o. Bài 15-Tl.1 - Trần Xuân An -- Đọc và cảm nghĩ - "Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung"

 

Web Tác giả Trần Xuân An

 

 

BÀI MƯỜI LĂM

 

 

TRẦN XUÂN AN

 

Đọc và cảm nghĩ về cuốn sách rút gọn

“ĐI TÌM LĂNG MỘ VUA QUANG TRUNG”

của nhà nghiên cứu sử học NGUYỄN ĐẮC XUÂN

 

 

 

1.

 

Khởi từ cảm nhận riêng để đọc sách

 

Trong những lúc hồi tưởng và suy nghiệm về nỗi đau chia cắt đất nước, vết thương sông Bến Hải trên quê nhà Quảng Trị, tôi không thể không nhớ đến vết thương sông Gianh suốt hai tram năm Trịnh - Nguyễn phân tranh. Trong nỗi đau hậu chiến, hai vết thương lịch sử ấy đã được nghiền ngẫm với nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Và hình ảnh Quang Trung Nguyễn Huệ thời xa xưa ấy cùng hình ảnh Lê Duẩn, cách đây chỉ hơn ba mươi năm, như thể sừng sững hiện ra trước mắt. Không thể khác được, cho dù ở chiến tuyến nào, ai cũng phải thừa nhận sự thật lịch sử với sự nổi bật của hai nhân vật lịch sử ấy.

 

Trong những năm tháng nghiên cứu, suy tư để viết tiểu thuyết “Mùa hè bên sông” ấy, bất ngờ tôi tìm ra được một cách nhìn mới về Nguyễn Bỉnh Khiêm. Không ai khác, nếu giai thoại “tiên tri” về ông là đúng với sự thật, chính Nguyễn Bỉnh Khiêm là người nhìn ra xu thế chia cắt đất nước và khuyến khích sự chia cắt đau đớn ở sông Gianh, bên nay Đèo Ngang: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (Đèo Ngang một dải, vạn đời dung thân). Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là người khuyến khích sự chia cắt Cao Bằng cho con cháu nhà Mạc, một “Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thế” (Cao Bằng tuy mỏng đất, cũng có thể kéo dài được vài đời).

 

Vết thương 200 năm, từ đó, để lịch sử có một Tây Sơn - Nguyễn Huệ.

 

Nguyễn Huệ hiển hách, lừng lẫy trong sự nghiệp thống nhất hai Đàng, Trong và Ngoài, nhưng bất hạnh với cái chết khá đột ngột, khi đang ở độ tuổi trung niên. Và từ sau cái chết đó, triều đại do ông xây dựng nên cũng trượt dần xuống dốc, đổ ập xuống vực thẳm.

 

Bi kịch lịch sử với nỗi đau hậu chiến lại xảy ra trong vinh quang và công lao hoàn tất sự nghiệp thống nhất của một người khác -- Nguyễn Ánh --, mặc dù Nguyễn Ánh và Nguyễn Huệ là kẻ thù đối địch. Đàng Ngoài của vua Lê chúa Trịnh thảm bại bị lấn lướt bởi Đàng Trong của nhà Tây Sơn chiến thắng và nhà Nguyễn kế tục chiến thắng. Nếu chiến thắng của Tây Sơn - Nguyễn Huệ, vốn là chiến thắng của lực lượng thứ ba, đánh bại cả Nguyễn lẫn Trịnh, hai lực lượng chia cắt đất nước kia, thì chiến thắng cuối cùng, gom giang sơn về một mối lại là chiến thắng của một trong hai lực lượng chia cắt đất nước. Bi kịch là bởi một trong hai lực lượng đối địch nhau suốt 200 năm lại có một bên chiến thắng. Do đó, về phía nhân dân, trong đó có sĩ phu, ở cả Đàng Ngoài lẫn tại Đàng Trong, đều đâm ra tiếc nuối một nhân vật “hoà giải” -- “hoà giải” hai Đàng bằng cách đánh đổ cả hai phe chia cắt, Trịnh và Nguyễn.

 

Lắm khi, tôi cứ mong ước chính Lê Duẩn vừa là Nguyễn Ánh (của một phía) vừa là Nguyễn Huệ (lực lượng thứ ba)… Nhưng sự thật là sự thật, mặc dù Lê Duẩn là người bên này vĩ tuyến 17, bên này sông Bến Hải, là người Miền Nam.

 

Suy nghĩ và viết như vậy là liều lĩnh, khó được tờ báo, nhà xuất bản nào trong nước chấp nhận. Nói liều lĩnh, thì quả đúng là liều lĩnh, thậm chí là liều mạng, nếu cả xã hội cứ buồn rầu chấp nhận viết theo những nếp mòn của văn chương, học thuật. Nhưng cả đất nước đã Đổi mới, thực sự giải phóng tư tưởng và sáng tạo, thì những ý nghĩ vừa viết lại trên kia có gì “liều” đâu!

 

Có nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng chính Từ Hải trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, kẻ sĩ Đàng Ngoài, là hình bóng khúc xạ của Nguyễn Huệ, chói lọi, vụt tắt và để lại niềm tiếc nuối khôn nguôi.

 

Tôi nghĩ: Chính niềm tiếc nuối ấy, lại góp phần huyền thoại hoá Nguyễn Huệ trong tâm thức kẻ sĩ Đàng Ngoài. Và tôi có thể khẳng quyết: Nếu một lực lượng thứ ba khác chiến thắng, thống nhất đất nước, chứ không phải là hậu duệ nhà Nguyễn -- Nguyễn Ánh -- , cựu thù của Đàng Ngoài, thì chưa chắc Nguyễn Huệ lại có hồi quang rực rỡ như vậy.

 

Chính nhân dân, sĩ phu Đàng Ngoài (hẳn không ít người trong số họ có người thân đi lính cho chúa Trịnh, bị quân Tây Sơn - Nguyễn Huệ tiêu diệt) lại tưởng tiếc về chính Nguyễn Huệ, phải chăng là nghịch lí?

 

“Đại Nam liệt truyện”, trong đó, Quốc sử quán chép việc quân Tây Sơn - Nguyễn Huệ và nhân dân Huế đã đánh bại quân chúa Trịnh - kẻ thù từ Đàng Ngoài vào chiếm đóng thành Phú Xuân, máu ngập cả đường xứ Huế, đỏ lềnh cả sông Hương:

 

 “Phạm Ngô Cầu lại nhút nhát, hay ngờ vực, không hợp với phó tướng Hoàng Đình Thể. [Nguyễn] Nhạc và [Nguyễn] Huệ nhòm ngó [thành Phú Xuân] đã lâu, đến đây biết là có thể lấy được. Trước hết, [Nguyễn Huệ] sai thuật sĩ đem việc hoạ phúc làm cho [Phạm Ngô] Cầu mê hoặc. [Phạm Ngô Cầu] sai tướng sĩ đặt đàn chay lớn, ngày đêm không nghỉ. Quân bộ của [Nguyễn] Huệ qua núi Hải Vân, thủ tướng của họ Trịnh [Đàng Ngoài] là Hoàng Nghĩa Quyền đánh nhau [với quân Tây Sơn], bị chết. Quân thuỷ của [Nguyễn] Huệ từ cửa biển vào. Hai đường đều tiến lại. Cầu nghe tin báo, vội vàng từ đàn [chay tế] chạy về, mưu đem quân để chống. Nhưng quân lính [vì tế đàn dài ngày, thức suốt nhiều đêm,] mỏi mệt đã lâu, đều không có lòng chiến đấu. [Nguyễn] Huệ mật sai [Nguyễn] Hữu Chỉnh đem thư bóc nến [:sáp nến], [mật] ước với [Hoàng] Đình Thể, [rằng Thể] làm nội ứng [cho quân Tây Sơn], mà giả cách đưa lầm đến cho Cầu. Cầu cho Thể với Chỉnh cùng là môn hạ của [Hoàng] Ngũ Phúc [tướng của họ Trịnh], [nay Chỉnh đã theo hàng Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, nhưng hẳn giữa Thể với Chỉnh vẫn còn tình cố cựu, đồng môn thuộc, biết đâu đã móc nối với nhau để cùng quy hàng quân Tây Sơn]. [Như thế, Cầu nghĩ], tất không lợi cho mình. Trong lòng [Phạm Ngô Cầu] ngờ vực, sợ hãi, riêng tính kế đón hàng [quân Tây Sơn] để mong được khỏi chết” “Rồi thì quân Huệ chợt đến, quân thuỷ, quân bộ đánh giáp lại. Cầu sai Thể ra khỏi thành đón đánh. Thành gần bờ sông. Quân ở thuyền của [Nguyễn] Huệ ngửa trông lên chân thành, [thấy thành] cao hơn hai trượng, không thể ngửa lên bắn được. Thể bắn súng lớn chìm một chiếc thuyền. Quân [Nguyễn] Huệ hơi lùi. Chợt khi nước sông lên mạnh, thuyền sát đến thành, [quân Nguyễn Huệ] chiếu vào thành mà bắn. Rồi [Nguyễn Huệ] cho quân bộ vây các cửa thành. Thể cùng hai con [trai] hết sức đánh, chém giết được vài trăm người. Thuốc đạn đều hết, [Thể] sai người xin ở Cầu. Cầu không cho. Thể cả giận, muốn vào thành giết Cầu trước rồi sau mới ra đánh, thì đã thấy trên thành [chính Phạm Ngô Cầu đã cho lính] dựng cờ trắng [đầu hàng quân Tây Sơn] rồi. Thể lại vây quân, đem dao ngắn đánh tiếp, giết được vài mươi người. [Cuối cùng] hai con [trai Thể] đều chết trận. Thể sức kém, cũng tự đâm cổ, chết trên bành voi. [Nguyễn] Huệ đem quân vào thành [Phú Xuân], giết rất dữ. Quân miền Bắc [của họ Trịnh] ở trong thành vài vạn người đều [bị] giết hết cả. Người nào chạy ra ngoài thành, thì dân [Thuận Hoá] tranh nhau giết chết. Đốc thị là Nguyễn Trọng Đương cũng chết trong đám loạn quân. [Phạm Ngô] Cầu [tự] trói tay về sau lưng, xin hàng [Nguyễn Huệ]. [Nguyễn Huệ] đem [Phạm Ngô Cầu] về Quy Nhơn, giết đi””.

 

Thế mà đến khi Nguyễn Huệ đột ngột chết, triều đại do Quảng Toản, con trai ông, kéo dài không mấy năm, cũng sụp đổ, sĩ dân Đàng Ngoài lại luyến tiếc Tây Sơn - Nguyễn Huệ. Trong những dòng nước mắt khóc ông, có những giọt lệ của chính con gái vua Lê, một nhà Lê hoàng tộc bị lưu vong trên đất Trung Hoa do chính thanh gươm, vó ngựa Nguyễn Huệ: “Ai tư vãn” của Lê Ngọc Hân! Nghịch lí, nhưng quả thực, niềm tiếc nuối Nguyễn Huệ là sự thật lịch sử.

 

Một lẽ nữa, không thể không nhớ đến khi nghĩ về Tây Sơn - Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ đích thực là một anh hùng dân tộc, có công thống nhất đất nước, mặc dù theo một số sử sách, ông có một gốc gác huyết thống lâu đời không thuần Việt, mà thuộc một tộc người nào đó ở Trung Hoa nhiều đời sang cư ngụ ở nước ta. Ông là hậu duệ xa đời của Hồ Quý Ly. Chính điều này, khiến lòng tự hào dân tộc của chúng ta có gì đó cứ lấn cấn, và hình ảnh Nguyễn Huệ trong ta đã ít nhiều bị sứt mẻ, không toàn bích.

 

Từ những suy nghĩ ấy, tôi đọc cuốn sách nhỏ do nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân rút gọn từ cuốn sách ông đã xuất bản với dạng in giấy: “Đi Tìm Lăng Mộ Vua Quang Trung”, do Viện Sử học Việt Nam xuất bản đúng 15 năm trước (1992).

 

 

 

2.

 

Đọc sách của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân & nghĩ

 

Tôi nghĩ, sự nghiệp của Nguyễn Huệ (Quang Trung) rất vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử to lớn, sâu sắc. Tuy vậy, “Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung” không phải là một đề tài lớn. Không lớn, nhưng cực kì khó. Đó là một bài toán khó giải. Người giải được nó, tìm ra đáp số, phải là một nhà nghiên cứu kì công và rất cần được sự hỗ trợ của liên ngành, nhất là ngành khảo cổ học.

 

Nguyễn Đắc Xuân là nhà nghiên cứu sử học kì công đó. Nhưng quá trình nghiên cứu của ông cho thấy, từ thư tịch cổ, một vài câu thơ của Ngô Thì Nhậm và nguyên chú của ông, thơ Phan Huy Ích, từ các chi tiết trong truyện “Nguỵ” Tây Sơn của “Đại Nam liệt truyện”, Nguyễn Đắc Xuân đã đi tìm lăng mộ vua Quang Trung và hành cung Đan Dương trên đất Phú Xuân (Huế).

 

Khác với những cuốn sách trước, chuyên vê loại sưu tầm “chuyện kể”, “giai thoại”, “cố sự”, rõ ràng “Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung” là một công trình nghiên cứu khoa học công phu. Tuy nhiên, như ông đã tâm sự ngay trong những dòng rút gọn: suốt bao nhiêu năm chờ đợi, ông vẫn chưa được ngành khảo cổ của nước ta hỗ trợ để khai quật địa điểm ông đã xác định, đã bước đầu cùng một nhóm nhà nghiên cứu ở Huế khai quật thám sát. Đó là thạc sĩ Phan Thuận An, PGS. TS. Đỗ Bang, bác sĩ Dương Văn Sinh, các ông Lê Đình Liễn (khoa Sử Đại học Tổng hợp Huế, nay dạy ĐHDL Phú Xuân), Phạm Thanh Tùng (Báo Bình Trị Thiên, nay làm Trưởng Đại diện báo Tiền Phong tại miền Trung), Võ Xuân Trang (khoa Văn Cao Đẳng sư phạm Huế, nay đã qua đời), Nguyễn Hữu Oánh (người chủ khu vực khảo sát), ông Nguyễn Hữu Thứ (một tri thức đã từng nghiên cứu lăng Bà Vành, nay đã qua đời). Nhóm nghiên cứu ấy hỗ trợ ông Nguyễn Đắc Xuân, người tự đề xuất đề tài, làm chủ đề tài, trực tiếp thực hiện quá trình nghiên cứu riêng. Và Nguyễn Đắc Xuân đã đi gần đến đích, đó là đáp số của công trình nghiên cứu.

 

Thực sự, đáp số vẫn còn dưới lòng đất, nơi cần khai quật kĩ lưỡng với quy mô lớn, và do đó, cũng cần kinh phí lớn.

 

 

 

3. Thoát khỏi sách & lại nghĩ ngợi ngoài lề

 

Đọc sách tự rút gọn để giới thiệu trên mạng liên thông toàn cầu của Nguyễn Đắc Xuân, tôi khởi đi từ cảm thức riêng của bản thân tôi về Nguyễn Huệ. Khi đọc sách ông, tôi lại lần theo những bước chân và năm tháng kiên trì nghiên cứu của ông, quá trình tìm cho ra lăng mộ vua Quang Trung, và cảm thấy nóng lòng muốn được nhìn một di chỉ nào đó dưới lòng đất có sức thuyết phục hơn. Chẳng lẽ dưới lòng đất không còn một mẩu gốm nào, một mảnh ấn triện nào có ghi rõ dấu chỉ về hành cung Đan Dương và lăng mộ Quang Trung đại đế? Để rồi, khi thoát ra khỏi sách của Nguyễn Đắc Xuân, bên cạnh nỗi nóng lòng về đáp số đó, còn có một thông tin khác, bên lề, khiến tôi nghĩ về một Nguyễn Huệ và phong trào Tây Sơn nho giáo cực đoan. Không cực đoan thế nào được khi dám xây hành cung trên nền chùa cũ, nơi trang nghiêm thờ Phật, giữa một đất nước vốn có truyền thống “tam giáo đồng quy”?

 

Phải nêu ra ngoài lề một dấu hỏi, tôi nghĩ vậy. Vâng chỉ là cảm nghĩ ngoài lề thôi, bởi đề tài của cuốn sách là “Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung” chứ không phải sự nghiệp, vai trò của ông, niềm luyến tiếc và nỗi lấn cấn về ông ở phương diện huyết thống cũng như tư tưởng - tín ngưỡng của ông.

 

Mấy ngày cuối năm Bính tuất HB6-7 này, đọc sách của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, lại được trao đổi đôi dòng với ông qua vài điện thư, tôi cũng chợt nhớ đến một bài thơ tôi viết sau chuyến đi Hà Nội đầu tiên trong đời. Xin kính chép lại tặng nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân trước khi dẫn những đường nối kết (links) đến với nhiều người đọc quý mến, thân ái của trang web miễn phí được xây dựng trên cơ sở chủ quản (host) hào phóng này.

 

 

 

SÁNG THÁNG GIÊNG Ở GÒ ĐỐNG ĐA

 

1

lặng mình trước tượng đài Quang Trung

gò Đống Đa dưới chân tôi!

Nắng tỏa

từ quản bút lưng trâu và chú bé Hồ Thơm (1)

trên đèo núi chập chùng

từ thanh gươm Nguyễn Huệ Tây Sơn

nghe sử thi thắp tim mình chói lóa

2

ông cha vào khai khẩn đất phương nam

mãi xót lòng nỗi cằn cỗi Nghệ An

phải đổi họ lấy chút yên thân nơi xứ lạ

vua, và hai chúa hai Đàng

Đất nước nát tan

đành dựng cờ đào trên rối bời tàn phá

với thanh gươm nghĩa cả

3

lần đầu tiên ra đây đến ngồi trên ghế đá

tôi ngẩng mặt trên bàn đá

đọc lời hịch hào hùng chói ngời dân dã

chạm lên tảng đá

sáng rọi nghìn sau

ngước nhìn tượng đài Ông cao vút trời sâu

mắt Quang Trung

nhìn tận Cửu Long

- lũ lũ đàn đàn quân Xiêm tan rã - sạch làu!

mắt Quang Trung

vượt qua gò đất chiến công

- một núi xác Tàu –

tầm kế sách vượt bao triều vua vương giả

4

sao để mãi hồn dân tộc bao đời đành sáng

ngời trong văn tự lạ!

bắt con Trời Càn Long đầu gật mày chau

Quang Trung lấy lại Lưỡng Quảng nghìn xưa

bằng hào quang và một cỗ cau trầu!

(ôi lịch sử loài người!

những dân tộc

những quốc gia

dồn đuổi nuốt tươi nhau!)

5

thực dân Phương Tây từ lâu

dò la Bắc – Nam

run rẩy đưa cao thập giá

run rẩy đưa cao nhánh lá (2)

kèm bản đồ

giấu trong hàng hóa:

thư về nước, ngẩn ngơ, kinh hoàng

phơi lòng dạ!

ngợi ca Át-ti-la Phương Nam (3)

nét chữ bần thần nghiêng ngả

nguyện cầu!

6

danh sĩ Bắc Hà tâm phục đến chầu (4)

Hoàng đế Phương Nam, áo vải,

da sạm nâu

rất mưu lược

sao hiền hòa chân thành quá

rất bản lĩnh

và ân tình đến lạ

7

lặng mình trước tượng đài Quang Trung

hiểu tuổi sống của thiên tài Tây Sơn

thắp sức sống nhân dân

sáng bừng vận nước

nhưng “Ai tư vãn” muôn đời còn đau! (5)

đau đến muôn trùng!

8

tôi ngồi trên ghế đục ra từ núi đá

ngẩng mặt trên bàn đục ra từ núi đá

trên xác thù bạo ngược

gò Đống Đa

ngập nắng sáng, tháng giêng

lá xanh, xanh mướt

thầm hát câu thơ về người áo vải anh hùng

cảm khái dân tộc mình dựng lên tầm cao Tổ quốc

phải bằng sông máu núi xương

và gò xác giặc điên khùng!

ôi, gò xác này chỉ là biểu trưng

một tầm cao, cao thẳm, không biết

lấy gì đo được!

9

đâu rồi đền miếu, bát hương thuở trước

đã thắng giặc bằng căm thù

và bằng cả bao dung!

hương khói

tỏa lên dăm nét chữ chỉ đích danh:

lũ rối sắt máu, từ tim đen Càn Long

luôn chờ cớ xua quân cướp nước!

ôi lịch sử

nhân và nghĩa

cho vô cùng!

10

Quang Trung

người dựng mùa xuân

trên nỗi tan hoang hai miền Tổ quốc

bằng muôn triệu kiếm cung

trổ lên từ đồng Nam ruộng Bắc

bằng thanh gươm lóe thép Tây Sơn

bằng mùa mai thắm tươi ra Bắc

bằng mùa đào sáng bừng vào Nam

mùa xuân nối liền

vết thương sông Gianh

hai trăm năm

đau thắt Miền Trung

11

Hồ Thơm: Nguyễn Huệ: Quang Trung!

từ Nghệ An cỗi cằn

ông cha vào phương nam khai hoang

cánh chim Phượng Hoàng

mơ về đậu đỉnh xanh núi Quyết

chỗ đòn gánh kê vai gánh trĩu mùa vàng

chín rạn và bầm huyết

phải chăng

Trung Đô (6)

chiến lược nối liền Nam - Bắc hai Đàng?

và phải chăng

lệch tình ruột thịt cố hương nên nghiêng đổ hết?

12

Quang Trung

chỉ là lực biến dịch

cho sông Gianh thôi gào thét?

để vận nước nối liền bằng thanh gươm Gia Long

cựu thần Đàng Ngoài cuồng trung giẫy chết

Nguyễn Du khóc Kiều đứt ruột đắng lòng

qua Đèo Ngang, buổi nắng tà uá rét

"quốc quốc gia gia" hoài Lê thê thiết

Bà huyện Thanh Quan

tự đục tên khỏi gia phả nhà chồng? (7) (7b)

ngỡ mình là Hán tộc Hồng Tú Toàn,

Cao Bá Quát huà theo lũ châu chấu điên ngông (8)

quyển thơ thiên tài máu bết!

Phê-rô Tạ Văn Phụng (9)

mạo danh con vua Đa-vít Viễn Đông

Kinh Thánh rao giảng ngược,

ngược ngôi sao Na-za-rét (10)

"triều Nguyễn là đế quốc La Mã bên sông Hương!" - ngược lời,

lâu la hú hét –

máu chảy ngược sông Hồng!

ôi, Quang Trung! Quang Trung!

chỉ là lực biến dịch

cho sông Gianh thôi gào thét?

để Đàng Ngoài cứ mãi hoài Lê

với nỗi cuồng trung!

 

13

từ Hà Nội mùa xuân

ngậm ngùi tưởng tiếc

ngồi trên gò Đống Đa

trên đỉnh cao chiến công Quang Trung

nắng hồng xanh non cỏ cây tháng Tết

tôi ngước nhìn Quang Trung

Quang Trung, Quang Trung, lực biến dịch

loé chớp

lành lặn vết thương sông Gianh

nối liền non sông nối liền biển biếc

trước thanh gươm vó ngựa Gia Long

Đàng Ngoài phải chăng tự dựng mùa đông?

mùa đông lan vào Đàng Trong

trăm năm thực dân tàu đồng súng thép...

Giê-su vô can, mười chín thế kỉ Người đã chết

sao giáo đường sáng trưng

thắp bằng máu mỡ Việt?

Đàng Ngoài - Đàng Trong

bỗng chung một nỗi lạnh tê rỉ rét...

14

từ Hà Nội mùa xuân

ngậm ngùi tưởng tiếc

Quang Trung, Quang Trung

tôi chợt hiểu chút máu thái thú bao đời trong Ông

mãi vỡ mạch muôn đời trên trang sử chép

vết thương Bến Hải đã xa, xa lắc, trập trùng

tôi viết từ uẩn khúc Miền Nam,

uẩn khúc thuyền nhân:

"nội - nội phân tranh

ngoại - ngoại phân tranh"

lịch sử viết thẳng hay uốn cong?

và sao vang ra tận đây

- Hà Nội mùa xuân –

những tiếng khóc ròng?

vết thương Bến Hải

thiếu vắng một Quang Trung?

Quảng Trị quê hương

đau thương, hào hùng, quyết liệt

sao vang ra đây

câu hỏi nghẹn ngào róng riết

thiên tài Lê Duẩn là Quang Trung?

ý chí kiên cường Lê Duẩn là Gia Long? (11)

lịch sử đã lặp lại chăng?

lịch sử đã hoán vị hai Đàng?

đâu rồi bao tấm lòng đau niềm chung da diết

ai đó còn thao thức, khắc khoải, chờ mong

(ta chờ mong trái tim ta rất Việt!) ?

sông Gianh - Bến Hải, nắng nỏ, bão bùng

nỗi niềm đứt ruột Miền Trung

vết thương chưa thôi gào thét?

15

ra thăm Hà Nội, ngắm hoa đào mùa Tết

tôi mỉm cười, bâng khuâng.

Hà Nội, 05.03.1997

Tp. HCM., 20.03.1997 & 02.2004

TRẦN XUÂN AN

 

(1) Nguyễn Huệ có tên thật là Hồ Thơm, vốn là hậu duệ của dòng họ Hồ Quý Ly (họ Hồ huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An; về sau chuyển ra Thanh Hoá...). Hồ Quý Ly lại là hậu duệ của thái thú Hồ Hưng Dật, người thiểu số (?) Trung Hoa, sang cai trị nước ta thời Bắc thuộc. Mặc dù có gốc gác rất xa đời là người thiểu số (?) Phương Bắc (Trung Hoa), nhưng thực chất huyết thống dòng họ Hồ Thơm (Nguyễn Huệ, chi nhánh ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An) đã pha trộn qua mấy chục đời để trở thành huyết thống Việt. Dẫu vậy, vẫn có một bộ phận nhân dân không ủng hộ Quang Trung Nguyễn Huệ vì lẽ đó.

Có tư liệu cho rằng: Tổ tiên dăm ba đời trước của Hồ Thơm (Nguyễn Huệ) là lính thuộc quân binh họ Trịnh Đàng Ngoài. Trong một đợt giao chiến với quân Đàng Trong, người lính ấy bị bắt sống, và may thay, được chuá Nguyễn cho đưa vào Bình Định khai hoang lập ấp, rồi được phép định cư hẳn ở đấy. Từ đó, đất Tây Sơn tỉnh Bình Định có một nhánh họ Hồ vốn thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An sinh sôi nẩy nở, nhưng lại đổi sang họ Nguyễn. Tư liệu này cần được khảo chứng thêm.

(2) Nhánh lá trong ngày lễ Phục sinh (theo sự tích lịch sử - "Kinh Thánh": nhân dân Do Thái tung hô Chuá Giê-su [Jésus], hậu duệ vua Đa-vít [David]).

(3) Attila (người Hung Nô [Les Huns, Mông Cổ], 406? - 453): một danh tướng có tầm vóc thế giới, xét về mặt thiên tài quân sự. Các cố đạo Thiên Chuá giáo vừa khâm phục, vừa lo sợ trước thiên tài quân sự của Quang Trung; họ so sánh Attila với Quang Trung trong những bức thư gửi về Pháp, Tây Ban Nha...

(4) Tất nhiên vẫn có rất nhiều cựu thần vua Lê, chuá Trịnh chống đối: Phạm Thái (tác giả "Sơ kính tân trang"), Nguyễn Công Tấn (thân sinh Nguyễn Công Trứ)...

(5) "Ai tư vãn", một bài thơ dài của Lê Ngọc Hân (công chuá nhà Lê), vợ Quang Trung, khóc thương vị vua này khi ông băng hà.

(6) Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế tại Huế (lấy hiệu là Quang Trung), nhưng về sau lại có kế hoạch dời đô về nguyên quán Nghệ An. Địa điểm xây dựng kinh đô là vùng đất dưới chân núi Quyết, bên bờ sông Lam. Tên kinh đô là Phượng Hoàng Trung Đô. Tuy nhiên, kế hoạch bất thành.

(7) Xin xem chú thích (7 b).

(7b) Xin đừng hiểu Bà huyện Thanh Quan đồng cảm với những người Chăm (““chợ” mấy nhà”), khi dừng bước ở Đèo Ngang, vốn là biên giới Đại Việt – Chăm-pa thuở nào. Cũng đừng đẩy xa ý tưởng đó, rồi cho rằng, người Đàng Ngoài với người Chăm có chung một kẻ thù là các chuá Nguyễn, vua Nguyễn, khi cảm nhận hai câu luận và hai câu kết của bài “Qua Đèo Ngang”:

Nhớ nước, đau lòng con quốc quốc

Thương nhà, mỏi miệng cái gia gia

Dừng chân đứng lại: trời, non, nước

Một mảnh tình riêng, ta với ta

Đặc biệt là câu thơ “một mảnh tình riêng, ta với ta”! Ấy chỉ là cảm xúc khi chỉ còn mình đối diện với chính mình trong nỗi cô đơn. Cũng đừng đẩy xa hơn nữa ý tưởng đó, để kết luận Bà huyện Thanh Quan vốn có gốc gác là Chăm, tuy không ít người Đàng Ngoài đích thực là người Việt gốc Chăm (người Chăm phải ra Đàng Ngoài nhập cư, từ thời Lý đến thời Nguyễn).

Tôi nghĩ thi sĩ đài các, trang trọng rất mực trong ngôn từ thơ ca này có thể bị ám ảnh về biên giới lịch sử bởi câu sấm kí của Trạng Trình: “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân” (Đèo Ngang một dải vạn đời dung thân), khi chuá Nguyễn Hoàng đến xin gặp Trạng Trình để tham khảo ý kiến. Mặc dù trong thực tế, sông Gianh mới là biên giới Đàng Trong – Đàng Ngoài, nhưng trong tâm thức người Đàng Ngoài, Hoành Sơn (Đèo Ngang) mới là biên giới có tính lịch sử.

Phải liên hệ với các bài thơ khác của Bà huyện Thanh Quan, nhất là “Thăng Long thành hoài cổ” , khi cảm thụ “Qua Đèo Ngang” .

(8) Phong trào Thái Bình thiên quốc (bài Thanh phù Hán) ở Trung Hoa do Hồng Tú Toàn lãnh đạo; về sau biến tướng thành giặc Cờ, quấy nhiễu các tỉnh biên giới nước ta để chiếm cứ đất, xưng hùng xưng bá.

(9) Tạ Văn Phụng là một giáo dân, có tên thánh là Pierre (Phê-rô). Tuân theo lời các cố đạo, các tên thực dân Pháp, Tây Ban Nha, y mạo danh là hậu duệ vua Lê, với cái tên Lê Duy Phụng hoặc Lê Bảo Phụng. Pierre Tạ Văn Phụng gây nên một cuộc nổi loạn phản quốc, kéo dài nhiều năm, tạo thêm sức ép ở phía Bắc Kì, để triều đình Huế phải kí nhượng ước Nhâm tuất 1862, và mưu toan lập "xứ Bắc Kì thuộc Pháp "bảo hộ"" . Sau khi đạt mục tiêu, thực dân, cố đạo Pháp và Tây Ban Nha liền bỏ rơi Pierre Tạ Văn Phụng!

(10) Nazaret, quê hương của Chuá Jésus. Theo Kinh Thánh, lúc Đức mẹ Maria sinh ra Chuá Jésus, trên trời có xuất hiện một ngôi sao lạ. Ngôi sao này dẫn đường cho ba vị vua Trung Đông đến chầu.

(11) Không phải chỉ khi đề cập đến Gia Long (Nguyễn Ánh), mới cần nhận thức theo quan điểm lịch sử - cụ thể, nhưng không thể không nhấn mạnh như thế khi cần làm sáng tỏ, thoả đáng thêm về vấn đề này.

Chủ quyền Đất nước dưới chế độ quân chủ cũng là một hình thức quan hệ sở hữu phong kiến (Đất nước và thần dân là tài sản và tôi tớ của hoàng tộc cầm quyền, nối đời thừa kế). Do đó, Nguyễn Ánh (Gia Long) đánh đổ triều Tây Sơn (ba anh em Nguyễn Huệ và Nguyễn Quang Toản) là để giành lại cái gọi là quyền sở hữu Đất nước Đàng Trong và thần dân của dòng họ mình, và thừa kế luôn cả Đàng Ngoài mà dòng họ ông ta có công trung hưng (vai trò công thần của Nguyễn Kim). Chủ quyền Đất nước và nhân dân được xác lập theo quan hệ sở hữu phong kiến về tài sản và nô bộc là một quan niệm phản động, cực kì phản động, nếu đứng ở giác độ dân chủ để phê phán. Tuy nhiên, ở cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, Nguyễn Ánh vẫn chính nghĩa theo quan niệm phong kiến! Và cũng cần khẳng định rõ: mối quan hệ giữa Nguyễn Ánh và cố đạo thực dân Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) chỉ là quan hệ lợi dụng lẫn nhau mà thôi! Sau khi nắm được ngai vàng hoàng đế, chính Gia Long (Nguyễn Ánh) đã hạn chế sự bành trướng Thiên Chúa giáo! Như thế, trên cơ sở đó, có thể có một nhận định: Quang Trung (Nguyễn Huệ) đáp ứng được yêu cầu bức thiết của lịch sử là phải thống nhất Đàng Trong - Đàng Ngoài (mặc dù công lao ấy phần nào còn bị hạn chế do tình trạng tam phân giữa ba anh em Tây Sơn). Tuy nhiên, Gia Long (Nguyễn Ánh) không phải không chính nghĩa, xét theo quan hệ sở hữu phong kiến về vương quốc, thần dân; và Gia Long còn kế thừa cả sự nghiệp thống nhất Đàng Trong - Đàng Ngoài của Quang Trung một cách tốt đẹp. Đó không phải là một nhận định "ba phải", mà xét trên cơ sở sự thật lịch sử và xét theo quan điểm cụ thể - lịch sử tiên tiến, khoa học nhất của chúng ta, trong thời đại dân chủ hiện nay. Mặc dù đối với chúng ta hiện nay, chế độ phong kiến nói chung (chứ không phải chỉ riêng triều Nguyễn) vốn đã trở nên quá lạc hậu, cực kì phản động, "một đi, không bao giờ trở lại", nhưng cũng phải công bằng, thỏa đáng trong việc nhận định lịch sử.

Nói một cách giản dị, Nguyễn Ánh không dễ dàng gì để mất vào tay Tây Sơn sự nghiệp suốt hai trăm năm của dòng họ ông ta. Đó là sự nghiệp chín chuá Nguyễn đã lãnh đạo nhân dân Đàng Trong khai phá đất phương nam, từ Phú Yên đến Cà Mau!

Cũng nói một cách giản dị, nếu lấy tiêu chí dân chủ hiện nay, nhất là dân chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực sở hữu ruộng đất (sở hữu toàn dân hay còn gọi là công hữu), để nhận định về chế độ phong kiến quân chủ ... rồi trách cứ, thì chẳng khác nào trách cứ sao Nguyễn Du không sáng tác Truyện Kiều trên máy vi tính và phát hành trên mạng VnExpress hoặc Cinet! Nhưng có người sẽ vặn lại tôi: Đâu rồi quan điểm so sánh đồng đại? Từ năm 1848, giữa thế kỉ XIX, Karl Marx và Fridrich Engels đã xuất bản "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản" kia mà! Tôi chỉ biết bảo người ấy nhìn ra thế giới ngay vào thời điểm này: Hiện còn bao nhiêu nước theo chính thể quân chủ lập hiến (lập hiến nhưng vẫn còn vua chuá!)? Còn năm 1848, cách thời điểm Gia Long lên ngôi (1802) đến bốn mươi sáu (46) năm! Nếu chọn thời điểm so sánh tương đồng, phải là 1789, năm cách mạng tư sản Pháp nổ ra và cũng là năm Quang Trung đánh tan hai mươi vạn quân Thanh, triều đại vua Lê - chuá Trịnh hoàn toàn tiêu tan; và lúc đó, Nguyễn Ánh vẫn còn trường kì chiến đấu khôi phục. Nhưng cách mạng tư sản Pháp tồn tại không bao lâu; rồi chính giai cấp phong kiến Pháp cũng xé toạc "Tuyên ngôn Nhân quyền, Dân quyền 1789" * để phục hồi đế chế quân chủ! Vả lại, nên hiểu giới hạn tầm nhìn thời bấy giờ, cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, trong điều kiện chung là thông tin liên lạc còn hạn chế. Do đó, giới hạn tầm nhìn thời bấy giờ là chỉ trong phạm vi khu vực Đông Nam Á và rộng hơn, là phạm vi châu Á... Hơn nữa, tầm nhìn còn bị quy định bởi bao nhiêu điều khác, nhất là nền tảng dân trí toàn xã hội! Hiểu như thế, mới thật là lịch sử - cụ thể. Không nên kéo lùi lịch sử hiện tại vào sự lạc hậu (tụt hậu), cũng không nên cưỡng bức lịch sử quá khứ phải thật dân chủ xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu Đất nước, tức là quyền làm chủ Đất nước (đúng nghĩa là dân chủ đích thực, chứ không phải trò lừa từ ngữ *)

                      [* Đây không phải chỗ để đề cập đến các quyền dân chủ cụ thể khác, về chính trị, xã hội, văn hoá...].

Ngoài ra, tưởng cũng cần nhắc lại một nhận định xác đáng và công bằng của nhiều nhà nghiên cứu sử học về Gia Long Nguyễn Ánh: Ông là một con người có nghị lực mạnh mẽ, vị vua sáng nghiệp từ hai bàn tay đã trắng (có khi quân lính không còn một đội, lương thực không có để dùng). Ông chỉ có một điều kiện thuận lợi, ấy là lòng trung thành của nhân dân Đàng Trong đối với các chuá Nguyễn tiền bối.

Ở chú thích này, tôi chỉ nhấn mạnh đến nghị lực mạnh mẽ hay còn gọi là đức tính kiên cường của Nguyễn Ánh, nhất là sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, từ Nam Quan đến Cà Mau.

Và khi so sánh tổng bí thư Lê Duẩn với Quang Trung, Gia Long ở ba khía cạnh đó, tôi hiểu "so sánh nào cũng có sự khập khiễng".

TXA.

 

 

 

4.

 

Dẫn links

 

Trân trọng dẫn những đường nối kết đến cuốn sách rút gọn, “Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung”, của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân từ “Giao Điểm online”:

 

LĂNG ĐAN DƯƠNG

CỦA VUA QUANG TRUNG Ở ĐÂU ?

Xin góp một câu trả lời

Bút ký lịch sử của Nguyễn Đắc Xuân

A

Thư gởi độc giả và các Nhà nghiên cứu Việt Nam.

http://giaodiemonline.com/2007/feb/quangtrung/loimodau.htm

B

Kỳ 1:  Cung điện Đan Dương thời Quang Trung.

http://giaodiemonline.com/2007/feb/quangtrung/ky1.htm

C

Kỳ 2:  Lăng Đan Dương cùng ở phía Nam Kinh thành Huế

và gần chùa Thiền Lâm.

http://giaodiemonline.com/2007/feb/quangtrung/ky2.htm

D

Kỳ 3:  Chùa Thiền Lâm chồng chất những bí ẩn

http://giaodiemonline.com/2007/feb/quangtrung/ky3.htm

E

Kỳ 4:  Phủ Dương Xuân mất tích !

http://giaodiemonline.com/2007/feb/quangtrung/ky4.htm

G

Kỳ 5:  Đi tìm dấu tích Phủ Dương Xuân

http://giaodiemonline.com/2007/feb/quangtrung/ky5.htm

H

Kỳ cuối: Phủ Dương Xuân tiền thân của Cung điện Đan Dương

http://giaodiemonline.com/2007/feb/quangtrung/ky6.htm

K

Phụ lục:  Những biểu hiện của lăng mộ vua Quang Trung bị quật phá

http://giaodiemonline.com/2007/feb/quangtrung/kyphuluc.htm

 

Khoảng từ 7 giờ đến 11 giờ 48’,

ngày 28 tháng chạp Bính tuất HB6-7,

áp Tết nguyên đán Đinh Hợi HB7

(15-02 HB7 [2007]),

tại TP. HCM.

 

TRẦN XUÂN AN

_________________________

Xem thêm:

(bổ sung: 21 giờ 41', cùng ngày):

1. Những bí ẩn về lăng mộ Hoàng đế Quang Trung

sắp được giải mã?

(Q.T. -- báo Thanh Niên)

13h40, 26/01/2006

http://www.cinet.gov.vn/detail.aspx?source=5&catid=76&newsid=5781

2. Thêm một giả thuyết mới về mộ vua Quang Trung

(Giao Hưởng -- báo Thanh Niên)

22:47:40, 31/07/2006

http://www.thanhnien.com.vn/Vanhoa/2006/7/31/157346.tno

3. Hé mở hướng đi tìm lăng mộ vua Quang Trung?

(Báo Tuổi Trẻ: Theo Thanh niên - Lao động - Nhân Dân)

Thứ Sáu, 10/02/2006, 23:01 (GMT+7)

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=122371&ChannelID=10

4. Nhà vật lý đi tìm mộ vua Quang Trung

(Thái Lộc - Hồ Sĩ Bình -- báo Tuổi Trẻ)

Thứ Năm, 22/06/2006, 06:39 (GMT+7)

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=145733&ChannelID=89

 

 

Xem tiếp: Bài thứ mười sáu:

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/luanvethoichungta_b16.htm

 

Trở về: Trang mục lục của tập bài viết "Luận về thời chúng ta...":

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/luanvethoichungta

 

Trở về trang chủ Web. Tác giả Trần Xuân An:

http://tranxuanan.writer.googlepages.com

 

 

Google page creator /  host

  Ngày đưa lên trang web này: 28-4 HB7

 

DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE