d. Trần Xuân An (bs. & kc.) - Thơ Nguyễn Văn Tường (1824-1886) - Tệp 4: PGs.Ts. Võ Xuân Đàn

 

Web Tác giả Trần Xuân An

 

 

Trần Xuân An

biên soạn (tổ chức nội dung, khảo luận, bị chú các bài khảo luận của các tác giả,

chú giải thơ, chuyển ra ngôn ngữ thơ

trên cơ sở Thi tập chữ Hán do Nnc. Trần Viết Ngạc sưu tầm,

bản phiên dịch của Nnc. Trần Đại Vinh, Nnc. Vũ Đức Sao Biển, Nnc. Nguyễn Tôn Nhan

[Ts. Ngô Thời Đôn hiệu đính các bản dịch]).

 

Xem phần nguyên tác chữ Hán (hình ảnh quét chụp [scan]):

http://www.tranxuanan-writer-3.blogspot.com

http://www.tranxuanan-writer-4.blogspot.com

 

 

NGUYỄN VĂN TƯỜNG

TRƯỚC VÀ SAU VỤ BIẾN KINH THÀNH

HUẾ 05. 7. 1885

 

PGs.Ts. Võ Xuân Đàn (*a)

 

 

 

            Trong khoảng thời gian từ 1881 đến 1885, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết luôn được đề cập đến cùng trong một sự việc, cùng trong một thời điểm và cho đến ngày nay hai cái tên ấy vẫn được chúng ta nhắc đến trong niềm trân trọng và kính phục vì nó đã trở thành một biểu tượng của tinh thần và ý thức trách nhiệm đối với dân tộc, với vận nước, với truyền thống “không có gì quý hơn độc lập, tự do” mà nhiều thế kỉ trôi qua đã chứng minh điều đó.

            Về Tôn Thất Thuyết, hầu như chúng ta đã có sự nhất trí cao trong đánh giá trên các mặt: tiểu sử, sự nghiệp và giá trị lịch sử cống hiến của ông trong sự nghiệp giải phóng dân tộc những năm cuối thế kỷ XIX.

            Riêng Nguyễn Văn Tường, trong vài thập kỉ gần đây chúng ta mới nghiên cứu đánh giá lại trên quan điểm, tư duy mới bằng những tư liệu mới ở trong và ngoài nước. Chính từ đó mà chúng ta có cái nhìn chuẩn xác khách quan, đánh giá đúng mặt cống hiến và [hiểu – nbs.] những gì chưa rõ về Nguyễn Văn Tường.

            Nói đến phe chủ chiến trong Triều đình nhà Nguyễn chúng ta muốn nhấn mạnh và công nhận một thực tế lịch sử đó là sự cố gắng cuối cùng [, quyết thể hiện – nbs.] trách nhiệm đối với đất nước, đối với dân tộc của vua quan nhà Nguyễn trước họa mất nước chỉ còn trong gang tấc.

            Nguyễn Văn Tường, một trong những nhân vật thực hiện sứ mạng lịch sử ấy trong một hoàn cảnh lịch sử đầy biến động, trong một mối tương quan lực lượng hết sức bất lợi cho Việt Nam mà Triều đình [Huế] là đại diện và chịu trách nhiệm trước dân tộc và Tổ quốc.

            Nguyễn Văn Tường sinh ngày 14 tháng 10 năm 1824 (*b) trong một gia đình tiểu nông.

            Quê quán: xã Triệu Phước, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Do thông minh và hiếu học, năm 18 tuổi, thi hương đỗ tú tài (1842). Vì không phải là hoàng tộc mà mang họ Nguyễn Phước nên bằng cấp bị tước bỏ, không được dự thi suốt đời, Nguyễn Phước Tường phải đổi lại là Nguyễn Văn Tường (1).

            Sinh sống ở quê nhà ông vẫn lo dùi mài kinh sử mong có dịp đem tài năng ra phò vua giúp nước. Được vua Tự Đức xóa án sau 8 năm, 1850, Nguyễn Văn Tường thi đậu cử nhân, năm ấy ông 26 tuổi. Ông tự hào về sự kiện ấy: “Khởi đầu tiếc thay, bản án đã không cho tôi thi. Sau được ơn huệ cao cả của hoàng đế tôi đã dự thi và đậu số một” (*c) (2).

            Sự nghiệp trung quân, ái quốc của Nguyễn Văn Tường bắt đầu từ đó. Ông được Triều đình Huế trọng dụng vì thông minh, học thức rộng, có tài ngoại giao, quân sự, am hiểu thời cuộc. Trong 36 năm phục vụ trong Triều đình Huế, trải qua các đời vua: Tự Đức, Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi. Con đường quan lộ của Nguyễn Văn Tường tuy có lúc thăng giáng nhưng nhìn chung ông luôn được Triều đình Huế trọng dụng, tiến cử từ vị trí quan lại thấp đến vị trí quan lại cao. Ông tham gia giải quyết sự vụ khắp các miền Trung – Nam – Bắc của đất nước. Ông từng đảm nhận các chức vụ: làm quan ở huyện (Cam Lộ – Quảng Trị), án sát Quảng Nam, phủ doãn Thừa Thiên, khuyến nông sứ Thừa Thiên - Quảng Trị, viên ngoại lang Bộ Hình, tán lí Bộ Binh, tán lí quân vụ các tỉnh Bắc bộ, phó sứ bộ thương thuyết với Pháp ở Sài Gòn, thượng thư Bộ Hình, Bộ Hộ, Thương bạc đại thần trông coi ngoại giao, ngoại thương, thành viên Viện Cơ mật, đứng đầu hàng phụ chính đại thần, cùng với Tôn Thất Thuyết nắm thực quyền Triều đình Huế trong khoảng thời gian từ 1883 - 1885 dưới bốn triều vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi.

            Chúng ta có thể nhất trí nhận định rằng từ 1850 đến vụ biến kinh thành 05. 7. 1885 Nguyễn Văn Tường là một đại quan trung quân ái quốc. Ở cương vị được đề cử nào ông cũng làm hết trách nhiệm của mình, cần cù, kiên nhẫn, tự tin và quyết đoán, từ đó mà ông được vua quan, quần thần kính nể:

            “Giang sơn xuất vĩ nhân”

                        (thơ Phạm Phú Thứ).

            “Bậc nho tướng, đại trí, thông tuệ, thao lược”

                        (lời khen của Tôn Thất Thuyết).

            Ông được vua Tự Đức tấn phong danh tước “Kỳ Vĩ bá” và rất tin cậy, tìm cách gây thêm ảnh hưởng và tín nhiệm cho thượng thư Nguyễn Văn Tường. Tự Đức đã gả công chúa Đoan Thuận, chị ruột của Ưng Đăng, cho con trai trưởng của Nguyễn Văn Tường là Nguyễn Văn Tộâ nhằm tạo mối thân tình trong hoàng tộc với gia quyến Nguyễn Văn Tường và để được ông hết lòng phò tá vị vua kế nhiệm là anh em rể với con mình (3).

            Và quân xâm lược là bọn tướng tá thực dân Pháp phải khiếp sợ, coi ông là “kẻ thù lớn nhất của người Pháp”, “phải đập ông tan tành”...

            Mặc cho Triều đình nhu nhược, ông cương quyết chủ chiến với quân xâm lược Pháp vì hơn ai hết ông hiểu rõ dã tâm của quân Pháp. Trong các bản tấu của ông gửi vua Tự Đức, ông nhắc đến nhiều lần về tâm địa thực dân Pháp: “tham lam, giảo quyệt”, “xảo trá trăm mối”.

            Thái độ của Nguyễn Văn Tường đối với thực dân Pháp là bài xích, chống đối, cương quyết đứng về phe chủ chiến trong Triều đình Huế. Chủ trương, biện pháp và hành động của Nguyễn Văn Tường đối với thực dân Pháp là nhất quán. Ông cương quyết cùng Tôn Thất Thuyết chống đối và tiêu diệt kể từ vua trở xuống các đại thần, quan lại, khi biết họ có hành động liên kết, đầu hàng quân xâm lược.

            Những tư liệu hiện có về Nguyễn Văn Tường như tấu, cáo, thư, văn do ông viết ra và những tài liệu lịch sử lưu lại của nhiều tác giả trong và ngoài nước đủ để chúng ta đánh giá đúng Nguyễn Văn Tường trên các mặt sau đây:

            Về nhận thức của ông đối với quân Pháp: xâm lược, ác độc, tham lam, giảo quyệt. Về chủ trương: cương quyết chống quân xâm lược Pháp bằng những kế sách cụ thể: tích trữ binh, lương, tự cường, tự giữ từ các xóm làng khi quân giặc đặt chân đến, không sợ tham tàn, bạo ngược. Nguyễn Văn Tường chủ trương “bình Tây” nhưng không “sát tà” [“sát tả” – nbs.]. Đây là một chủ trương đúng, góp phần bảo tồn sức mạnh của dân tộc, đoàn kết các bộ phận dân cư để chống xâm lược.

            Về hành động chống Pháp của Nguyễn Văn Tường, được ghi nhận khá rõ nét; bản thân thực dân Pháp cũng thừa nhận những hành động chống đối của ông trên nhiều lĩnh vực: quân sự, ngoại giao, chính trị đối với chúng.

            Nguyễn Văn Tường được vua Tự Đức giao cho việc xây dựng thành Tân Sở ở Quảng Trị làm căn cứ khi gặp sự biến. Ông tự vẽ kiểu mẫu và tổ chức thi công.

            Với cương vị là thượng thư Bộ Hộ kiêm Thương bạc đại thần, ông [– nbs.] được vua Tự Đức giao toàn quyền trong việc giao dịch, đàm phán với người Pháp. Trên phương diện [kinh tế và – nbs.] ngoại giao này, Nguyễn Văn Tường luôn thể hiện là người chống đối thực dân Pháp.

            Trong thương thuyết với Pháp, tuy tương quan lực lượng không cân xứng, nhưng Nguyễn Văn Tường, với trách nhiệm của mình, đã khéo léo làm được những điều có thể làm được ngõ hầu mang lại những kết quả trong tình thế khó khăn, bất lợi. Chính kẻ thù đã phải thừa nhận điều này: “Con người dũng mãnh đã làm cho Pháp phải nhả Bắc Kì [...] cũng được coi như có khả năng làm cho Pháp nhả nốt Nam Kì” (thư Rheinart gửi thống đốc Nam Kì, ngày 30. 11. 1881).

            Trong quá trình đi đến kí kết điều ước Harmand ngày 25. 8. 1883 và điều ước Patenôtre ngày 6. 6. 1884 mà trong đó có những điều bất lợi cho thực dân Pháp, như điều 5 (điều ước Harmand) và điều 7 (điều ước Patenôtre), làm cho bọn tư bản thực dân ở chính quốc chỉ trích kịch liệt và cho rằng Harmand [lẫn] Patenôtre đều bị Nguyễn Văn Tường đánh lừa giống như ông đã đánh lừa Philastre trước đó gần mười năm để lấy lại các tỉnh Bắc Kì từ tay thực dân Pháp (J.Dupuis, Le Tonkin de 1872 à 1886, Histoire Politique, Paris, Challamel, 1910).

            Thực dân Pháp căm ghét ông và tìm mọi cách để Triều đình Huế bãi chức ông, từ đó loại trừ, tiêu diệt ông. Bức thư của Champeaux, đại diện Pháp lúc bấy giờ ở Huế, gửi thống đốc Nam Kì đã chứng minh điều này:

            “... Tôi không ngờ việc vận động nhỏ của tôi chống thượng thư đó lại có kết quả nhanh đến thế... Vì thấy rằng không thể mở rộng các mối quan hệ chính trị nếu cứ phải giao thiệp với quan Thương bạc mãi, tôi đã nghĩ phải buộc ông ta từ chức và thay ông ta bằng một người ít chống đối ảnh hưởng của ta hơn... Quan Thương bạc vẫn còn là thượng thư Bộ Hộ và thứ trưởng Viện Cơ mật. Với tư cách sau, ông vẫn còn có thể chống đối chúng ta. Muốn thoát nạn, ta còn phải đập ông tan tành cả ở phía ấy (*d).

            Phe chủ chiến trong Triều đình Huế ngày càng lớn mạnh, hầu như làm chủ Triều đình khi vua Tự Đức mất. Sự kiện “tứ nguyệt tam vương” và vụ biến kinh thành 5. 7. 1885, đã minh chứng nhận định này. Trong đó, sự đóng góp của Nguyễn Văn Tường là to lớn và quan trọng, không chỉ chúng ta công nhận mà ngay cỏ kẻ thù cũng phải thừa nhận: “Kể từ năm 1874, trở thành nhân vật ảnh hưởng nhất Triều đình Huế” (năm 1874 Nguyễn Văn Tường kiù với Pháp thỏa ước rút quân ở Bắc Kì và kí hiệp ước 15. 3. 1874) hay: “Khi trở thành đứng đầu phe cứng rắn, chính Tường đã xúi Tự Đức coi thường hiệp ước năm 1874”.

            Vụ biến kinh thành Huế đêm mùng 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1885 đã thành mốc sự kiện đánh giá hai thời điểm trong cuộc đời Nguyễn Văn Tường.

            Từ tháng 7. 1885 trở về trước ông là ngôi sao sáng trong hàng ngũ quan chức của Triều đình Huế. Lúc đó ông 61 tuổi, hơn Tôn Thất Thuyết 15 tuổi, ông đã cống hiến gần trọn cuộc đời cho triều Nguyễn và cho dân tộc trong một bối cảnh lịch sử đầy biến động: sự mất còn của đất nước, cảnh lầm than khổ nhục của dân tộc trong gần 27 năm trên bước đường xâm lược của thực dân Pháp và sự chống trả quân xâm lược ngoan cường của nhân dân không có sự tổ chức và ủng hộ của Triều đình Huế. Sự kiện Nguyễn Văn Tường không cùng Tôn Thất Thuyết hộ giá vua Hàm Nghi lên đường, phát động phong trào Cần vương chống Pháp mà trở lại kinh thành Huế với kẻ thù của dân tộc, của Triều đình và của cả ông, đặt ra cho chúng ta những kiến giải khác nhau.

            Đối với bản thân, ông không thanh minh, giải thích sự việc ông ở lại Huế tham gia Triều đình do thực dân Pháp dựng lên mà ông để cho đời sau xem xét, đánh giá: “Thị phi nhiên phó thiên thu luận” (phải trái phó mặc cho ngàn năm sau bàn luận) (4).

            Tính từ ngày xảy ra vụ biến kinh thành 5. 7. 1885 cho đến ngày ông bị thực dân Pháp bắt đày đi Côn Đảo, ngày 6. 9. 1885, vừa đúng hai tháng ông sống cùng thực dân ở Huế. Sau đó là cuộc sống lưu đày 10 tháng 25 ngày cho đến khi Nguyễn Văn Tường qua đời tại Tahiti.

            Giai đoạn thứ hai của cuộc đời Nguyễn Văn Tường chỉ có 1 năm 25 ngày. Trong đó có 2 tháng thực dân Pháp sử dụng ông cho công cuộc xâm lược của chúng nhưng không thành công.

            Hai tháng ở lại Huế của Nguyễn Văn Tường, quãng thời gian ấy đã cách đây [– nbs.] vừa đúng 111 năm; nhưng sự kiện ấy, quãng đời ấy của ông đến nay vẫn cần được làm sáng tỏ để từ đó đánh giá đúng về ông, để hiểu đúng giữa công và tội mà ngót trăm năm trôi quan vấn đề chưa đi đến hồi kết thúc.

            Nguyễn Văn Tường trở lại Huế là đầu hàng, làm tay sai cho thực dân Pháp hay ông trở lại Huế để tiếp tục sự nghiệp của phe chủ chiến theo một đường hướng mới? Hướng mới đó là gì? Đó chính là tiếp tục thương thuyết, điều mà Nguyễn Văn Tường có thế mạnh, có kinh nghiệm, để chờ thời cơ giành lại chủ quyền cho quốc gia, dân tộc. Một bức văn thư của vua Hàm Nghi gửi Nguyễn Văn Tường sau khi nhà vua rời bỏ kinh thành đã nói lên sự thật ấy. Văn thư có đoạn viết:

            “... Nay đại thần Tôn Thất Thuyết cùng theo liền với ta, khanh là phụ chính đại thần vẫn lưu lại thương thuyết. Kẻ ở, kẻ đi đều là một lòng ưu [quốc] ái [dân], thực có hoàng thiên, hậu thổ xét soi. Khanh nên thể rõ cái thịnh tình của tiên đế giao thiệp với lân bang trước sau như một, mà giảng rõ cho biết sự lợi hại của lí thế, quyền hành, hết lòng thương lượng cho thỏa đáng, phàm mọi điều khoản bức hiếp phải cộng đồng châm chước thay đổi lại...”.

            Trong hai tháng ngắn ngủi, Nguyễn Văn Tường đã thực hiện nhiều công việc: ổn định tình hình an ninh trật tự ở kinh thành, tổ chức lại triều chính, trông coi tông miếu, lăng tẩm và Tam Cung. Một văn thư của vua Hàm Nghi gửi hoàng thân quốc thích đã xác nhận những đóng góp trong thời điểm éo le, hiểm nghèo của Nguyễn Văn Tường:

            “Nay đã có phụ chính huân thần Nguyễn khanh (Nguyễn Văn Tường) ở lại giảng giải, nghe đâu cũng được nhiều việc, mọi sự hơi được yên ổn. Huân thần tâm sự như thế, cáng đáng như thế, thực là rất lấy làm khổ tâm. Nhân vật nước Nam ta từ xưa [, những người] trung nghĩa cũng khó hơn được”.

            Thực dân Pháp không hề ngộ nhận Nguyễn Văn Tường đầu hàng, cộng tác với chúng.

            Bọn quan lại đầu hàng làm tay sai cho thực dân Pháp như: Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình, Miên Định (5), Ưng Kỉ (6) tố cáo hành động chống Pháp của Nguyễn Văn Tường trước đó, cho ông là kẻ “giả hàng”, “tráo trở”, “ngầm làm việc ám muội” (7).

            Sự kiện ngày 06. 9. 1885 khi De Courcy đày ông đi Côn Đảo, rồi đày tận Tahiti cùng với Phạm Thận Duật, Tôn Thất Đính là sự chứng minh đầy sức thuyết phục rằng Nguyễn Văn Tường không phải là kẻ đầu hàng, bán nước, làm tay sai cho thực dân Pháp.

            Một sự kiện khác nữa chứng minh cho điều này. Đó là việc thân sinh Tôn Thất Thuyết, người bạn tù với Nguyễn Văn Tường, là Tôn Thất Đính, không quản tuổi cao, sức yếu, đường đi cách biển, ngăn sông, đã mang hài cốt của Nguyễn Văn Tường, người bạn đồng triều, đồng chí hướng với con mình về an táng ở quê nhà. [Các xóm làng ở Cam Lộ đều lập miếu thờ vọng – theo tư liệu của Trần Viết Ngạc – nbs.]. Đó là sự thừa nhận Nguyễn Văn Tường là người yêu nước từ trong tình cảm của nhân dân, của những người cùng chí hướng với ông.

            Hai giai đoạn trong cuộc đời yêu nước chống Pháp của Nguyễn Văn Tường trái ngược nhau, nhưng không mâu thuẫn, không khác về bản chất. Vị “nho tướng” ấy, vị phụ chính đại thần, Cần Chánh đại học sĩ, Kì Vĩ quận công Nguyễn Văn Tường không cần đến ngàn năm để hậu thế luận bàn công – tội, mà trăm năm trước đó và hiện tại hôm nay chúng ta đã từng bước, qua quá trình sưu tập thư tịch, nghiên cứu sự kiện đã đánh giá đúng Nguyễn Văn Tường, con người có tấm lòng trung trinh với nước, với dân, đã có những cống hiến nhất định ở một giai đoạn lịch sử đau thương của dân tộc. Công lao ấy, cống hiến ấy xứng đáng được tôn vinh, xứng đáng gắn liền tên ông với Tôn Thất Thuyết – hai vị đại thần đứng đầu phe chủ chiến trong Triều đình Huế.

 

V.X.Đ.

 

(Trích từ cuốn khảo luận: Kỉ yếu Hội nghị khoa học, 20.6.1996, về đề tài “Nhóm chủ chiến trong Triều đình Huế và Nguyễn Văn Tường”, do Trường ĐHSP. TP. HCM, [chủ trì] ấn hành, tr. 113 - 118).

 

 

 

        (*a) Giảng viên ĐHSP. TP. HCM., nhà nghiên cứu sử học.

        (*b) Trần Viết Ngạc: ghi năm sinh 1824.

            Phan Trần Chúc: ghi năm sinh 1820.

            Tsuboi: ghi năm sinh 1818? (chú thích của Ts. VXĐ., tác giả bài viết).

        (*c) Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Hội Sử học Việt Nam xb., Hà Nội, 1993, trang 291 (chú thích của Ts. VXĐ.).

        (*d) Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Hội Sử học Việt Nam xb., Hà Nội 1993, trang 294 (chú thích của Ts. VXĐ.).

 

(1)     Xin xem chú thích (1), (2), (4) bản dịch nghĩa bài thơ 14.

(2)     Theo QTHKL., sđd., tr. 297: Nguyễn Văn Tường đỗ với vị thứ 20/48. Theo cách diễn đạt của Y. Tsuboi, thì Nguyễn Văn Tường đỗ đình nguyên (NĐNĐDVP. & TH., sđd., tr. 268). Nhưng theo Quốc triều đăng khoa lục, sđd., tr. 183, 189 và tr. 198, Nguyễn Văn Tường có ba lần làm giám khảo thi đình (1875, 1877, 1880), mặc dù chưa đỗ tiến sĩ bao giờ. Chưa đỗ tiến sĩ, nhưng theo vua Tự Đức, ông thuộc hạng bậc thầy của tiến sĩ! Về hai cuốn sách QTHKL., và QTĐKL., đó là hai công trình, theo lời tựa, do một vài người nối tiếp nhau làm, chủ yếu là Cao Xuân Dục; vả lại, sách đã bị sửa chữa, “hiệu đính” do con trai và con rể của Cao Xuân Dục về sau; do đó, có thể có sai sót, nhầm lẫn. Xin đơn cử, cứ như QTHKL., thì Nguyễn Văn Tường có đến hai lần đỗ kì thi hương (1842 và 1850), cả hai lần đều lấy họ Nguyễn Phước, nếu đối chiếu kết hợp với ĐNTL.CB., tập 24, tr. 163 - 165!

(3)     Chi tiết này chứng tỏ Nguyễn Văn Tường không mang dòng máu hoàng tộc Nguyễn Phước! Thời Nguyễn không phải là thời Trần! (Quan hệ hôn nhân trong nội bộ hoàng tộc triều Trần có phải là sự thật, ở một đất nước có nền văn hiến lâu đời?).

(4)     Trong bài thơ “Giải triều...”, thực ra Nguyễn Văn Tường đã gửi lại cho “thiên thu hậu” hai chữ “nhất dạng” (hoặc “bất nhị”). Hai bản dụ gửi Nguyễn Văn Tường (và cả dụ gửi hoàng tộc) đã khẳng định sự nhất dạng đó. “Kẻ ở, người đi” (chữ trong bản dụ ấy của vua Hàm Nghi [& Tôn Thất Thuyết]), có nghĩa là người đàm kẻ đánh: mặc dù ở hai nhiệm vụ, nhưng cũng chỉ là một, giống nhau, và trước sau không thay đổi lòng dạ. Xin xem bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc kinh đô quật khởi, 05. 7. 1885” (“Vài chủ điểm sử học sơ lược cần thiết khi cảm nhận bài “Giải triều …””).

(5)     Thọ Xuân vương Miên Định, giám quốc sau 23. 5 Ất dậu (1885).

(6)     Ưng Kĩ lên ngôi vua, lấy hiệu là Đồng Khánh. Ngoài tên Ưng Kĩ, Đồng Khánh còn có tên là Ưng Đường.

(7)     Nguyễn Văn Tường với tư cách là vị đại thần cao nhất Triều đình, một nhà chính trị, ngoại giao với tài năng thương thuyết, ở lại Huế để đấu tranh trực diện với kẻ thù xâm lược, theo phương thức “người đánh, người đàm”.

 

            Tài liệu tham khảo:

            1. Đại Nam thực lục (Quốc sử quán triều Nguyễn).

            2.  Đại Nam hội điển sự lệ (Quốc sử quán triều Nguyễn).

            3. Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (Yoshiharu Tsuboi).

            4. Việt Nam sử lược (Trần Trọng Kim).

            5. Vua Hàm Nghi (Phan Trần Chúc).

            6. Lịch sử Việt Nam cận đại (Nguyễn Văn Kiệm, Hồ Song, Hoàng Văn Lân, Ngô Thị Chính).

            7. Lịch sử Việt Nam tập II (Nguyễn Phan Quang – Võ Xuân Đàn).

            8. Các tài liệu do nhà nghiên cứu – giảng viên Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh Trần Viết Ngạc cung cấp.

 

(Cước chú về “Tài liệu tham khảo” của PGs.Ts. Võ Xuân Đàn, tác giả bài viết).

 

 

 

 

 

 

Xem tiếp:

http://tranxuanan.writer.2.googlepages.com/tho_nvt-vnvcnthvttuong_5.htm

 

Cũng có thể xem tại:

http://www.tranxuanan-writer-5.blogspot.com  

http://www.tranxuanan-writer-6.blogspot.com

Trở về trang

danh mục tác phẩm -- muc lục:

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/danhmtphamtxa_googlepcreator.htm

 

bài mới -- sách mới -- tin tức mới: 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/baimoi-sachmoi-2

______________________________________________________________________________________________________________

 

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/home

 

 

Google page creator /  host

 

GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE  

 

    lên đầu trang (top page)   

 01 & 02-5 HB7 (2007) = 15 & 16-3 Đinh hợi HB7