị xã chia đều đường sắt xuyên Việt, bé nhỏ, duy nhất một đường phố sầm uất, khô khốc - lại là nơi chất thơ tiềm ẩn giàu có trong hồn người.

            Tam Kỳ, nơi ấy, có những nhà thơ lãng mạn và hiện thực tên tuổi, có những tu sĩ, thầy giáo trăn trở, day dứt không nguôi. Nơi ấy, thật sự đã có một khí hậu tinh thần riêng để lớp trẻ nối nhau vươn dậy trong khát vọng ngấm ngầm mà cháy bỏng về chân lí nghệ thuật và chân lí cuộc sống. Nơi ấy, cuộc sống ngỡ chừng đơn điệu, buồn tẻ nhưng vô cùng sôi sục, với những tiếng nói vô thanh xao xuyến tự mỗi trái tim thành khẩn, không giống nhau.

      Nhà thơ Huy Tưởng lớn lên ở đó, với rất nhiều đêm gục đầu trầm tư về thân phận con người trong niềm cô độc cùng cực, đã ra đi, làm nên nhiều bài thơ tuyệt vời cho Nỗi Đau, thỉnh thoảng trở về. Trong một đêm thơ nhạc do nhóm Đất Hứa tổ chức, anh đã chống nạng quay mặt ra cửa sổ lập lòe đom đóm như ma trơi oan khuất, như bao nhiêu vì sao trên đất tối, không thèm nhìn vào ánh đèn sáng, đọc trầm thống bài ''Hồ trường'' (VIIIbk) khắc khoải. Hình như anh muốn đọc cho đất trời nghe.

 

kẻ trượng phu

không hay [ai?] mổ gan bẻ cật

phù cương thường

hà tất tiêu dao lưu lạc tha phương

trời Nam ngàn dặm thẳm!

non nước một màu sương!

chí chưa thành danh chưa đạt

trai trẻ bao năm mà đầu bạc

trăm năm thân thế bóng tà dương!

 

vỗ gươm mà hát

giốc bầu mà hỏi

thiên hạ mang mang ai người tri kỉ

lại đây cùng ta cạn một hồ trường!

 

hồ trường!

hồ trường!

ta biết rót về đâu?

rót về phương đông, nước biển đông sinh

cuồng loạn

rót về phương tây, mưa tây sơn từng trận

chứa chan

rót về bắc phương, ngọn bắc phong vi vút

đá chạy cát bươn [vươn?]

rót về nam phương, trời nam mù mịt thẳm

có người quá chén như điên như cuồng!

 

nào ai tỉnh nào ai say

chí ta ta biết, lòng ta ta hay

nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ

hà tất tương phùng [cùng sầu?] với cỏ cây!

 

Nhà thơ Thành Tôn thành danh trên báo chí cả Miền Nam vẫn âm thầm trong bộ quân phục. Anh sống và làm việc với phận sự một người lính ngụy lặng lẽ. Anh đâu biết rằng chính sự hiện hữu một cách câm nín của anh ở thị xã, quá đỗi câm nín, vẫn vang vọng những làn sóng đến những trái tim trẻ về thơ ca.

            Và nhà văn Xuân Tùng, thầy Nguyễn Văn Bổn (nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ), thầy Trương Sư Xuyên và anh Nguyễn Hữu Thâu...

            (Xin được thắp ở đây một nén nhang tưởng tiếc Ngữ Luân, một người thơ tài hoa còn quá trẻ).

            Những trí thức ấy, những tấm lòng ấy, ở một nơi như Tam Kỳ thân yêu, chính họ, đã tạo ra một khí hậu cho tuổi trẻ. Họ tạo ra một trường ảnh hưởng mà họ không hề hay biết.

            Phan và bạn bè anh cũng không hề hay biết về khí hậu ấy, dù đã thực sự sống trong tiếng động tương tác thầm lặng của vùng khí hậu rất riêng ở thị xã của một thời đã xa kia.

            Cuộc sống cứ mãi hoài trôi đi một cách vô thức. ''Người ta sống là để sống'', chứ không thể cứ mãi chiêm nghiệm về cuộc sống, phần lớn là mảnh vụn thường ngày. Muốn chiêm nghiệm phải cần một độ lắng cần thiết của thời gian.

            Phan đang ngoảnh lại đời mình những năm mới lớn và ngỡ ngàng bâng khuâng cho những vụng dại, những say mê quá đỗi vô tư. Đúng hơn, là cả một đam mê cháy bỏng khát vọng sáng tạo (đến mức chỉ với bức xúc vặt, Phan xin rời bỏ gia đình để về ở chung với bạn, những tháng cuối của năm học lớp mười một!).

            Nỗi đam mê cháy bỏng về khám phá, sáng tạo thơ ca dễ khiến người ta đến với tình yêu hơi sớm (để làm thơ tình cho người lớn!), dễ xúi dại người ta tự trở thành đứa con hoang (chứ không phải thoát li gia đình để làm công tác cách mạng!)! Từ khí hậu kia hay từ trái tim Phan, vang vọng lên tiếng gọi, bàng bạc mà tha thiết, hướng tới chân trời là trang giấy trắng, lóng lánh nét chữ ghi lại những câu thơ của lòng mình, chút lòng mình gửi đến cuộc đời.

            Mỗi người đều có một tuổi mới lớn của riêng mình, và chắc chắn đều có lắm thú vị. Cuộc sống mãi mãi thú vị, cho dù bi kịch đến mức nào, nếu ta thoát được và có dịp ngoảnh nhìn lại bi kịch ấy. Vượt qua bi kịch, mắt sẽ sáng hơn, chân sẽ vững hơn trên đất đai Tổ quốc. Phan cũng vậy. Xin được mỉm một nụ cười về những năm tháng đã trở thành xa xưa. Tam Kỳ - Xa Xưa ấy đang không ngừng chảy trong máu anh và trong máu bạn bè.

            Ước chi mãi là một hạt sương bé nhỏ được lóng lánh khát vọng rất thơ ca và không chỉ cho riêng mình - Phan và mỗi bạn bè Phan có lẽ đều nghĩ thế.

 

TRẦN NGUYỄN PHAN

Viết ngày 28.X.1993

                                       Sửa chữa, bổ sung ngày 04.VII.1995 

                                  tháng 10.1996 và tháng 05.2003 tại TP. HCM.

(Bài đã đăng trong Kỉ yếu Bốn mươi năm

thành lập Trường Trần Cao Vân, Tam Kỳ,

Quảng Nam, 1955 - 1995).

 

Chú thích:

 

(IVbk) Hình thái ý thức tôn giáo thật sự không có, trong thực tế văn hoá truyền thống của đại đa số nhân dân ở một số nước châu Á, cụ thể là Việt Nam, mà chỉ là đạo lí thờ cúng anh hùng, danh nhân dân tộc và tổ tiên. Nói chính xác hơn, bên cạnh đại đa số nhân dân chỉ sống theo đạo lí dân tộc thuần tuý ấy, còn có một bộ phận nhân dân theo Phật giáo, Lão giáo, và có thể kể cả một bộ phận khác theo học thuyết nhân sinh - xã hội, ấy là Nho giáo. Nho giáo rất ít bàn về hình nhi thượng, từ chối việc suy tư về cõi siêu hình, thần linh và ma quỷ. Về tác dụng cải hoá con người, xã hội của văn hoá, hoặc của tôn giáo, xin khảo sát theo phương thức nghiên cứu khoa học về quá trình lịch sử và đời sống thực tại của các đối tượng nghiên cứu: đại đa số nhân dân không theo một tôn giáo nào, mà chỉ sống theo đạo lí dân tộc thuần tuý, và các bộ phận nhân dân dân ít hơn có theo một tôn giáo, kể cả Nho giáo. Từ đó, đối sánh, rút ra kết luận. Và có thể nói thêm: August Comte (1798 - 1857), một triết gia thực chứng xã hội học người Pháp, ra đời muộn hơn Nho giáo đến hơn hai mươi thế kỉ; ông thường được đề cập đến trong học phần triết học lớp 12 trước 1975 ở Miền Nam Việt Nam. Mặc dù có những sai lầm của ông, August Comte cũng chính xác trong việc phân định ra ba thời kì phát triển của phương pháp tư duy và thế giới quan của nhân loại. Ba thời kì đó là: tư duy thần thoại, tư duy tôn giáo, tư duy khoa học (thuần lí và thực nghiệm). August Comte còn đề nghị bãi bỏ tôn giáo nhất thần (như Thiên Chúa giáo, Tin Lành ...), có thể bãi bỏ cả tôn giáo đa thần, để chỉ tín ngưỡng một thực thể siêu hình, trừu tượng, tối cao, tương tự như ý niệm Trời của Nho giáo (Trời chỉ là lí - khí, ''thiên hà ngôn tai!” [Trời có nói gì đâu!]). Theo tôi, căn cứ theo dự đoán tương lai của nhân loại, tôn giáo sẽ được phát triển thành các triết thuyết thuần tuý, không còn tính chất tôn giáo (không còn các hình thức thờ phụng, kinh kệ, lễ bái như hiện còn tồn tại ở các chùa chiền, giáo đường, thánh thất, nhà nguyện...); và hình thái ý thức văn hoá, bao gồm cả phong tục (trong đó có mĩ tục thờ cúng anh hùng, danh nhân dân tộc và tổ tiên, suy nghiệm về lịch sử nhân loại), bao gồm cả giáo dục, văn học nghệ thuật (nhất là trên các phương tiện truyền thông đại chúng), sẽ được lành mạnh hoá theo hướng ''văn dĩ tải đạo'' (đạo đức truyền thống, đạo lí dân tộc) để thay thế hình thái ý thức tôn giáo. Nói gọn hơn, trong tương lai của nhân loại, văn hoá lành mạnh sẽ đảm nhiệm trọn vẹn chức năng của tôn giáo.

 

(VIIbk) Tác giả xin trình bày rõ hơn:

      Niên khoá 1971 - 1972 trước đó, mặc dù chính nhân vật Phan đã chọn bài hát Tổ quốc ơi, ta đã nghe của La Hữu Vang làm chủ đề cho số 1 của tập san (chỉ đổi chữ ta, có nghĩa là tôi, thành chữ con), nhưng sau đó Phan lại có một bước thụt lùi trong tư tưởng. Đúng như biện chứng (''đường zíc zắc'', ''đường xoáy trôn ốc'') của quá trình trưởng thành, từ cảm tính thiên tả, anh đã nhận thức lại một cách lí tính, ít thiên tả hơn! [...] ... Bấy giờ, năm 1973, chỉ mới có ý niệm về chủ nghĩa xã hội khoa học, chưa nhận thức đủ về chủ nghĩa xã hội hiện thực (trong thực tế lịch sử), nhân vật Phan trong bút kí lại được hướng đến chủ nghĩa xã hội quốc gia theo kiểu Nam Tư, nhưng không phải chịu sự độc tài như ách độc tài của Tito, lại hoàn toàn độc lập dân tộc, hoàn toàn dân chủ, thoát khỏi sự khống chế, lệ thuộc vào Liên Xô (gồm mười ba nước bị sáp nhập), Trung Quốc (gồm cả Tây Tạng ...) hoặc một trong hai nước ''cộng sản bá quyền (đế quốc đỏ)'' ấy. Chủ nghĩa xã hội quốc gia chỉ là một hướng mở, xuất phát từ ước vọng độc lập, tự do, dân chủ thật sự, thoát khỏi hai gọng kềm lịch sử trên thế giới, đứng đầu là đế quốc Mỹ và Nga, rồi sau đó là Mỹ và Nga - Trung. Bấy giờ, vẫn vào năm 1973, hai chữ ''liên lập'' và cụm từ ''liên minh quốc tế cộng sản'' chỉ được hiểu là bị khống chế, lệ thuộc như đã nói, chứ không phải là liên minh trong tư thế bình đẳng quốc gia, dân tộc đích thực! (Khoa học lịch sử đúng nghĩa không thể không khẳng định sự thật lịch sử ''liên lập'' trong ngoặc kép ấy!).

 

      Dẫn đến nhận thức đó còn do nguyên nhân khác, tạo nên sự khắc khoải, thao thức đồng thời với nguyên nhân trên. Xin trình bày cụ thể hơn: 

 

''Trên tinh thần hoà giải dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc vững mạnh, giữa hai miền Nam, Bắc, với niềm cảm thông chân thật, thiết tưởng cũng cần phải nói rằng: Sở dĩ một bộ phận không ít người Miền Nam Việt Nam không thể tham gia kháng chiến, hoặc vượt tuyến ra Miền Bắc, cũng vì lẽ đó. Và cũng trên tinh thần ấy, xin mạnh dạn nói rõ hơn: Ngoài ảnh tượng chân dung các ''giáo chủ'', lãnh tụ ngoại quốc (chưa kể danh từ ''xô-viết'' trong cuộc khởi nghĩa Xô-viết Nghệ - Tĩnh, 1930 - 1931), còn có vấn đề là màu cờ đỏ, hình tượng sao vàng, búa liềm vàng. Từ các ảnh tượng ấy, màu cờ và các biểu trưng ấy, không thể không nghĩ đến Miền Bắc Việt Nam bị lệ thuộc vào Liên Xô, Trung Quốc, và thân phận Trung Quốc cũng chẳng khác gì (Liên Xô sinh nở ra Trung Quốc!), mặc dù về sau hai nước lớn ấy có ''bất hoà'' với nhau.

 

Cái được gọi là nhận thức ấy chắc hẳn không phải bị chi phối bởi tâm lí giai cấp ở miền trong của Đất nước, vì cũng như Miền Bắc, tại Miền Nam đại đa số vốn là nông dân (liềm), một phần khác là thợ thuyền (búa), có truyền thống trọng thị chân lí và kẻ sĩ (ngôi sao). Có thể cái còn gọi là thao thức kia chỉ là hậu quả của sự tuyên truyền. Tuy nhiên, thao thức có thật ấy, trong giai đoạn lịch sử đó, quả thật cũng xuất phát từ sự nhận thức khách quan của rất nhiều người, một nhận thức đã hoá thành nỗi băn khoăn nhức nhối, đọng lại ở các câu hỏi: 1. Chủ quyền Miền Bắc Việt Nam thuộc về ai? 2. Ở Miền Bắc, liệu truyền thống thờ kính cội nguồn tổ tiên, thắp hương tại các đình làng, chùa chiền có được tồn tại? Và tại sao trong nhà sàn Bác Hồ không có bàn thờ gia tiên, theo truyền thống đạo lí của dân tộc Việt Nam ta? Đó cũng là sự thật lịch sử - sự thật về tuyên truyền của Mỹ - ngụy, nhưng cũng là sự thật ở nội tâm một phần không ít nhân dân Miền Nam Việt Nam. Nhận thức ấy, thao thức ấy, có lẽ chỉ tồn tại trước tháng 4 năm 1975; phải chăng sau đó đã được giải toả; hay bị củng cố thêm bởi hiện thực hằng ngày trước mắt?

 

Tất nhiên, từ khi diễn ra công cuộc Đổi mới, tình hình đã khác.

 

Kính mong hãy cảm thông, hoà giải, và đại đoàn kết. Chỉ có thể đại đoàn kết dân tộc một cách bền vững trong tinh thần cảm thông, hoà giải ấy. Làm sao có thể đại đoàn kết được nếu những mặc cảm trong chiến tranh không được giải toả trên cơ sở sự thật lịch sử - sự thật lịch sử đúng như nó đã diễn ra, không bị vo tròn, bóp méo! Tuy nhiên, phải khẳng định và phải khẳng định: Những người cầm súng, làm quan chức cho thực dân Pháp, phát xít (fascisme) Nhật, đế quốc Mỹ và ''tả đạo'' Thiên Chúa giáo, ở Miền Nam Việt Nam (không ít là dân Miền Bắc di cư vào Nam), rõ ràng là bị đẩy vào tình cảnh phản quốc hay ít nhiều cũng tự ý phản quốc. Trong số người bị đẩy vào tình cảnh phản quốc một cách hết sức đau đớn ấy, có một phân số khá lớn là bị kẹt giữa hai gọng kìm lịch sử (một gọng kìm là Pháp + Mỹ + "tả đạo", và, có thể kể thêm Nhật; một gọng kìm khác là Nga Sô + Trung Cộng + chủ nghĩa cộng sản vô thần). Số người thuộc trường hợp này có lòng yêu nước, căm hận Pháp + Mỹ + "tả đạo", căm hận Nhật, và hơn thế nữa, họ cũng rất căm ghét bọn ngụy đích thực, cam tâm làm tay sai đầu sỏ cho bốn loại giặc ngoại xâm ấy, nhưng bị buộc phải cầm súng, làm quan chức cho chúng (hoặc chỉ cầm súng, làm quan chức cho một trong bốn kẻ thù dân tộc vừa liệt kê). Vì vậy, cho nên dẫu sao đi nữa, họ cũng không thể chính danh là một trong những "lực lượng yêu nước", mà bị gọi chung là "ngụy". Nói cụ thể hơn, đằng sau danh từ "ngụy", có nhiều loại người khác nhau, trong đó không ít người thật sự yêu nước với chính kiến rõ rệt; bi kịch của họ là đã dựa vào Pháp + Mỹ + "tả đạo", và Nhật để chống Nga Sô + Trung Cộng + chủ nghĩa cộng sản vô thần với ý định sẽ lần lượt bẻ gãy hai gọng kìm lịch sử ấy. Nhưng, chỉ là ảo vọng! Rốt cục, phải chịu mang tiếng là ngụy. Danh đã không chính, thì ngôn không thuận. Có người lòng dạ là rất yêu nước, nên rất khổ tâm, nhưng đã là ngụy quân, ngụy quyền, họ không thể nói cho người khác thuận nghe được, cho dù chỉ là giãi bày tâm sự. Đó là nỗi đau của họ. Vả lại, những người thuộc dạng có lòng yêu nước thật sự nói trên, bọn thực dân, phát xít, đế quốc, "tả đạo" thường không sử dụng. Bất đắc dĩ chúng cũng sử dụng tạm thời hoặc chỉ sử dụng ở những chức vụ thấp, ở cấp tỉnh, cấp quận, không quan trọng, và ít nguy hiểm đối với chúng.

 

Xét về lực lượng kháng chiến, từ các tổ chức cộng sản sơ khai (trước 1930), đến Việt Minh (Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, từ tháng 8.1941), và có lẽ sau 1954, ở Miền Nam thường gọi là Việt Cộng (Cộng sản Việt Nam), nhận định chung là thế nào? Sau khi đám mây mù tuyên truyền của ngoại xâm và ngụy tan đi, ai cũng thấy rõ sự thật lịch sử là: Hết sức hiển nhiên, lực lượng nào đánh bại được Pháp, Nhật, Mỹ, ''tả đạo'' Thiên Chúa giáo, bá quyền Trung Quốc, đánh đổ được ngụy triều Huế (1885 - 1945) (II.19), ngụy quyền Sài Gòn (1954 - 1975), chế độ diệt chủng Khơ Me (Kh'mer) Đỏ, chính danh và chính nghĩa thuộc về lực lượng ấy. Đó là đa số nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có một sự thật (tuy chỉ giới hạn nhất định là qua báo chí, đài phát thanh, truyền hình trong nước), sự thật đó là, mặc dù không một ai trên thế giới này có thể phủ nhận được chiến thắng hiển hách, lừng lẫy của lực lượng kháng chiến Việt Minh, Việt Cộng, nhưng vẫn có người, nhất là một số Việt kiều ở hải ngoại, vẫn không chấp nhận Việt Minh, Việt Cộng là chính danh, chính nghĩa, thậm chí còn chống Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam một cách cuồng dại!''.

 

Ghi chú bổ sung của tác giả:

 

Người đọc có thể tự cắt bỏ (tự kiểm duyệt) hoặc lướt qua, hoặc tốt nhất là phản biện, bác bỏ, nếu không đồng ý với tác giả. Tất nhiên, tôi vẫn bảo lưu sự thật lịch sử đó cho nhân dân Miền Nam Việt Nam, nhất là sự thật lịch sử đã đọng lại ở các câu hỏi đầy băn khoăn, thao thức, nhức nhối đã ghi lại ở bên trên. Một lần nữa, tác giả xin thưa rằng: Tôi viết để ghi nhận chính xác một khía cạnh sự thật lịch sử về một bộ phận đông đảo nhân dân Miền Nam thuộc giai đoạn sau (1930 - 1975) của cuộc chiến tranh 117 năm (1858 - 1975) hoặc đúng hơn là 131 năm (1858 - 1989), vốn đã trôi qua khá lâu, để góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam chúng ta và đoàn kết nhân loại, trên tinh thần tôn trọng sự thật lịch sử, cảm thông, điều chỉnh (sửa sai) và hoà giải. Xin cảm ơn. TXA.

 

 

Bài bút kí ghi lại kỉ niệm một thời mới lớn của Trần Nguyễn Phan cơ chừng mở ra trong Hiền Lương một khoảng trời xưa cũ với một cái nhìn sáng rõ hơn. Cô đọc lại, và lại đọc thêm một lần nữa...

Hiền Lương cảm thấy Trần Nguyễn Phan hình như quá khiêm tốn, cung cách khiêm tốn của một người luôn luôn thực sự cầu thị, hay đúng hơn là để khỏi chối tai, cay mắt, buốt tim một số người nào đó, anh ấy đã tự hạ thấp mình để có thể nói lên những điều rất to tát, nghiêm trọng, những gì đã gây nên nỗi đau của cả một thời đã xa nhưng “vết thương chiến tranh - cách mạng” vẫn còn nhức nhối?

Bài bút kí khiến Hiền Lương chợt nhớ mẩu chuyện trò hôm nào giữa cô và anh Hành, bên bờ sông gần chiếc cầu Hiền Lương, vết thương chia cắt Đất nước ấy.

... Tất cả, bị hay được, đặt trước sự chọn lựa, chọn lựa trong thao thức, trăn trở, giằng xé, đến mức nổ súng vào nhau, vào cả chính mình, kể cả “bình tâm” chọn lựa. Em muốn nói đến sự đấu tranh tư tưởng, cấp độ toàn cầu và cấp độ cá nhân, chiến tranh ý thức hệ và tự sát do xung đột ý thức hệ, người này chửi rủa người kia ở từng góc phố, đường làng cũng vì ý thức hệ.

- Vấn đề giải phóng dân tộc để giành độc lập dân tộc, quyền tự quyết dân tộc, có lẽ đã khá rõ. Chính danh, chính nghĩa, và ngược lại đã rõ. Vấn đề còn lại là duy vật hay duy tâm, chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản. Hai vấn đề ấy đã dính lẫn vào nhau mới từ những năm hai mươi, ba mươi. - Anh nuốt nước bọt, có vẻ băn khoăn -. Đấy chính là lúc sự phân hóa của người Việt yêu nước đã diễn ra. Anh nói đến những người yêu nước không thỏa hiệp với Pháp. Sự phân hóa của những người đó trước ngã ba lịch sử: con đường nào? Sự giằng xé, thao thức, trăn trở như Hiền Lương nói là vậy. - Hành lặng im, anh chợt thấy mình mới phác họa bối cảnh, vấn đề còn quá rộng và sâu, mặc dù anh cố không mở rộng ra trên bình diện toàn cầu.

- Những người yêu nước vốn không thỏa hiệp với Pháp, và sau một chín bốn lăm, không thỏa hiệp cả với Mỹ, không còn chỗ dựa nào khác là Liên Xô. Và sau nữa, từ một chín bốn chín, chỗ dựa đồng thời của họ, ấy là Trung Quốc. Vấn đề đã quá rõ. Nhưng yêu nước, không thỏa hiệp với Pháp, Mỹ, họ cũng không cộng sản, những người ấy dựa vào đâu?...

Hiền Lương bỗng càng thấm thía bi kịch của những người Miền Nam chống Pháp, chống Nhật, chống Mỹ và tất nhiên chống cả ngụy, ''tả đạo'' Thiên Chúa giáo, nhưng không thể đi theo Đảng Nhân dân Cách mạng (19)!

Hiền Lương ngẫm nghĩ và đọc tiếp:

 

 

TRẦN NGUYỄN PHAN

 

Một ý nhỏ

về một truyền thống lớn

và một nhân vật lịch sử lớn

 

Kính gửi dòng sông Bến Hải

Kính gửi ông Bùi Hiền 

và thân tặng bạn Bùi Hành, với tất cả lòng quý mến

 

Bài viết này vốn là một ghi chú, do đó tôi không có ý định làm văn chương ở thể tài rất thông tấn này, và cũng bởi vậy, tôi thấy nên viết thẳng vào vấn đề ngay từ dòng đầu. Tôi cũng xin người đọc hãy rộng lòng thứ lỗi cho tôi, về cách diễn đạt hơi chối tai, cay mắt, buốt tim.

Tôi thật vô lễ khi dám bạo gan bàn đến một hạn chế "tả" khuynh của Bác Hồ: không có ban thờ gia tiên (hoặc thường gọi là bàn thờ gia tiên, thờ cha mẹ, ông bà, cố ông, cố bà và tổ tiên, cội nguồn dân tộc) trong nhà sàn (tại Hà Nội) của Bác. Phải chăng, đó là một hạn chế thuộc loại cụ thể - lịch sử trước sức ép của phong trào cộng sản quốc tế thời bấy giờ? Dẫu sao, tôi cũng thử phê phán hạn chế này, nhưng không phải vì vậy mà phủ nhận sạch trơn về những cống hiến của Bác Hồ cho sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp, phát xít Nhật, đế quốc Mỹ và chống "tả đạo", của dân tộc Việt Nam ta.

Quan niệm của tôi về phong tục, đạo lí dân tộc ở khía cạnh này (bàn thờ gia tiên) đã được nhiều lần nhấn mạnh ở các cuốn sách của tôi, đã xuất bản. Tuy nhiên, ở đây, xin nhấn mạnh thêm một phản đề: Thiên Chúa giáo, Tin Lành giáo thực chất cùng thuộc một loại tôn giáo chủ trương độc tài, độc chiếm đời sống tâm linh, linh hồn của tín đồ, nên ở Phương Tây (Âu Mỹ) không có mĩ tục thờ cúng ông bà (bàn thờ gia tiên). Chúng ta thấy rõ quan niệm "tả đạo" ấy là rất quái dị, cụ thể là vong bản, khi chỉ thờ Chúa Giê-su [và cha mẹ của Giê-su là Giu-se, Ma-ri-a], vốn là [các] nhân vật lịch sử của nước Do Thái cổ đại! Nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã kịch liệt phê phán: "Thà đui mà giữ đạo nhà, còn hơn có mắt ông cha không thờ".

­Tôi ý thức rất rõ việc phê phán anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh ở khía cạnh này, và khẳng định đó là sự phê phán được đặt trên đạo lí - bản sắc văn hoá - lịch sử nghìn đời của dân tộc ta, vì truyền thống văn hoá dân tộc, vì tương lai của văn hoá dân tộc.

Xin mở rộng vấn đề:

Học giả Phan Ngọc, một cách rất cẩn trọng và dè dặt, ông đã đề cập đến khía cạnh tam vô (vô Tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo) của chủ nghĩa Mác (Karl Marx, 1818 - 1883 (agt)): "... Nguyễn Ái Quốc không nói đến tam vô (vô tổ quốc, vô gia đình, vô tôn giáo)...". Ở đoạn kết bài nghiên cứu, Phan Ngọc còn viết: "Tôi biết có người còn hỏi tôi về những sai lầm, về cải cách ruộng đất, về nhiều chuyện khác nữa. Tôi chỉ xin các bạn ấy hiểu cho những khó khăn của một người cộng sản trong hoàn cảnh tự mình đi con đường riêng, có điểm không ăn khớp với những nguyên lí của Quốc tế Cộng sản, tự mình phải chèo chống con thuyền cách mạng giữa bao khó khăn, hiểu lầm, tự mình phải nói năng hành động sao cho có lợi cho cách mạng và dân tộc. Con người ở địa vị cao thì sự ràng buộc càng lớn. Những ràng buộc mà một cá nhân nhỏ bé như chúng ta phải chịu thực không có nghĩa gì so với những ràng buộc mà Hồ Chí Minh phải chịu" (bgt).

"Sự ràng buộc" Phan Ngọc đã viết, nói cách khác, đó chính là sức ép của Quốc tế Cộng sản, một tổ chức mà những người sáng lập, lãnh đạo là người châu Âu (kể cả người có gốc Do Thái như Mác; Mác mang huyết thống của một dân tộc vốn rơi vào thảm kịch vong quốc và sau hai nghìn năm, đã thật sự vô tổ quốc, đã Âu hoá 100%). Phan Ngọc cũng đã nhấn mạnh một cách cẩn trọng, dè dặt, trong bài viết trên: Quốc tế Cộng sản không thể hiểu được một người theo Tổ quốc luận, vốn là bản sắc cơ bản nhất trong truyền thống dân tộc Việt Nam ta, như Hồ Chí Minh.

Ở đây, tôi chỉ đề cập đến đạo lí tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên, cội nguồn dân tộc, anh hùng, danh nhân dân tộc của người Việt Nam chúng ta. Đó là một hình thái vừa giao thoa, vừa tập trung chủ nghĩa yêu nước (Tổ quốc luận), tình cảm thương nhà (gia đình) và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nói chung (có thể gọi là một dạng thức gần như tôn giáo truyền thống, phổ biến đến mức tuyệt đại đa số trong cộng đồng dân tộc, mặc dù không có tu sĩ). Tất nhiên, nếu có sự mâu thuẫn tư tưởng giữa ba lĩnh vực yêu nước, thương nhà, thờ cúng tổ tiên nói chung, thì dứt khoát và luôn luôn lấy chủ nghĩa yêu nước làm trọng. Có điều, chỉ có thể có mâu thuẫn cục bộ (một phân số nhỏ trong một tổng thực thể [lĩnh vực], như tổng thực thể gia đình chẳng hạn) chứ không bao giờ có mâu thuẫn toàn bộ giữa ba tổng thực thể trên. Một đại gia đình thuộc loại bi kịch, nhiều lắm là có một, hai người thật sự cam tâm phản quốc hoặc đạo tặc, tham ô, chứ không lẽ tất cả đại gia đình đó đều phản quốc hoặc đạo tặc, tham ô! Vì thế, cho nên, một khi có mâu thuẫn giữa ba thực thể [ba lĩnh vực], mặc dù vẫn dứt khoát lấy chủ nghĩa yêu nước làm trọng, nhưng vẫn duy trì hai lĩnh vực kia để giữ vững truyền thống chung. Đó là cách ứng xử hài hoà, giữa quyền biến và kinh thường, tức là giữa việc phải ứng xử đối với trường hợp bất thường hằng (phi truyền thống, phi đạo lí cá biệt, tạm thời) và việc duy trì truyền thống thường hằng (hợp truyền thống, hợp đạo lí phổ biến, muôn đời). Nói một cách cụ thể, thậm chí nếu cha ruột phản quốc, hại dân, đứa con yêu nước phải giết cha để cứu nước, cứu dân, nhưng rồi cũng phải thờ cúng, kị giỗ cha cho phải đạo và để giữ vững truyền thống thờ cúng tổ tiên nói chung. Cố nhiên việc giết cha này phải ở trong phạm vi đạo lí, đại nghĩa, pháp luật, cho dù là thời chiến, chứ không phải là hành vi manh động, côn đồ.

 

Xin mở một ngoặc đơn:

Về cách ứng xử trong trường hợp có mâu thuẫn bi kịch tương tự như trên, như giữa ba cấp độ thực thể: Đất nước, vua, nhân dân, chính Mạnh Tử, một thánh hiền của Nho giáo, một học thuyết vốn đặt nặng vấn đề trung quân, đã viết: "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" (dân là quý, thứ đến là Đất nước, vua chỉ đáng xem nhẹ). Nhân đây, tôi chỉ nhắc lướt qua về một giải pháp đê hèn, phản quốc trong lịch sử nước ta: "cắt đất cầu hoà", thực chất là cắt một phần Đất nước để mưu cầu sự tồn tại vương triều chỉ vì quyền lợi cá nhân ích kỉ của Hồ Quý Ly và Mạc Đăng Dung. Thông thường, nếu không thể tránh được bi kịch lịch sử như thế, giải pháp khôn ngoan phải là: Đất phải gắn liền với dân, bởi vì còn dân ta ở trên đất phải cắt cho giặc, thì vẫn còn có cơ hội lấy lại cả đất lẫn dân. Giải pháp khôn ngoan trong trường hợp bất đắc dĩ là thế, chứ không thể cắt đất cho giặc để giặc đem dân của chúng đến cư trú như Hồ Quý Ly, Mạc Đăng Dung đã làm! Giải pháp bất đắc dĩ, mặc dù dựa trên quan điểm quyền biến - kinh thường, nhưng cũng cần phải cân nhắc sâu xa. Tất nhiên dân tộc ta dứt khoát không bao giờ để bi kịch lịch sử đau thương tương tự lặp lại. 

Như vậy, từ thuở xa xưa, mâu thuẫn giữa nhân dân, Tổ quốc với lãnh tụ, nếu có, thì đã được giải quyết.

Một luận đề khác: "Quân sư phụ, tam cương dả; thuyền đầy bị ngã, con cứu ai?". Vua, thầy giáo, cha ruột vốn là tam cương, ba giềng mối lớn theo đạo lí nhà nho. Ba vị cùng đi trên một chuyến ghe; ghe gặp sóng to, ghe lật, cả ba đều bị ngã; đứa con ruột của người cha, cũng là thần dân của nhà vua, đồng thời là học trò của nhà giáo, anh ấy cùng đi trên ghe, nhưng chỉ có khả năng cứu được một người; vậy đứa con (thần dân, học trò) phải cứu ai? Câu trả lời cũng phải dựa vào quyền biến, kinh thường.

Giả thiết phải có thêm dữ kiện để tổng hợp:

 

1) Cả ba vị đều tốt. Ở trường hợp này phải xét đến phạm vi chức trách, tác dụng xã hội của mỗi vị (ai quan trọng hơn ai đối với Đất nước, xã hội), đồng thời phải xét đến sự thể là, vua có thể thay thế hay không thể thay thế, thầy có thể thay thế hay không thể thay thế, và cha ruột bao giờ cũng chỉ duy nhất một người...

2) Vua là minh quân hay bạo chúa? Thầy giáo là thầy tốt, luôn thể hiện thiên chức, sứ mệnh giáo dục cao cả hay chỉ bán chữ? Người cha là cha hiền hay phản quốc, hại dân?...

 

Câu trả lời không đơn giản, nhưng cũng đã rõ về sự chọn lựa, nhất là trong trường hợp có mâu thuẫn bi kịch, đòi hỏi phải giải quyết mâu thuẫn trên nền tảng đạo lí phổ quát. Trong những câu trả lời đúng, có một câu là phải để cha ruột chết chìm, thầy giáo chết chìm để cứu vua, vì trong trường hợp cụ thể nào đó, cứu vua mới có thể cứu nước. Tất nhiên rồi đứa con ruột cũng là người học trò biết vì đại nghĩa ấy vẫn thờ cúng, kị giỗ cha và có thể kị giỗ cả thầy giáo.

Theo sự phân tích, đánh giá của công luận sáng suốt xưa nay, hành vi chọn lựa ấy là hoàn toàn không một chút ngu trung, cuồng trung do bị nhồi sọ, mặc dù không một ai muốn bi kịch đau thương như thế xảy ra!

Dẫu sao bi kịch này vẫn còn "nhẹ nhàng" hơn bi kịch giết cha để cứu nước, vốn rất "dữ dội", đã viết ở đoạn trên. Nhưng ở trường hợp nào cũng phải giữ vững mĩ tục thờ cúng, kị giỗ.

Ngoặc đơn xin được đóng lại với sự khẳng quyết như thế.

 

Trở lại vấn đề, xin nói rõ thêm về phong tục thờ cúng tổ tiên nói chung: Tiểu sử của một cá nhân, lịch sử một dòng họ, một làng thôn cũng như lịch sử một dân tộc, lịch sử cả nhân loại, đều có thăng, có trầm, có người tích cực, có kẻ tiêu cực, nhưng chúng ta đều có thể rút ra từ những thực thể cá nhân - cộng đồng quá khứ với những tiểu sử - lịch sử ấy những bài học kinh nghiệm, trong đó ngoài biết bao kinh nghiệm rất nên tự hào, còn có kinh nghiệm đau thương, thậm chí [phải dùng một từ bất nhã] là ô nhục; tất nhiên tự hào là cơ bản.

Không vì một lí do gì để bài trừ bàn thờ gia tiên (c.1gt).

Chủ nghĩa tam vô mác-xít - lê-nin-nít tất nhiên phải ép buộc tư tưởng Hồ Chí Minh phải tuân thủ "giáo điều" tam vô, trong đó cố nhiên bài trừ cả bàn thờ gia tiên, một bản sắc văn hoá - lịch sử rất cơ bản của dân tộc! Tuy nhiên, phải thấy rõ ở Hồ Chí Minh như Phan Ngọc gần đây đã viết: Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh "tự mình đi con đường riêng, có điểm không ăn khớp với những nguyên lí của Quốc tế Cộng sản". Trước sau Hồ Chí Minh vẫn là một người kiên trì chủ trương "yêu Tổ quốc, yêu đồng bào", "không có gì quý hơn độc lập, tự do"...

Sức ép của một tổ chức Quốc tế đề xướng chủ nghĩa tam vô mác-xít - lê-nin-nít không phải là điều suy diễn của những thế hệ sau này. Đó là sự thật lịch sử. Trong một bài viết, Đặng Văn Hồ, giảng viên khoa sử Đại học Sư phạm Huế, đã trích dẫn nguyên văn những lời phê phán của Quốc tế Cộng sản về Nguyễn Ái Quốc: Người "đã phạm nhiều sai lầm chính trị rất nguy hiểm", "hữu khuynh", có biểu hiện thuộc "hệ tư tưởng quốc gia pha trộn tư tưởng cải lương chủ nghĩa, duy tâm chủ nghĩa", "cơ hội chủ nghĩa" (*). Và Nguyễn Ái Quốc không được tiếp tục hoạt động cách mạng trong một thời gian, đến nỗi trong một bức thư gửi một vị lãnh đạo Quốc tế Cộng sản, vào năm 1938, Nguyễn Ái Quốc viết: "Đồng chí thân mến, ... Điều tôi muốn yêu cầu đồng chí, đó là đừng để tôi ở quá lâu không hoạt động, như là ở bên lề và ở ngoài Đảng" (**). Sự thể ấy đã xảy ra bởi một lẽ giản dị: con đường dẫn Bác Hồ đến với Quốc tế Cộng sản và chủ nghĩa xã hội, khởi đầu là từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Tiếp xúc với chủ nghĩa Mác đã lâu, nhưng con đường ấy chỉ hiện rõ trong tâm trí Nguyễn Ái Quốc, khi được đọc luận cương về thuộc địa của Lê-nin. Thật sự, Bác Hồ chỉ tranh thủ sự ủng hộ, viện trợ của tổ chức Quốc tế này, và sau đó tranh thủ các nước xã hội chủ nghĩa mà đứng đầu là Liên Xô với mục đích lớn nhất là giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân, phát xít, đế quốc chủ nghĩa. Đó là về tư tưởng chính trị. Còn về thế giới quan của Hồ Chí Minh, duy tâm hay duy vật, tôi mạn phép không bàn ở đây (c.2gt). Đạo lí tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, cội nguồn, anh hùng, danh nhân dân tộc là một mĩ tục rất Việt Nam, với tính chất dung hợp vốn có, không tính đến khía cạnh duy tâm hay duy vật. Nhưng với nhãn quan của các vị lãnh đạo Quốc tế Cộng sản, hầu hết là người châu Âu, ấu trĩ "tả" khuynh, quá sách vở, "hoang tưởng", "nóng vội" ngay cả trong việc tìm hiểu thực tiễn, theo họ, hẳn mĩ tục ấy là một biểu hiện chưa thực sự tam vô chủ nghĩa, thậm chí là mê tín! Có nhiều điều cũng không cần bàn thêm ở đây. Tôi chỉ nói riêng về khía cạnh mê tín. Một phong tục hình thành và phát triển từ hàng ngàn năm trước, làm thế nào không còn dấu vết mê tín! Họ không hiểu thế nào là cách tân truyền thống văn hoá? Xoá sạch nghi thức sẽ dẫn đến sự trống rỗng nội dung! Thái độ quá khích, thói phủ định sạch trơn quá khứ xuất phát từ nhiệt huyết đồng thời từ nhận thức ấu trĩ. Phải chăng là thế?

Dẫu vậy, nhưng Hồ Chí Minh cũng phải chịu sức ép tam vô chủ nghĩa từ Quốc tế Cộng sản, như đã trình bày, và đồng thời Hồ Chí Minh đã tìm cách tác động ngược lại. Nói cách khác, Hồ Chí Minh gia nhập Quốc tế Cộng sản, đồng sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, là để đấu tranh làm thay đổi quan điểm của các tổ chức ấy về vấn đề đặt nhiệm vụ trọng tâm vào phong trào giải phóng dân tộc, chứ không chỉ thiên về nhiệm vụ cách mạng ở các "chính quốc" (các nước xâm chiếm thuộc địa). Đó lại là vấn đề lớn khác, xin được gác qua.

Tuy nhiên, về vấn đề một truyền thống lớn của dân tộc ta ở bài viết này, cũng cần lưu ý, việc thiếu sót bàn thờ gia tiên ở nhà sàn của Bác Hồ đã được nhân dân, cán bộ, chiến sĩ cách mạng Nam bộ bổ khuyết bằng cách hết lòng lo việc kị giỗ, gìn giữ khu lăng mộ của thân sinh Người, tại Đồng Tháp (dgt), mặc dù ai cũng biết việc đặt bàn thờ gia tiên tại nhà và việc kị giỗ, bảo tồn, trùng tu lăng mộ, lại là các việc khác nhau.

Ở đoạn trên của bài này, tôi đã viết: Tôi ý thức rất rõ việc phê phán anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh ở khía cạnh [thiếu sót bàn thờ gia tiên] này, và khẳng định đó là sự phê phán được đặt trên đạo lí - bản sắc văn hoá - lịch sử nghìn đời của dân tộc ta, vì truyền thống dân tộc, vì tương lai của dân tộc. Tôi thấy cần viết thêm: Phải thấy rõ nguyên nhân hạn chế cụ thể - lịch sử của Bác Hồ để rút kinh nghiệm lịch sử, và phải cùng nhau khẳng định rằng, không thể nhân nhượng vô nguyên tắc bất kì sức ép nào, mà đạo lí tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, cội nguồn, anh hùng, danh nhân dân tộc là một nguyên tắc lớn. Đó là sức mạnh tâm linh văn hoá - lịch sử (đã luôn luôn, mãi mãi trở thành sức mạnh có tính vật chất) để giữ nước và dựng nước.

Tôi thành thật lo ngại rằng, cách viết phê phán mặt hạn chế của anh hùng dân tộc quá "dè dặt" như học giả Phan Ngọc sẽ khiến nhiều người bắt chước mà không cởi trói, lại càng tự trói buộc chính mình, và, tệ hại hơn, vì nhiều người bắt chước ấy có quyền lực trong tay, nên càng ra sức trói người khác. Xin thưa thêm: Giảng dạy, học tập lịch sử với ý thức noi gương để phát huy những ưu điểm, đồng thời phê phán để tránh những khuyết điểm của tiền bối là mục đích yêu cầu về giáo dục, giáo dưỡng và tiếp thụ mà nhà trường, thầy cô giáo và học sinh nào cũng không thể không biết, có điều suốt một thời gian dài lắm người vì sợ hãi mà chỉ tô hồng một chiều, thậm chí biến khuyết điểm thành ưu điểm, một cách rất tai hại...

Tôi thấy cần phải khẳng định lại một lần nữa, việc phê phán hạn chế cụ thể - lịch sử của anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh là sự phê phán được đặt trên đạo lí - bản sắc văn hoá - lịch sử nghìn đời của dân tộc ta, vì truyền thống văn hoá dân tộc, vì tương lai của văn hoá dân tộc. Tôi đã đặt dân tộc (Việt Nam) ở tầm cao hơn cá nhân lãnh tụ (Hồ Chí Minh). Điều đó hoàn toàn hợp đạo lí vĩnh hằng của dân tộc và nhân loại, cũng như hoàn toàn phù hợp với công lí của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài học chính trị học, triết học sơ đẳng (về chủ nghĩa duy vật lịch sử) cũng đã đề cập đến vai trò cá nhân lãnh tụ và mối quan hệ giữa cá nhân lãnh tụ với dân tộc, chống tệ sùng bái mù quáng cá nhân lãnh tụ, một cách minh bạch, tuy ở dạng lí luận khái quát, không vận dụng cụ thể vào việc nhận định về vị lãnh tụ nào.

Việc phê phán anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh ở mặt hạn chế cụ thể - lịch sử (thiếu sót về bàn thờ gia tiên truyền thống) như đã nêu trên, đó là bởi yêu cầu sử học khách quan đặt ra, ngay trong việc viết tiểu thuyết, và để góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng bền vững, thắm thiết. Nói cách khác, ngoài việc chỉ ra và phê phán tả đạo Thiên Chúa giáo, thực dân, phát xít, đế quốc cùng bè lũ phản quốc đích thực trong 117 năm (1858 - 1975) và tập đoàn bành trướng, bá quyền Trung Quốc (trước 1975 (egt) và từ đó đến 1989), tính chính xác sử học trong văn học yêu cầu phải lí giải thêm một trong những tác nhân ý thức hệ về sự phân hoá, phân liệt dân tộc, gây thêm "nội chiến cách mạng" với quá nhiều xương máu trong cuộc chiến tranh chống ngoại xâm dài đằng đẵng 1930 - 1975, đặc biệt là giai đoạn chia cắt Đất nước 1954 - 1975, nhằm hàn gắn vết thương lịch sử là dòng sông Bến Hải ở chiều sâu tâm thức của dân tộc trên hai miền Nam - Bắc (I.129).

Quả thật, anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh có những hạn chế cụ thể - lịch sử, cần thiết phải chỉ ra nguyên nhân (sức ép tam vô chủ nghĩa của Quốc tế Cộng sản) và cần phải phê phán vì những mục đích yêu cầu trên (lí giải lịch sử, rút kinh nghiệm lịch sử, đặc biệt là để đoàn kết dân tộc, và nhất là để bảo vệ truyền thống văn hoá nghìn đời của dân tộc). Cho dẫu đáng tiếc như thế, Hồ Chí Minh vẫn là nhân vật lịch sử vĩ đại của dân tộc và của nhân loại trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, phát xít Nhật, đế quốc Mỹ và chống "tả đạo" Thiên Chúa giáo...

 

TRẦN NGUYỄN PHAN

 

 

 

 

Thơ TRẦN NGUYỄN PHAN

trích từ tập “Lặng lẽ ở phố”

Nxb. Trẻ, 1995

 

Triết nhân đánh thức

 

"từ bi hỉ xả là sợi dây nối liền loài người

không có đẳng cấp trong nước mắt cùng mặn

không có đẳng cấp trong máu cùng đỏ"

(Phật Thích Ca)

 

 

... rách tuơ bước giữa ban ngày

ngọn đèn thắp sáng trên tay tìm người

con người đâu? con người ơi!

phố phương thú lạ nhe cười ngu ngơ.

 

1.      Đi-ô-gen "Xy-nich" (Diogène "Cynique")

2.      Tất Đạt Đa (Siddhartha)

... rời cung cấm buồn sững sờ

đời chia cao thấp bậc bờ, khổ đau

thương lệ mặn, máu một màu

ăn mày lòng thiện vá nhàu cà sa.

 

3. Thiền sư

 

... sợ đau cỏ dại sương nhoà

con sâu cái kiến kiếp xa luân hồi

héo gầy thiền sáng đôi môi

mắt nhìn, tay khẽ quét rồi đặt chân!

 

4. Nhà ẩn tu

 

... tự quất roi nát xác thân

quỳ trong hốc núi mục dần xương rêu

mót lúa đồng lạnh tiếng kêu

xin như Chúa với mái lều trần ai?

 

5. Giê-su Cơ-rít (Jésus Christ)

 

... niềm đau Do Thái chưa phai

nước thiên đàng trong và ngoài mung lung

ngóng ngày phán xử cuối cùng

xê-da giết, giết rồi dùng, lệch sai.

 

5. Đạo đời

 

... nghìn năm trái đất thở dài

biển tràn nước mắt vỗ hoài đông tây

nỗi vĩnh hằng quá đoạ đày

đạo vốn đời, đạo giờ đây rất đời.

 

                                                    TRẦN NGUYỄN PHAN

 

 

Tản mạn với một người em

 

"mọi lí thuyết đều màu xám

và cây đời mãi mãi xanh tươi"

(Gớt - Goethe)

 

cánh chim vành khuyên bé bỏng

nở từ bài ca thuở nào

chập chùng tháng năm

chập chùng sương khói

nắng bất ngờ

biếc xanh tiếng hát

                                        nao nao

 

kết tổ dưới vực sâu hay chóp đỉnh đồi cao

cũng chỉ vành khuyên của nắng mưa cây cỏ

ôi vàng rơm xé ra,

từ giẫy giụa với hư vô

trái tim bung vỡ

quỳ sụp bên đường

hỡi bùn, máu, sương, sao!

 

Tố Như "chọn lựa phân vân

mái rạ xiêu gầy xơ xác đến hôm nay!

 

tất cả khổ nhục đều khởi đầu từ lòng tham đế quốc

xé ruột nhìn Tây! và Nhật!

Những "nóng vội" rụng rơi trên luống cày

Bành Trướng lộ nguyên hình. Hòn Đá Tảng bạc màu,

 

ơi chất xám nở hoa

chất xám xưa sau kết ngọc

ta lại nhìn ta nước mắt dâng đầy

mực tôi pha máu mồ hôi bùn đen và dầu mỡ

vẫn đặt hi vọng vào kẻ sĩ

với ngọn bút trĩu tay

 

mỗi người tự sinh nở chính mình,

 

mỗi người đều là kẻ "mồ côi" (5thơ). Hãy "mồ côi"

cơn tủi giận thiên tài

tôi nhớ Tố Như siết kiếm ngó cờ đào

mấy lần cáo quan

thương Kiều, viết Phản chiêu hồn

tóc càng thêm bạc

viếng mộ ông

gò hoang

mưa bụi đầm nước mắt

dám trách gì nắm cốt tàn đã thuộc về vạn thuở

muôn nơi

 

hai trăm năm rồi

bao người đau cùng ông

niềm đau ngoại xâm nội chiến

thiên tài trầm tư dằn vặt suốt đời

hồn thi sĩ xoáy lốc ngả nghiêng vật vờ bão táp

bị nỗi nghìn năm níu chặt,

ông chẳng sinh ra cho cái nhất thời?

 

phải chăng,

"kẻ phản động có lời thơ tao nhã" (1thơ)?

rồi hối hận biết bao

những chọn lựa xót lòng" (2thơ)

hiện thực hùng vĩ nào

hiện thực ảm đạm nào

"đã cưỡng bức âm thầm vô thức" (3thơ)

chẳng nuối gì Lê mạt!

nhưng lánh về xa xưa,

khi cửa ngõ kia

giặc sắp nghênh ngang súng thép tàu đồng!

 

vẫn dân tộc nhất, hoá hồn thơ đất nước

thế trận chữ nhân

lại mọc lên từ lục bát cha ông

đành phổ mượn phận Kiều

từ ưu uất siêu hình kiếp người quằn quại...

tôi hiểu Tố Như tự sát trong cơn bệnh

cuối đời. Ông buồn biết bao nhiêu!

 

ôi xương máu thiêng liêng

nỡ quy ra quyền chức!

chiến công kia đâu chỉ của một thời

kẻ bán nước im lìm,

con hát cung đình câm bặt

lầm lạc nào theo vận nước nổi trôi

 

tôi kính chào nỗi khổ tâm lịch sử

cả những vênh vang, nông cạn, thiên tài!

thương Đất nước bốn ngàn năm

phải miệt mài đánh giặc

nát ruột nhìn Tàu,

người nhức buốt giữa gọng kìm.

Người thắng Mỹ.

                                                       cằn xói

tan rã. Từng đất nước đứng kề vai (4thơ)

ơi cánh chim vành khuyên hồn mở cửa

em hát lên ngân vang bài hát tự đời

hãy chân thành vút cao

nốt chữ đẫm mồ hôi lao nhọc

như đích thực con người

 

giọt sương ngọt vùng quê mưa dầm bụi đỏ

kết đính chát cay

trên rêu xanh đàn đá u trầm

bỗng bật mầm khi gặp tiếng khèn rừng lạ

em ngổ ngáo phố phường

lại hát tinh ròng

trong veo chất giọng miền nam?

cho lời ca tự đáy lòng thơm ngát

xao xuyến nao nao ngoảnh tận xa vời

chút lãng mạn bâng quơ

chạm vào xưa thẳm

thiên tài Tố Như

trong thời buổi ấy, chơi vơi.

 

TRẦN NGUYỄN PHAN

 

 

 

Bâng quơ,

chép tặng một chuyện tình

đến từ ngàn xưa vô ngần Hà Nội

đôi bạn yêu ơi, duyên của thuở nào

thủ đô mắt, Đông Đô môi, Thăng Long giọng nói

cùng rất Quảng trái tim

rót nắng tuổi chiêm bao

 

... tôi cát trắng, biếc dòng Hương, gập ghềnh núi

xa ngái Đàng Trong răng rứa mô tê

ơn Huyền Trân,

say dáng múa đội vò Chiêm nữ...

mang vết cứa sông Gianh đứt ruột ngoảnh về...

 

Bến Hải lau tranh trắng phơ hồn tấm bé

đặt chân lên bờ bắc

lòng rúng triệu tấn bom

khuya thông cầu Tiên An

búa dội rền giấc mỏi

chảy trên xương sống nối liền...

tôi cùng được mặn ngời

trong đầu máy nắng hồng

như giọt mồ hôi thơm...

 

... khi không rất Huế, rất Sài Gòn, tha thiết

nhìn ai nắm tay ai,

nghẹn hoang vu Thăng Long

đẫm niềm Hà Nội rực mũ rơm vàng

đã tìm thấy một nửa mình

hỡi trống đồng chim Lạc

cho hạnh phúc chạm vào hồn,

ngân nga trầm vang

 

thân thương ơi, tình yêu như cơn lốc

đôi bạn đắm say trong bùng xoáy nỗi đời

và mặc tâm bão tự quả đất tròn

bao lần suýt vỡ

cày xuống những cuộc tình

từng chia biệt đôi nơi.          

 

TRẦN NGUYỄN PHAN (6thơ)

 

CƯỚC CHÚ: Xem cuối chương XIII (ở cuối phần XII-B).  

 

 

( xem tiếp chương XIII-B )

 

 

E-mail: tranxuanan_vn@yahoo.com

Cập nhật 06/29/09                                                                   

Trở về trang chủ

                                                                 

 

 

DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE