k. Trần Xuân An (bs. & kc.) - Thơ Nguyễn Văn Tường (1824-1886) - Tệp 11
Web Tác giả Trần Xuân An
Trần Xuân An
biên soạn (tổ chức nội dung, khảo luận, bị chú các bài khảo luận của các tác giả,
chú giải thơ, chuyển ra ngôn ngữ thơ
trên cơ sở Thi tập chữ Hán do Nnc. Trần Viết Ngạc sưu tầm,
bản phiên dịch của Nnc. Trần Đại Vinh, Nnc. Vũ Đức Sao Biển, Nnc. Nguyễn Tôn Nhan
[Ts. Ngô Thời Đôn hiệu đính các bản dịch]).
Xem phần nguyên tác chữ Hán (hình ảnh quét chụp [scan]):
http://www.tranxuanan-writer-3.blogspot.com
http://www.tranxuanan-writer-4.blogspot.com
Bài 22
CỬU NGUYỆT NGỘ HÚY CẢM TÁC
Thu tiêu sắt sắt lậu canh trường
Lữ xá cô đăng dạ khí lương
Trùng trập vô thanh kinh vãn hậu
Giản hoàng hà xứ chú dư hương
Tựu miên cầu kiến nan thành mộng
Đãi đán thư hoài bách trụy sương
Viễn khách ứng đa phong thụ cảm
Huống kinh sổ nẫm trệ nhung trường.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
22
THÁNG CHÍN,
GẶP NGÀY HÚY CẢM TÁC
Gió thu hiu hắt khắc canh chầy
Quán khách đèn côi đêm lạnh thay
Giun dế không kêu, kinh tiết muộn
Hương thừa lan tỏa, suối khe này
Ngủ mong nằm thấy, khôn thành mộng
Chờ sáng khuây sầu, buộc móc đầy
Viễn khách cảm hoài cây trước gió
Huống bao năm tháng chiến trường đây.
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
22
THÁNG CHÍN,
GẶP [NGÀY] GIỖ [VỢ], CẢM TÁC
Gió mạnh mùa thu thê thiết, [đồng hồ] nhỏ giọt (1)
[suốt từng] canh (2) dài
Quán khách, đèn lẻ loi, khí đêm lạnh lẽo
[Các] loài côn trùng ẩn trốn [cùng] sâu bọ [đều] không
tiếng [kêu], trải qua niềm hi vọng (hoặc: thời tiết)
muộn mằn
[Những] khe núi, hào rãnh quanh thành khô cạn, [từ]
nơi đâu, [vẫn] rót vào làn hương sót lại [của mùa
hoa trước]
Vào giấc ngủ, mong [được] thấy [nàng], [nhưng] khó
thành giấc mộng
Chờ sáng sớm, khuây nguôi nỗi nhớ, [sao vòm trời]
buộc làn sương trĩu xuống [la đà]!
Người lính phương xa (3) cảm ứng [với] cảm xúc [của]
cây cối lắm gió
Huống chi [đã] trải qua nhiều năm (chất chứa) [nỗi
niềm], [giữa] chiến trường trì đọng!
(1) Loại đồng hồ cũ, đo lường thời gian bằng nước trong bình (hoặc bằng cát). Bình có vạch chỉ mức; nước (hoặc cát) nhỏ giọt (rơi) đều đặn. Xem thêm bị chú.
(2) Đêm tính bằng canh (“Đêm năm canh, ngày sáu khắc”).
(3) Dịch từ hai chữ “viễn khách” (khách: người; viễn: [ở] phương xa), tương tự như “lữ khách” (người đi xa), “chinh nhân”, “chinh phu” (người [đàn ông hoặc chồng] chiến đấu phương xa).
22
THÁNG CHÍN,
GẶP TÊN NGƯỜI ĐÃ MẤT, CẢM TÁC
Gió thu thê thiết, giọt canh dài
Quán khách, đèn côi, đêm lạnh thay
Không tiếng dế giun, hi vọng – muộn (1)
Đâu nơi mương suối, dư hương – đầy
Mong đêm (2), vào giấc, mộng thành khó
Chờ sáng, khuây sầu, sương trĩu dày
Viễn khách cảm niềm cây lắm gió
Huống bao năm nghẹn chiến trường đây!
(bản biên soạn)
(1) Hậu: hi vọng, chờ; khí tiết (thời tiết); tình trạng sự vật (TĐHV., sđd., tập thượng, tr. 353). Có lẽ tác giả có một người yêu (người vợ?) mất tích (vì đi đường biển, đi đường rừng...), chưa rõ sống, chết. Tác giả mãi đợi chờ và lấy vợ muộn (xem bài số 14: “Được tin sinh cháu nội đầu”). Cũng do vậy, lúc này (căn cứ vào văn cảnh), có lẽ tác giả đang lặng lẽ cam chịu nỗi mất mát ấy với một niềm hi vọng muộn màng, gần như vô vọng (mặc dù đã có vợ con...).
Có thể cảm nhận lại từ “viễn khách” để rõ hơn nỗi niềm của tác giả.
Hồ Dzếnh có đoạn thơ trong bài Chiều nổi tiếng:
“Tôi là người lữ khách (# viễn khách)
Màu chiều khó làm khuây!
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ lòng mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói chiều bay lên cây”.
Rõ ràng với văn cảnh này, “nhà” ở đây là gia đình riêng, hoặc “nhà” là vợ; nhưng cũng có thể Hồ Dzếnh đang tự xưng “tôi” (ngôi thứ nhất) trong khoảnh khắc thì thầm tâm sự với người tình yêu dấu nào đó (ngôi thứ hai, ngang trang lứa) về nỗi “nhớ nhà” (gia đình lớn, song thân) của mình. Tuy nhiên, sắc thái nỗi nhớ cùng sắc thái các hình ảnh gợi nhớ trong bài Chiều, khiến người đọc vẫn cảm nhận đó là nỗi nhớ về gia đình riêng, nỗi nhớ về người vợ (“nhà”) ở quê hương.
Đúng là chỉ có quan hệ ngang trang lứa mới tự xưng như vậy. Chính từ “viễn khách” này đã xác định rõ rệt hơn quan hệ giữa tác giả và người đã mất là quan hệ vợ chồng, quan hệ hứa hôn hoặc yêu đương chung thuỷ.
Trên đây chỉ là cảm nhận do không khí của bài thơ. Hiện chúng tôi chưa có tư liệu nào về nỗi niềm riêng tư này.
(2) Nguyên văn: “cầu kiến” (mong thấy).
Bài 23
KÍ BANG BIỆN QUÂN VỤ VŨ
Ưu quốc vị thành song mấn bạch
Tranh thần (thời) vô nại nhất thiên thương
Bất tài huống thả phùng đa sự
Ngạnh đoản tiên trường chỉ tự thương.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
23
GỞI BANG BIỆN QUÂN VỤ HỌ VÕÕ
Lo nước chưa xong đầu đã bạc
Tranh thời chẳng được, một trời sâu
Không tài lại gặp lúc đa sự
Cành ngắn roi dài chỉ tự đau!
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
23
GỬI BANG BIỆN QUÂN VỤ HỌ VŨ (VÕ) (1)
Lo toan việc nước (2), chưa xong, hai mái tóc [đã] bạc
Giành giật thời gian (: tranh thủ tâm trí [giặc]) chẳng
[làm sao] được; một bầu trời [vô tình vẫn] xanh!
Không tài năng, phương chi [còn] thư thả (3), [lại] gặp
[lúc] lắm việc (rối chuyện)
Cành ngắn roi dài, chỉ tự làm đau (tổn thương)
[mình]! (4)
(1) Vũ Trọng Bình, nguyên là thượng thư Bộ Lại, Cơ mật viện đại thần, hiệp biệp đại học sĩ, có tính tình thẳng thắn, đức liêm khiết nổi tiếng. Ông cùng Nguyễn Tri Phương (thượng thư Bộ Binh) đấu tranh với nhóm Trần Tiễn Thành, nhưng nhóm Trần Tiễn Thành hầu như được Tự Đức ủng hộ. Do đó, ông rồi Nguyễn Tri Phương đều phải ra mặt trận phía Bắc. Lúc Nguyễn Văn Tường sáng tác bài này, hẳn là sau khi Vũ Trọng Bình cùng ông bị giáng chức, chịu án trảm giam hậu (tội bị chém nhưng cho chịu giam giữ để xét lại), do để thất thủ thành Lạng Sơn. Tuy vậy, lại được Tự Đức xóa án, vẫn cho giữ chức tham mưu, không nắm thực quyền (bang biện, tán lí). (Xem ĐNTL.CB., tập 32, tr. 61 - 63, 70 - 72).
(2) “Ưu quốc”: chăm lo cho Đất nước. Chữ của sách Hán thư: “Luận nghị cổ thông kim, ưu quốc như cơ khát giả, thần vị kiến giả” (Bàn luận, thông hiểu việc xưa, việc nay, lo lắng cho Đất nước như đói khát, kẻ bề tôi này chưa từng thấy vậy), [TĐTNTN., sđd., tr. 737].
(3) Nguyên văn: “thả” (còn đọc là “thư”): chậm rãi, thư thả. Nếu đi với chữ “cẩu” (có nghĩa là sơ sài, không cẩn thận), thành từ ghép “cẩu thả”, nghĩa có phần nặng hơn (tắc trách, qua loa, buông thả, không hợp với đạo nghĩa Nho giáo là luôn giữ mình như đại thần phải cầm hốt có gương soi khi chầu triều...).
Tuy nhiên, chữ “huống” (có bộ thủy ở bên trái) đi liền với chữ “thả”, thành liên từ ghép “huống thả” với nghĩa là “phương chi”, “huống nữa”. Bản dịch bài này của Trần Đại Vinh, không dịch “thả” là “thư thả”...
[Xem: Thiều Chửu, Hán – Việt từ điển, Nxb. TP. HCM. tái bản, 1999, các tr.: 3, 12, 336].
(4) Một cách nói cay đắng nhất thời, ngầm ý phê phán sự “rối việc”, “loạn việc” (chữ “loạn” xứ Huế...) của thời thế, cũng là lời tự phê gay gắt trong tình thân bạn bè.
23
GỬI BANG BIỆN QUÂN VỤ
VŨ TRỌNG BÌNH (VÕ TRỌNG BÌNH)
Chưa xong việc nước, hai đầu bạc
Khó níu ngày trời một sắc xanh!
Cạn trí, huống chi, thời lắm rối
Ngắn dài tự quất vết roi cành!
(bản biên soạn 23/1)
Lo nước chưa xong, đầu bạc uá (1)
Giành tâm, không nén, trời hoa râm (2)!
Bất tài, lại gặp bời bời việc
Cành ngắn roi dài, tự xót thầm!
(bản biên soạn 23/2)
(1) Hai câu đầu gợi nhớ đến bài “Thuật hoài” của Đặng Dung (thời Hậu Trần):
“Thế sự du du nại lão hà
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca...
... Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỉ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”.
Việc nước rối bời, già được sao!
Khúc say, trời rộng cũng đong vào...
... Chưa đền nợ nước, đầu hoen bạc
Mấy độ gươm mài, bóng nguyệt cao.
[Hàm (còn đọc là “cam”): say rượu ngà ngà].
(2) “Thương”, còn có nghĩa là [tóc] hoa râm.
Bài 24
HỌA THỐNG ĐỐC HOÀNG ĐẠI NHÂN
VỊNH QUÂN TRUNG THỦY TIÊN
NGUYÊN VẬN
Mỗi ức hoa gian trạc dị anh
Ngãi bồng phi cức cửu kinh dinh
Độc tương thanh bạch di y mĩ
Tằng duyệt phân ai bảo thử trinh
Cộâng ngã du quan trang lữ thú
Liên cừ liễu mạch hệ khuê tình
Linh căn bão đắc băng hồ tĩnh
Thùy tín Hằng Nga thố xứ sinh!
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm
24
HỌA NGUYÊN VẦN BÀI VỊNH HOA THỦY TIÊN TRONG QUÂN LỮ CỦA THỐNG ĐỐC ĐẠI NHÂN HỌ HOÀNG
Thường nhớ đến vẻ đẹp lạ kì trội lên giữa muôn hoa
Dọn dẹp cỏ rối và gai góc, toan tính rất lâu
Một mình đem tặng vẻ đẹp thanh bạch ấy
Từng giữ lòng trong trắng trải qua nơi bụi bặm
Cùng ta mang mối tình quê đến trại đóng quân
Thương ngươi buộc mối tình khuê phòng bên bờ liễu
Gốc rễ tinh khôn ôm lấy bình nước trong sạch yên tĩnh
Ai tin rằng Hằng Nga sinh nhầm chỗ!
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
dịch nghĩa
24
HỌA NGUYÊN VẦN BÀI “VỊNH HỌA THỦY TIÊN TRONG QUÂN LỮ” CỦA THỐNG ĐỐC HOÀNG ĐẠI NHÂN (1)
Thường nhớ giữa cõi hoa (thế giới các loài hoa), vút lên
(trỗi vượt) [một] vẻ đẹp kì lạ
Cắt cỏ, dọn gai, trải qua toan tính lâu dài
Một mình đem sự thanh bạch [để] tặng cái đẹp ấy
Nhiều đợt trải qua bụi bặm, hơi sương, [vẫn] giữ lòng
trinh trắng này
Chung [lòng với] ta [tới] cửa ải [giữa rừng] cây du (2),
trang hoàng cho [thêm] sự ý vị của lính thú xa quê
Thương ai [buộc quanh ở] bờ liễu (2), [như thể] treo [lên]
mối tình phòng the [của người vợ]!
Gốc rễ linh diệu ôm lấy bình nước trong sạch [một
cách] yên tĩnh
(hoặc: ôm lấy sự trong sạch, tĩnh tại)
Ai tin [rằng] Hằng Nga (3) nhầm chỗ [mà] ra đời!
(1) Hoàng Tá Viêm (ĐNTL.CB., tập 32, sđd., tr. 94...).
(2) Du là một loài cây mọc ở rừng sâu, lá có hình mũi giáo, quả có cánh, cùng họ với cây gỗ sến. “Du quan”, nghĩa bóng là cửa ải chốn rừng sâu. [Xem HVTĐ., sđd., tr. 304; TĐTV., sđd., tr. 256].
Theo Bửu Kế, Từ điển từ ngữ tầm nguyên, sđd., tr. 376, hai chữ “liễu mạch” (nguyên nghĩa: cây liễu ở đường bờ ruộng) có nghĩa sử dụng gần như “liễu hạng hoa nha” (“liễu ngõ hoa tường”). Chúng tôi thấy nghĩa đó không phù hợp với văn cảnh, tứ thơ toàn bài? Trường hợp này, nếu ép theo nghĩa ở TĐTNTN. vào văn cảnh, tứ thơ này, lại là sự phê phán “lầu xanh”, “trăng gió”, “trên bộc trong dâu”...
Do đó, tác giả dùng chữ “liên”, với nghĩa là “thương tiếc” (thương xót và tiếc nuối), [TĐHV., tập thượng, sđd., tr. 504; HVTĐ., sđd., tr. 212 - 213).
Tuy vậy, chúng tôi vẫn hiểu theo nghĩa rất thanh cao và cảm động theo văn ngữ cảnh của toàn bài.
(3) Hằng Nga (vẻ đẹp vĩnh hằng): tên do các nhà thơ đặt cho mặt trăng, cũng là tên ở các truyện cổ dân gian. Đây chỉ là biểu tượng, chỉ hoa thủy tiên. Hoa thủy tiên vừa là biểu tượng của cái đẹp nói chung, gồm cả nhan sắc, tài năng xuất chúng và phẩm hạnh vượt trội (“dị anh”). Chú thích của Những khúc ngâm chọn lọc, tập I (Lương Văn Đang, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Lộc giới thiệu, biên khảo, chú giải), Nxb. ĐH. và THCN., 1987, tr. 119: “Hằng Nga còn gọi là Thường Nga, vợ Hậu Nghệ, đời vua Hoàng Đế. Hậu Nghệ được bà Tây Vương Mẫu cho thuốc trường sinh nhưng Hằng Nga đã lấy trộm để uống, rồi bay lên cung trăng”.
24
“NGỢI CA HOA THỦY TIÊN
TRONG QUÂN LỮ”
Họa thơ Hoàng Tá Viêm
Nhớ hoài hoa lạ trội muôn hoa
Gai cỏ nhặt gom, lo liệu xa
Sương biếc (1) một đem trao sắc ngọc
Bụi mù mấy trải, giữ trinh ngà (2)
Ải du, cùng mỗ (3), trau niềm lính
Bờ liễu, thương ai, gác nỗi nhà (4)?
Ôm tĩnh rễ tinh, bình nước sạch
Ai tin nhầm chỗ Hằng sinh ra!
TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ
(1) Nguyên văn là “thanh bạch”, có nguyên nghĩa là trong trắng; nghĩa tiếng Việt thông dụng: [nếp sống] giản dị, liêm khiết, không bị cám dỗ bởi sự giàu sang. Tạm dùng một hình ảnh để thay thế nguyên nghĩa: “sương biếc”.
(2) Nguyên văn: y mĩ (cái đẹp kia); thử trinh (cái trinh trắng này). “Sắc ngọc”, “trinh ngà” là các chữ tạm dịch thoát.
(3) “Mỗ”: mình, tôi, tớ, qua, choa… “Mỗ” là đại từ ngôi thứ nhất; chỉ trổng một cách khiêm tốn.
(4) Nếu dịch thoát, hai câu luận sẽ là:
Theo ta đến ải, trau niềm lính
Thương ấy treo thành, máng chuyện nhà.
Bài 25
ĐÔNG DẠ HỮU CẢM
Phong vũ tiêu tiêu dạ lậu tần
Hàn đăng độc tọa giác lao thần
Sơn minh cốc hưởng truyền tiêu tức
Kê xướng dăng thanh hỗn tự chân
Tuế mộ bất tu sầu ảm đạm
Canh thâm thùy vị đạo ưu cần
Điểm trang đắc dữ đông hoàng tá
Phục đán khai tường sắc dạng tân.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
25
CẢM XÚC ĐÊM ĐÔNG
Mưa gió đìu hiu đêm đã chầy
Riêng ngồi đèn lạnh tổn thần thay
Núi vang hang gọi truyền tin tức
Gà gáy ruồi kêu thực lẫn say
Năm hết đâu cần buồn ảm đạm
Canh khuya ai trọng đạo lo đây?
Điểm trong cảnh sắc đông hoàng giúp
Sáng mở tốt lành, tươi mới thay!
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
25
ĐÊM ĐÔNG, CÓ [: GỢI NIỀM] CẢM XÚC
Gió mưa đìu hiu, giọt [đồng hồ] đêm [ngỡ như] gấp gáp
[để cạn]
Đèn lạnh, ngồi một mình, cảm thấy tinh thần mỏi mệt
Núi vang [tiếng], hang núi vọng lại, truyền tin tức
[chiến trường]
Gà gáy ruồi kêu, sự thật (thực tế) lẫn lộn [với] cái giông
giống sự thật (thực tế)
Năm tàn đâu nên buồn rầu [về] sự tối tăm, nhạt nhẽo
Canh (1) sâu ai giúp khai mở (thuyết giáo) [về] lòng lo
nghĩ, siêng năng [việc nước]
Điểm tô [đất trời], được cùng với vị chúa mùa xuân (2)
giúp đỡ
Buổi sáng mai lại trở về, mở ra sự tốt lành, dáng sắc
[tươi] mới!
(1) Canh: mỗi quãng thời gian cố định về đêm, đơn vị tính thời gian (“Đêm năm canh...”).
(2) Đông hoàng: vị vua (thần) hướng đông (thần mùa xuân).
25
ĐÊM ĐÔNG, CẢM XÚC
Mưa gió đìu hiu giọt cát đầy
Riêng ngồi, đèn lạnh, hồn hao gầy
Núi vang, hang vọng, tin truyền tức
Gà gáy, ruồi reo, thực lẫn say
Năm cạn, đâu nên lòng sầu héo
Khuya sâu, ai liệu sách bừng khai (1)?
Thần phương đông giúp tô trời đất
Sáng mở tốt lành, tươi sắc thay!
(bản biên soạn)
(1) Nguyên văn: Đạo Học, Đạo Nho (đạo học trò). Có thể hiểu theo trình độ xã hội hiện đại là Đạo Giáo dục. Xin xem thêm câu này ở bản dịch nghĩa.
Bài 26
ĐỒ TIẾP THANH QUAN
Y thùy cấu đắc miếu lang ưu
Tam tứ niên lai tâm sự du
Xa mã thử hành chiêu vật độ
Thử hồ hà nhật tức khuy thu (du)
Thao trù nhược định vô tha trở
Vi (vị) đức đương chung khởi ngoại cầu
Mộc dĩ viên phần hưu quái hận
Việt đồng Tần thị cánh (canh) hà vưu.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
26
GIỮA ĐƯỜNG
ĐÓN TIẾP QUAN NƯỚC THANH
Miếu đường dựng tốt cùng ai chăng?
Ba, bốn năm nay lòng ngổn ngang
Xe ngựa lần này soi tỏ vật
Chuột chồn bao thuở hết moi hàng?
Lo toan đã định không gì cản
Vì đức tới cùng há “ngoại” tham!
Đốt vượn nguy cây, thôi ghét hận
Sao cùng oán mãi? Việt như Tần!
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
26
GIỮA ĐƯỜNG
ĐÓN TIẾP QUAN NƯỚC THANH
Ai kia làm việc được tốt triều đình (1)?
Ba, bốn năm qua tâm sự [người thương thuyết] rối bời
(ngổn ngang)
Xe ngựa chuyến đi này, [phải] soi rọi, bày rõ [các] vật
giúp (đồ tài trợ)
Chuột chồn ngày nào [sẽ bị] dập tắt [những cuộc] liếc
rình chở trộm (cướp bóc)?
Liệu tính kế sách quân binh, nếu [đã] ổn [thì] không ai
ngăn trở [nổi]
Tạo nên đức nghiệp [để] cùng chung gánh vác, [quân nhà
Thanh các bạn] há [là] giặc ngoại xâm tham lam!
(hoặc: Vì đức đến cùng, há cầu bên ngoài?)
Cây cối vốn có đốt vượn [đã bấu vào] (2), thôi đừng hận
[vì] sự đơm đặt (nói xấu)
Nước Việt cũng như nước Tần (3), nên (hoặc: thấy lại thêm)
oán hận sao?
(1) Xem hai chú thích (2), (2) ở hai bản dịch nghĩa, bài 1 và bài 4. Quân nhà Thanh sang nước ta để cùng tiêu diệt bọn giặc Cờ (tàn quân Thái Bình Thiên Quốc). Do vấn đề tế nhị là xung đột dân tộc (Mãn với Hán), triều Nguyễn phải bao cấp cho quân Thanh để quân Thanh tiêu diệt giặc Cờ. Trong nhân dân Việt Nam có luồng dư luận không thiện cảm và nghi ngại về quân Thanh (mượn cớ để xâm lược nước ta). Tướng Phùng Tử Tài của nhà Thanh có lần đòi rút quân về trong khi giặc Cờ chưa dẹp hết... (xem ĐNTL.CB., tập 31, tr. 383 - 384...). Chữ “cấu” trong trong nguyên bản còn có nghĩa “gây chuyện”.
(2) Trong thực tế lịch sử, không phải ở thời điểm này, mà sau khi Hà Nội thất thủ lần thứ hai (1882), quân Thanh đáp ứng lời cầu viện, lại kéo quân sang. Ở lần sau (1882 - 1885), tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Thụ Thanh đã bộc lộ âm mưu xâm lược trong tờ mật sớ tâu với vua Thanh: “Nước Nam với nước Tàu tiếp giáp với nhau mà thế lực nước Nam thật là suy hèn, không có thể tự chủ được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ ở các tỉnh thượng du. Đợi khi có biến thì ta chiếm lấy những tỉnh ở về phía bắc sông Hồng Hà” [Trần Trọng kim lược dịch; xem TTK., VNSL., sđd., tr. 529 (bản 1964), tr. 558 (bản 1999)]. Lần này, có cả Từ Diên Húc!
Lúc bấy giờ, Nguyễn Văn Tường và Triều đình nhà Nguyễn hẳn thừa biết, nhưng vẫn tiến hành chính sách ngoại giao đối trọng, để Pháp – Tàu bắn nhau, Việt Nam sẽ thừa cơ giữ vững độc lập, giành lại Nam Kì [xem KYHNKH., ĐHSP. TP. HCM., sđd., bài của Gs. Nguyễn Văn Kiệm, tr. 8 - 9]. Nỗi đau lịch sử của hai nước láng giềng cứ lặp đi lặp lại mãi! [Xem tư liệu trực tiếp: ĐNTL. CB., tập 36, sđd., tr. 91, về chính sách ngoại giao đối trọng: trung lập giữa Pháp và Hoa].
Nhưng đấy là chuyện mười mấy năm sau. Nguyễn Văn Tường sáng tác bài thơ này trong thời điểm trước đó, 1868 - 1873.
(3) Đốt cây có bàn tay vượn bấu vào bị xem là xấu, dễ mọt (?). Có lẽ tác giả vận dụng điển cố “vượn Sở”: vượn của nước Sở. Điển ấy từ câu: “Sở quốc vong viên, họa diên lâm mộc” (nước Sở mất vượn, họa đến các cây trong rừng [vì phải chặt cây để bắt vượn!]). Nghĩa bóng: mộât mối họa tự dưng lây đến nhiều người, nhiều trường hợp khác (TĐTNTN., sđd., tr.758). Ở đây, do một đốt cây bị tay vượn bấu vào, mà phải đốn cả cây, cả khu rừng, vì đó là dấu vết có vượn lẫn trốn trên cây ấy, trong rừng ấy (vượn rất khỏe; cây lớn, sum suê che khuất). Tất nhiên cũng phải hiểu nghĩa bóng.
(4) Ý tác giả Nguyễn Văn Tường: Việt Nam muốn thống nhất đất nước, không muốn bị cát cứ (như nhà Tần thống nhất Trung Hoa). Người ta cũng thường dùng thành ngữ “Tần phì Việt sấu” (người Tần béo, người Việt gầy), hoăïc chỉ nói gọn là “Tần Việt”, để chỉ sự xa cách về không gian (hai nước này thuộc thời Xuân Thu bên Trung Hoa), sự khác biệt nhau về dân tộc. Nếu với nghĩa thứ hai, Nguyễn văn Tường muốn chỉ rõ sự đồng nhất về tính người (nhân loại tính), ấy là khát vọng về độc lập, tự do, hạnh phúc và hòa bình. Tính nhân loại ở đây là tính đồng nhất, mặc cho sự khác biệt về dân tộc, địa bàn sinh tụ đến mức nào. [Xem TĐHV., tập hạ, sđd., tr. 250].
26
GIỮA ĐƯỜNG,
ĐÓN TIẾP QUAN NƯỚC THANH
Ai kia xong việc, vững triều ngay?
Lòng ngổn ngang ba, bốn Tết nay
Xe ngựa, đây lần soi vật giúp
Chuột chồn, nào dịp tắt gian gây?
Phác đồ, định hẳn, không người cản
Tạo đức, gánh cùng, há bạn dây (1)?
Đốt vượn hoạ cây, thôi buộc hận
Việt như Tần, chớ oán thêm hoài!
(bản biên soạn)
(1) Dây dướng, dây dưa, dây [vào]...
Bài 27
KÍ SƠN THỨ THAM TÁN ÔNG,
TÁN LÍ TRẦN
Thanh hạ phong huân kham giải phụ
Liên hồ nguyên bất đáo đông hàn
Tuyên thành kỉ tích di bi tại
Kí đạo chư quân thí nhất khan.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
27
GỞI THAM TÁN ÔNG ÍCH KHIÊM VÀ
TÁN LÍ TRẦN Ở QUÂN THỨ SƠN TÂY
Gió mát, hè trong giải khổ phiền
Hồ sen chẳng vẹn tới đông thiên
Thành Tuyên công trạng còn bia đó
Xin nhắn chư quân thử đến xem.
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
27
GỞI THAM TÁN HỌ ÔNG (1)
VÀ TÁN LÍ HỌ TRẦN (2), QUÂN THỨ SƠN (3)
Mùa hè trong xanh, quạt [gió] ấm áp, vui vẻ,
hình núi kì quái (:chiến công kì thú
và tinh quái) [đã] giải cứu gò đụn (4)
[Muốn ngắm] Sen Hồ nguyên vẹn, đừng đến [nhé, vào
tiết] mùa đông lạnh lẽo (hoặc: Sen Hồ vốn
chẳng [nên] đến [vào tiết trời] đông lạnh lẽo) (5)
[Ở] thành Tuyên [Quang], bia lưu chép dấu tích [chiến
công] còn lại [mãi mãi] (6)
Nhắn gửi các bạn thử một lần [đến] xem! (7)
(1) Ông Ích Khiêm (ĐNTL.CB., tập 32, sđd., tr. 189, tr. 225...; ĐNLT., tập 4, tr. 278 - 279). ĐNNTC., tập 4, sđd., tr. 342, ghi rõ: “Trong thành có một quả núi bằng đất”. Phải chăng chữ “phụ” trong bản nguyên tác chữ Hán chính là gò núi này?
(2) Trần Thiện Chính (ĐNTL.CB., tập 32, sđd., tr. 156, tr. 231...; ĐNTL.., sđd., tập 4, tr. 218).
(3) Sơn Tây (ĐNTL.CB., tập 31, tr. 365 - 366, 383...).
(4) ĐNTL.CB., tập 32, sđd., tr. 27, 33..., đặc biệt, tr. 172, 189.
(5) Về hai chữ “nguyên bất”, Nguyễn Du có câu: “Hoài quy nguyên bất đãi thu phong”; PGs. Ts. Mai Quốc Liên dịch nghĩa: “[Thì] lòng muốn về vốn chẳng [cần] đợi gió thu [thổi]” (Nguyễn Du toàn tập, tập I, sđd., tr. 213 - 214). Tuy nhiên, câu này hẳn phải dịch đúng với chất thơ: với thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, đảo trang, tác giả khuyên mùa đông lạnh lẽo đừng bao giờ đến nơi dựng bia chiến tích, để nơi ấy quanh năm nguyên vẹn hồ sen nở hoa, hạ xanh, gió mát...
Sen Hồ còn là một địa danh, nơi mà có lần Ông Ích Khiêm lập được chiến công. ĐNTL.CB., tập 32, sđd., tr. 172, ghi rõ:
“Tháng mười hai, có toán giặc chiếm giữ đồn lớn ở xã Sen Hồ (thuộc tỉnh Sơn Tây), đem bè lũ đến đánh [quân ta] kịch liệt. Bọn tham tán là ông Ích Khiêm, tán lí là Trần Thiện Chính mật phái quân cảm tử ngầm đem thuốc cháy bắn ra để đốt. Bọn giặc tan vỡ, chạy cả. Việc ấy tâu lên; thưởng cho có thứ bậc”.
Tưởng cũng cần nhắc thêm chi tiết:
“Phó đề đốc là Trần Mân, tham tán là Ông Ích Khiêm, tán lí là Nguyễn Văn Tường đánh, phá tan bọn giặc trốn nước Thanh ở đồn Thanh Dã tỉnh Thái Nguyên. Chuẩn cho được thăng thưởng có thứ bậc” (ĐNTL.CB., tập 32, sđd., tr. 189).
(6) Đây là chiến công thu phục lại thành Tuyên Quang của quân thứ Sơn Tây dưới sự chỉ huy trực tiếp của đề đốc Phạm Hữu Xuân, phó đề đốc là Vũ Tảo, thương biện tỉnh vụ Nguyễn Hữu Xuân, vào tháng ba âm lịch năm Quý hợi (02. 1863). (Xem: ĐNTL.CB., tập 30, sđd., tr. 12 – 13).
Tất nhiên quân thứ Sơn Tây được đặt dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Bá Nghi, nhất là vai trò Ông Ích Khiêm, Trần Thiện Chính.
Chiến công này cùng chiến công ở Sen Hồ đã được khắc trên bia đá lưu niệm? Hay tác giả muốn so sánh hai chiến công lừng lẫy? Xin xem chú thích (1) bản dịch thơ.
(7) Về sau, Ông Ích Khiêm được trọng dụng ở Triều đình Huế, được phong tước nam, hàm thị lang Bộ Binh, có đóng góp công sức trực tiếp vào việc bảo vệ cửa biển hải phòng Thuận An (1883), trực tiếp thi hành án Hiệp Hòa với lệ “tam ban triều điển” cùng Trương Văn Đễ, Trần Xuân Soạn. Nhưng rất tiếc, vì ngộ nhận, do bị phe chủ “hòa” và bọn Rheinart, De Champeaux, Caspar tung tin bôi xấu sau cái chết của Kiến Phúc (do Hồng Hưu, Dục Đức chủ mưu), Ông Ích Khiêm đã tha hóa, làm càn và sống buông thả (phạm pháp vào tháng 05 Giáp thân, 1884 [ĐNLT., tập 3, sđd., tr. 281]). Sự tha hóa, phản bội của Ông Ích Khiêm phản ánh rõ sự rạn nứt, phân hóa của nhóm chủ chiến trước sự gây rối ren, lũng đoạn của Pháp và tả đạo (ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 163 - 164).
7.1. Các nhà viết sử sau này thường nói đến tài năng văn chương, quân sự, cùng tính cuồng phóng đến thành bệnh tâm hỏa của Ông Ích Khiêm, về giai thoại “khi quân”, mời các quan ăn thịt chó, vờ bảo người nhà quên pha nước để “chửi đời”, tất cả đều là “đồ chó”, “ham ăn, quên nước quên non”. Các nhà sử học cũng đoán rằng, hai câu đối:
Nhất giang lưỡng quốc ngôn nan Thuyết
Tứ nguyệt tam vương triệu bất Tường
là của Ông Ích Khiêm. Ngoài ra, cũng nhắc đến mối bất hòa cũ giữa Tôn Thất Thuyết và Ông Ích Khiêm, thời còn tiễu phỉ ở biên ải phía bắc (ĐNTL.CB., tập 33, sđd., tr. 198; ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 279 - 282):
“Tổng đốc Bắc [Ninh] là Lê Thuyết [tức Tôn Thất Thuyết, sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi, 1885, bị Đồng Khánh tước họ Tôn Thất, đổi lấy họ ngoại – nbs.] thấy Ích Khiêm đánh trận tổn hại nhiều và tự tiện đem quân về không theo tướng lệnh, bèn bắt khóa giam lại, tâu xin xử trí. Khiêm liền bị triệt về kinh chờ án. Nhân mắc bệnh tâm hỏa, được cho về” (trích ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 280).
Riêng về vụ án dẫn đến cái chết trong ngục ở Bình Thuận của Ông Ích Khiêm, là do ngự sử Đào Hữu Ích đàn hặc. Ngay trong thời Hàm Nghi, ông đã được Triều đình cho truy phục hàm thị độc và cấp tuất (ĐNLT., tập 4, sđd., tr. 281; ĐNTL.CB., tập 36, sđd., tr. 163 - 164: bản án có ghi rõ).
7.2. Có lẽ ĐNTL.CB., ĐNLT. đều đã viết quá mức sự thật về ông cũng như về nhóm chủ chiến trong Triều đình Huế bấy giờ. Chúng tôi đã có ý kiến riêng về ông ở đoạn trên trong chú thích này. Xin được nhắc lại: nguyên nhân sâu xa là do bản tính của ông (tội “khi quân”, khinh vua – chưa kể tội “vi binh”, xem thường quân luật – là tội rất nặng, lẽ ra phải bị tử hình, nếu giai thoại truyền khẩu là đúng sự thật), kế đó là do sự gây rối ren, lũng đoạn của Pháp và phe chủ “hòa”, dẫn đến sự ngộ nhận trong nội bộ nhóm chủ chiến, sự tha hóa, phản bội của danh tướng Ông Ích Khiêm. Ông đã mắc kế li gián của giặc. Cũng như đã có lần, cũng với bản tính nóng nảy, Tôn Thất Thuyết gây mất đoàn kết với Nguyễn Văn Tường, tố cáo Nguyễn Văn Tường ăn của đút, cho tiêu thụ tiền sềnh, nhưng vua Tự Đức đã kịp thời thanh minh cho Nguyễn Văn Tường (ĐNTL.CB., tập 34, tr. 370). Tôn Thất Thuyết mắc mưu vu khống của Rheinart (ĐNTL.CB., tập 34, tr. 341)! Về sau, lúc đã trở thành đường quan (đại thần), có quyền lực, thắm thiết trong quan hệ đồng chí chủ chiến với Nguyễn Văn Tường, nhất là lúc chạm vào thực tiễn phức tạp do sự lũng đoạn của Pháp lẫn con buôn người Hoa, Tôn Thất Thuyết (và cả Phạm Thận Duật, thay nhau làm thượng thư Bộ Hộ) cũng đành chấp nhận biện pháp đánh thuế tiền sềnh đi đôi với việc dùng hình pháp nặng, như đã tử hình Lí Thành Long (con buôn người Hoa). Biện pháp ấy trước đó, thời Tự Đức còn sống, Hoàng Diệu, Lâm Hoành cũng đã đề nghị: khó ngăn cấm được sự lũng đoạn của Tàu, Pháp về tiền tệ vì dân nghèo đã dùng lỡ đa số nhân dân lại hám lợi nhỏ (tiền) mà quên hại lớn (kinh tế xã hội). Hơn nữa, tiền sềnh đã tràn lan từ trước (thời Phạm Phú Thứ làm thượng thư Bộ Hộ) [ĐNTL.CB., bộ sđd., tập 31, tr. 48; tập 32, tr. 104; tập 34, tr. 176 - 178, 279, 304, 355, đặc biệt là tr. 341 và 370; tập 35, tr. 23, 47; tập 36, tr. 183 - 184]. Ông Ích Khiêm cũng có cùng một tính nóng nảy, phát ngôn thiếu kìm chế, ở mức độ chẳng khác gì Tôn Thất Thuyết, nên dễ va chạm nhau. Cả hai do đó, cũng dễ sa vào mưu li gián của thực dân Pháp, như tên khâm sứ Rheinart thâm độc, De Champeaux gian hiểm, quyết “đập tan tành” Nguyễn Văn Tường và li gián cả nhóm chủ chiến Triều đình Huế, cũng như Hector, Silvestre thời Đồng Khánh đã dã tâm vạch kế hoạch tuyên truyền bôi nhọ, li gián những con người yêu nước mà đứng đầu là Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết (li gián ngay cả sau 05. 7. 1885).
Ở đây, về Ông Ích Khiêm nói riêng, về cả nhóm chủ chiến nói chung, chúng tôi chỉ rút tỉa, đãi lọc những sự kiện đã được sử sách đủ mọi nguồn ghi nhận, để đánh giá, nhìn nhận theo quan điểm khác, không phải là quan điểm của thực dân lộ mặt, thực dân đội lốt Thiên Chúa giáo, quan điểm của bọn ngụy, tay sai, kể cả quan điểm của những người yêu nước mù lòa về nhận thức, nhận thức chính trị với tư duy giản đơn (tác giả vè “Thất thủ Thuận An”, vè “Thất thủ kinh đô”, chẳng hạn), hoặc mị yêu nước để bôi nhọ người yêu nước chân chính. Họ đã bôi nhọ đủ cách thức, kể cả việc chế tạo ra tư liệu giả, bịa ra những sự kiện không có thật đến mức phi lí (*a)!
27
GỬI ÔNG ÍCH KHIÊM
VÀ TRẦN THIỆN CHÍNH
Ở QUÂN THỨ SƠN TÂY
Gió ấm, hạ xanh: gò cứu đụn (1)
Rét đông khôn đến: hồ nguyên sen (2)!
Thành Tuyên, kỉ tích bia lưu mãi
Nhắn gửi mọi người thử tới xem (2).
(bản biên soạn 27/1)
Hạ biếc quạt nồng thông được núi (1)
Sen Hồ vốn chẳng trọn hàn đông (1)
Thành Tuyên chép tích bia lưu đó
Nhắn gửi các anh thử đến trông.
(bản biên soạn 27/1)
(1) Xin xem lại chú thích (1) ở bản dịch nghĩa bài này. Hai câu trên cũng có thể dịch như ở bản 27/2 bởi chữ “giải” còn có nghĩa “hiểu rõ”, chữ “đáo” còn có nghĩa thứ hai là đến nơi đến chốn, đủ khắp (chu đáo), khớp với văn cảnh. Nếu dịch như bản 27/2, đại ý của bài thơ là: Nguyễn Văn Tường muốn động viên Ông Ích Khiêm, Trần Thiện Chính và cả bản thân ông rằng, chiến công ở Sen Hồ tuy rất đáng trân trọng, nhưng e chưa đủ để lưu lại trên bia đá biển đồng như chiến công tái chiếm lại thành Tuyên Quang; vì thế cần phải cố gắng lập chiến công tương đương hoặc lớn hơn cả chiến công tái chiếm thành Tuyên Quang ấy.
(2) Qua bài thơ đầy yêu mến của Nguyễn Văn Tường đối với Ông Ích Khiêm, Trần Thiện Chính, người đọc còn thấy được niềm cảm phục chân thành của chính Nguyễn Văn Tường dành cho hai người bạn chiến đấu của mình.
Mối quan hệ giữa Ông Ích Khiêm và Nguyễn Văn Tường luôn tốt đẹp, không phải chỉ trong thời gian tiễu phỉ ở phía Bắc, mà mãi cho đến1884 (theo suốt các tập ĐNTL.CB., từ tập 28 đến tập 36). Tất nhiên, ngoại trừ lúc Ông Ích Khiêm đã phản bội, tha hóa, vi phạm pháp luật của triều đình mà không một ai có thể cứu được!
Thiết tưởng cũng cần ghi rõ thêm: Trong các nhân vật chủ chiến nổi bật của Triều đình Huế, (trừ trường hợp Trương Văn Đễ (*b)), chỉ mỗi một mình Ông Ích Khiêm có tiểu truyện riêng trong Đại Nam liệt truyện (tập 4, sđd., tr. 279 - 282). Phải chăng đó là “ân huệ” cho kẻ đã li khai khỏi nhóm chủ chiến và đã phản bội những đồng chí của mình?
Tuy nhiên, ĐNLT. bị cất vào kho sử sau khi khắc in (sđd., tập 3, tr. 5 - 8), chỉ có ĐNTL.CB, đệ lục kỉ, tập 37 và tập 38, là được phổ biến rộng rãi khắp nước (lời tâu của QSQTN., sđd., tập 37, tr. 8), dưới ách “bảo hộ” vốn rất thâm độc của thực dân Pháp, trong xiềng xích bảo hoàng của Triều đình Nguyễn. Do đó, nhận thức của xã hội nói chung là sai lệch (cộng với tác hại do các hình thức tuyên truyền khác của tả đạo, thực dân như vè TTKĐ., nên lại càng rối nhiễu), bởi lẽ, mấy ai hiểu ra cách đánh giá ngược, mặc dù đã được ghi ở lời phàm lệ (sđd., tr. 16) (*c)!
Cước chú của bài thơ số 27, thuộc Phần thứ III (Thi tập Nguyễn Văn Tường):
(*a) Vè “Thất thủ kinh đô”, theo chúng tôi, cũng rơi vào quỹ đạo của luận điệu tuyên truyền do Pháp và Triều đình Đồng Khánh tung ra. Đây là một thủ đoạn rất tinh vi của thực dân Pháp; hoặc do dân gian mù lòa trong nhận thức, nhận thức chính trị với tư duy đơn giản kiểu rạch ròi, tuyến tính cứng nhắc trong các vở tuồng cổ, cải lương, chèo cổ, mà vô hình trung có lợi cho Pháp và bọn tay sai.
Ca ngợi Tôn Thất Thuyết lại bằng những câu:
“Chú nào con vợ chưa thành
Cho về sở định sở sanh việc nhà
Chú nào lưa mẹ còn cha
Cho về bảo dưỡng, vậy mà đừng đi”
Có nhà sử học, nhà văn cho rằng đấy là chủ nghĩa nhân đạo của Tôn Thất Thuyết!
Không đời nào có kiểu tuyển quân kháng chiến kì quặc với các tiêu chuẩn như thế. Thế thì chẳng còn người lính kháng chiến nào hết (chỉ chọn người đã mồ côi cha mẹ và đã có vợ con!). “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” (tục ngữ), “mỗi người làm một trận” (Nguyễn Trãi), “đàn ông nào, đàn bà nào, thấy Tây cứ chém phứa, thấy Nhật cứ chặt nhào” (Hồ Chí Minh), chứ đâu phải tuyển quân kiểu đó! Tuyển quân kiểu đó, không phải kháng chiến, mà chỉ “băng mình tếch dặm sơn phòng náu nương” (VTTKĐ., câu 1036)!
Vè “Thất thủ kinh đô” chỉ minh họa theo luận điệu của thực dân Pháp và Triều đình Đồng Khánh: Tôn Thất Thuyết chỉ tìm kế thoát thân, chứ chẳng kháng chiến gì cả.
Vè “Thất thủ kinh đô” đã bắn vào tim Tôn Thất Thuyết viên đạn bọc đường: giết chết nhân cách Tôn Thất Thuyết bằng viên kẹo ca ngợi ngọt lịm mà bên trong là mũi đạn có thuốc súng công phá.
Còn với Nguyễn Văn Tường, vè “Thất thủ kinh đô” triệt hạ cả tư cách, phong độ lẫn lập trường chính trị. Tuy vậy, vẫn nói rõ: đến mức không thể hòa hoãn với Pháp được nữa, bởi Pháp cố tình gây hấn, dùng kế khích tướng, ép Triều đình một cách ngạo mạn, ông đã bày tỏ thái độ (tuy bị nhu nhược hóa!):
“Ai có tài ra chốn binh đao
Miễn yên nhà [yên] nước, lẽ nào dám can”
(VTTKĐ., câu 633 - 634)
Và ở đoạn kết, lúc kinh đô Huế đã thất thủ:
Đô thành, quan Quận giao hòa
Lựa chiều hơn thiệt nói mà với Tây
Tây phiên gẫm vẫn giận thay:
– “Đem lòng cự chiến còn đến đây
làm gì?
May mà Nam Việt bại suy
Tây mà bại, đạo phen ni cũng không
còn...”
(VTTKĐ., 1335 - 1340
Quan một cho đến quan ba
Quan năm quan sáu vậy mà cũng nghe
Đòi triệu các quan tỉnh trở về
Sự tình y ước cho ra bề đục trong
Tin thì tin, dạ còn phòng
Nam triều tể tướng nó đem lòng
phục binh
(VTTKĐ., 1371 - 1376)
“Mời quan tể tướng xuống mau
Để kịp xuống tàu về nước Lang Sa”
(VTTKĐ., 1535 - 1536)
Dẫu có chút nào đúng với ĐNTL.CB., tập 36, các trang 63 - 64, 220 - 222, 247, tuy tinh thần chủ chiến đã bị xuyên tạc phần lớn, thì những đoạn khác vẫn có quá nhiều sai lạc nghiêm trọng (sai lạc cả những chi tiết nhỏ lẫn những mảng hiện thực lịch sử lớn).
Vè “Thất thủ kinh đô” không phân biệt được chủ chiến trong đấu tranh chính trị, ngoại giao và chủ chiến bằng vũ trang là một, “nhất dạng”, dẫn đến sự lệch lạc trong việc xây dựng hình tượng nhân vật theo tưởng tượng hư cấu chủ quan.
Vè “Thất thủ kinh đô” đã xuyên tạc, li gián cả hai người lãnh đạo cao nhất của nhóm chủ chiến, làm phong trào Cần vương hoang mang, tan rã, khiến người yêu nước không nhận ra thủ đoạn tuyên truyền của Pháp và triều Đồng khánh, rất dễ bị mắc lừa!
Vè “Thất thủ kinh đô” còn là cách biện minh cho Pháp, tả đạo, bọn tay sai và phe chủ “hòa”! (Xem các bài dụ của Từ Dũ – Nguyễn Nhược thị Bích viết thay – và của Đồng khánh về Tôn Thất Thuyết). Chả thế mà Le Bris đã dịch ra tiếng Pháp, đăng trên tạp chí Những người bạn cố đô Huế (BAVH.), số 1, năm 1942... (xem thêm tr. 235).
Chúng tôi chưa nói đến vè “Thất thủ Thuận An”, một sáng tác được cho là của dân gian vì đã lưu truyền trong dân gian, với những sai lạc, những xuyên tạc nghiêm trọng của nó: “đánh tráo nhân vật hư cấu”, Nguyễn Trọng Hợp thành Nguyễn Văn Tường, đồng thời biện minh cho tên thực dân tả đạo Caspar! Tên cơ hội, tay sai Nguyễn Trọng Hợp thì Đại Nam thực lục, chính biên, tập 36, 37 và Đại Nam liệt truyện, tập 4, sđd., đã ghi quá rõ hành trạng của y cũng như ý thức làm tay sai cho Pháp của y...
(*b) Có lẽ Trương Văn Đễ lại do Trương Quang Đản chạy “tội” (“tội” chủ chiến, thực thi nhiệm vụ cản hậu cho đoàn ngự giá sau khi kinh đô thất thủ!); và đặc biệt là nhờ uy vọng của cố đại thần Trương Đăng Quế, nên được phụ chép. Dẫu sao cũng chỉ được phụ chép mà thôi! – phụ chép vào dưới tiểu truyện của Trương Đăng Quế, ở mục hậu duệ –, vì Trương Đăng Đễ là con trai của cố mệnh lương thần họ Trương này. Xin xem lại chú thích số (11) cuối bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau Cuộc Kinh đô quật khởi 05.7.1885”.
(*c) Xem H. de Pirey, “Một thủ đô phù du: Tân Sở”, NNBCĐH. (1914), tập 1, sđd., tr. 224 - 234. Pirey trấn áp công luận bằng thủ đoạn XUYÊN TẠC CÔNG LUẬN, BỊA RA “Ý NGHĨ QUẦN CHÚNG” THEO Ý ĐỒ XÂM LƯỢC, mặc dù làm ra vẻ khách quan để tự bảo vệ lớp vỏ linh mục: “Tôi không dám bảo đảm những tin tức thu thập được là hoàn toàn xác thực [...] sau này kiểm tra lại hết và rũ bỏ những chi tiết nào nhận thấy là sai lệch” (sđd., tr. 225). Nhưng y lại dám bổ sung về Nguyễn Văn Tường: “... khi lịch sử phán quyết chung thẩm về con người này mà nước Pháp đày cho chết thì cũng nên xét tới những lời suy nghĩ về con người này của những người đã sống cùng và chịu khổ vì chính sách của ông” (sđd., tr. 234)!?! Đó là chính sách kháng chiến chống Pháp, Pirey xuyên tạc một cách tinh vi, thâm độc, và đầy thù hận đằng sau câu chữ! Buồn thay lòng dạ linh mục!
Bài 28
HỌA THƯƠNG BIỆN ĐẶNG LẠP
NGUYỆT KHỔ HÀN NGUYÊN VẬN
Hàn mưu tốt tuế dự thu sơ
Duyệt thử phi gia khí vị thư
Trà khả giải tinh tranh bộc lãn
Tửu kham phá muộn nại tôn hư
Tuyết sương lãnh trụy đa biên tái
Phong hỏa khôi tàn kỉ tệ lư
Vị báo đông phong tu biến tảo
Vô giao (giáo) nhai cốc hoặc trì ư.
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
phiên âm
28
HỌA NGUYÊN VẦN BÀI THÁNG CHẠP RÉT
BUỐT CỦA ÔNG THƯƠNG BIỆN HỌ ĐẶNG
Cái lạnh định chấm dứt năm để chuẩn bị cho đầu thu
Thổi qua đám cỏ lau bay bay không khí chưa dịu
Trà có thể làm tỉnh người giành cơn lười của đầy tớ
Rượu giải sầu được, nhưng chịu để chén không
Tuyết sương lạnh lẽo rơi nhiều nơi biên ải
Lửa chiến tranh thiêu rụi mấy xóm nghèo
Bảo cho gió xuân nên đến sớm khắp nơi
Chớ có chậm trễ ở những nơi hẻo lánh.
VŨ ĐỨC SAO BIỂN
dịch nghĩa
28
HỌA NGUYÊN VẦN BÀI “THÁNG CHẠP RÉT BUỐT” CỦA THƯƠNG BIỆN HỌ ĐẶNG (1)
Cái lạnh định chấm dứt năm [cũ], chuẩn bị cho [tuổi]
chớm thu
Xét nhìn [đám] cỏ lau bay bay này [thấy luồng] không
khí [lạnh] chưa dịu bớt
Trà có thể giải tỏa cho tinh thần, [hăng hái] giành cái
lười [của] người giúp việc (thầy tớ)
Rượu (khả dĩ) đảm nhận [được việc làm] tan [nỗi] phiền
muộn, đành [chịu nhịn với] chén [rượu] không!
Tuyết sương lạnh lẽo rơi [tại] nhiều biên ải
Gió lửa xám xịt [cháy] tàn [ở] bao nhà nghèo khó
Là [dấu hiệu] báo gió hướng đông (gió xuân) nên sớm
[đến] (sớm cần thiết cho khắp nơi)
[Xin] đừng khiến [cho] rẻo cao, hang núi ở trong
[những] sự mê loạn, chậm trễ, u ám!
(1) Đặng Toán (Đặng Kim Toán), (ĐNTL.CB., tập 31, tr. 235, 287 và ĐNLT., tập 4, tr. 294).
28
“THÁNG CHẠP RÉT BUỐT”
Họa thơ Đặng Toán
Dứt năm, lạnh tính tự đầu thu (1)
Bay rét lau này, ngó chửa thư
Trà vốn tỉnh hồn, tranh tớ biếng
Rượu thường tan khổ, chịu bình (2) khô!
Băng sương trắng trĩu nhiều biên tuyết
Khói lửa xám tàn mấy mái tro
Là báo gió xuân nên sớm khắp
Chớ gieo rẻo vắng nỗi mê mù!
TRẦN XUÂN AN
chuyển lại thơ
(1) Dịch thoát câu thứ nhất:
Lạnh tính dứt năm, tuổi chớm thu
Này lau bay rét, ngó chưa thư
Tỉnh hồn, trà vốn tranh hầu biếng
Tan khổ, rượu thường chịu chén khô!
Trắng trĩu băng sương nhiều ải tuyết
Xám tàn khói lửa mấy nhà tro
Gió xuân báo sớm nên về khắp
Rẻo vắng, đừng gieo nỗi mịt mù!
(2) Nguyên văn là “chén” (“tôn”).
Bài 29
DU BỒ SƠN TỰ
Vãn vãn xuân phong tiệm nhập hàn
Lãng du hoãn bộ đáo Bồ San
Danh thần vị đỗ sanh nhương nhật
Thử địa duy dư Diệu Giác quan
Thiền tụng thâm tiêu khai bát tọa
Chung minh bán hưởng tịch thiên ban
Tâm tồn bất sát Tào gia thệ
Thùy tác thương sinh phổ tế đan.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
29
ĐẾN CHƠI CHÙA BỒ SƠN
Chiều xuống gió xuân chợt lạnh dần
Lãng du nhẹ bước đến Bồ Sơn
Danh thần, chưa thấy, ngày tao loạn
Đây chỉ còn lưa “Diệu Giác quan”
Tám cõi mở ra lời kệ tụng
Ngàn ban tịch lặng tiếng chuông vang
Lòng còn chẳng dứt “Tào gia thệ”
Đâu giúp linh đơn cứu thứ dân?
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
29
ĐẾN THĂM CHÙA BỒ SAN (1)
Chiều muộn, gió xuân dần thấm [vào người, nghe] buốt
lạnh
Lang thang đi [thăm], chậm (nhẹ) bước, đến Bồ San
Người bề tôi lừng tên tuổi, chưa [được] thấy, [trong
tháng] ngày [thời thế] gây ra giặc giã
Đất này chỉ còn cửa chùa Diệu Giác (2)
[Tiếng] tụng [kinh] Phật sâu trầm (nhỏ tiếng) mở [ra]
tám cõi (3)
[Tiếng] chuông vang vọng lửng lơ, [khiến] lặng yên
nghìn loài (4)
Tâm hồn [đang] còn, chưa giết [được] lời thề của nhà
họ Tào (5)
Ai tạo nên [cõi] sống [dân] đen (nghèo khổ),
[hỡi] thuốc cứu giúp rộng khắp
(cho mọi nơi, mọi người, mọi thời)?
(1) Bồ Sơn, thuộc tỉnh Bắc Ninh (ĐNNTC., tập 4, tr. 118).
(2) Tên chùa, có nghĩa: sự giác ngộ linh diệu.
(3) Tám cõi (bát tọa): còn gọi là “bát tòa”, một từ Phật học.
(4) Nghìn loài (thiên ban): chữ “thiên ban” của nhà Phật, chỉ chung muôn vạn sinh linh trên trần gian này...
(5) “Tào gia thệ” (lời thề của nhà họ Tào). Chúng tôi chưa tra cứu được điển tích này. Câu trên, cũng có thể dịch chữ “sát” là “chết”; “tâm” là “cái tâm” (lương tâm, thiện tâm): “Tâm còn, chưa chết lời thề của họ Tào ư?”.
“Sát” còn có một âm nữa là “tát” (tan mất), [HVTĐ., sđd., tr. 325].
Xin tạm dẫn điển tích này để thử tham khảo (có lẽ không khớp với tứ thơ): Tào lệnh nữ (con dâu tốt của nhà họ Tào) quyết thờ chồng, không tái giá. Vì bị cha mẹ ép lấy chồng lại, Tào lệnh nữ tự cắt tai để từ chối! Chú ép, cô cắt cả mũi mình! Tào lệnh nữ là vợ Tào Văn Thúc – cháu nội Tào Tháo. Theo cách diễn đạt của Bửu Kế, đó là thái độ, ý thức chính trị hơn là lòng thủy chung vợ chồng, lúc triều Ngụy Tào đã bị tiêu vong (TĐTNTN., sđd., tr. 567).
Có lẽ, ẩn ý của tác giả nhằm chỉ đến lòng trung thành tới mức ngu trung với triều Lê trung hưng bù nhìn và chúa Trịnh nhiều đời hiếp chế (tương tự như Hán và Ngụy – Tào Tháo). Cho dù bi kịch hủy hoại thân thể của Tào lệnh nữ là hậu quả của chế độ gia trưởng phong kiến, vẫn thấy rõ lòng chung thủy trong quan hệ vợ chồng thật đáng quý, đáng nêu lên như một tấm gương sáng về liệt nữ, như ở mục “Nhân vật” của ĐNNTC.. Nhưng ở đây, cái lõi của điển tích lại là thái độ, ý thức chính trị ngu trung thật đáng trách. Tác giả muốn chấm dứt sự ngu trung ấy chứ không phải muốn làm vỡ tấm gương chung thủy trong tình nghĩa vợ chồng.
Hẳn tác giả thừa hiểu điển tích Tào lệnh nữ cũng giống như Phạm Thái – Trương Quỳnh Như. Phải chăng cái oái oăm vừa giận vừa thương rất hiện thực thời bấy giờ đã phản ánh vào tâm hồn Nguyễn Văn Tường, tạo nên một tâm trạng mâu thuẫn đầy thao thức, khắc khoải, cái thao thức, khắc khoải của một nhà nho chiến sĩ rất Việt Nam? Do đó, bài thơ trên của Nguyễn Văn Tường đã đạt được độ sâu, tầm cao về giá trị hiện thực và nhân đạo (“Thùy tác thương sinh? Phổ tế đan!”). Tuy nhiên, chúng tôi vẫn e rằng điển tích ấy không phù hợp lắm với tứ thơ, văn cảnh toàn bài. Xin dè dặt ở điểm này.
29
ĐẾN THĂM CHÙA BỒ SAN (1)
Chiều muộn gió xuân thấm lạnh dần
Lang thang nhẹ bước đến Bồ San (1)
Danh thần, chưa thấy, thời đầy giặc
Tình xứ (2) chỉ còn Diệu Giác quan
Lời kệ sâu thầm, bừng cõi Phật (3)
Chuông chùa lửng vọng, lặng trần gian (3)
Tâm còn, chẳng diệt thề Tào Ngụy
Ai tạo dân đen? Trải thuốc Nhân! (4)
(bản biên soạn)
(1) Bồ Sơn (Bồ San). Ở đây, để theo vần toàn bài của nguyên tác.
(2) Nguyên văn: “Thử địa” (đất này; đất như thế).
(3) Dịch thoát hai khái niệm Phật học: “bát tòa (tọa)” , “thiên ban”.
(4) Phải chăng, nên dịch sát nghĩa hai chữ “thương sinh” (kiếp / cõi dân đen)? Hay chỉ dịch thoát:
“Thuốc linh ai cứu chốn lầm than?”
“Thuốc linh? Ai tạo kiếp lầm than?”
Tạm dịch, chưa diễn đạt hết ý của ba chữ “phổ tế đan”. Xin xem bản dịch nghĩa bài này. Chữ nhân (nhân đạo: lẽ đạo yêu thương) tương đương với hai chữ “từ bi” của Phật giáo.
Các triết gia xếp Phật giáo và hệ thống tư tưởng của nhà Phật vào loại duy tâm chủ quan. Đó là một trường phái triếât học xem thế giới khách quan là phản ánh của thế giới nội tâm vốn do chủ quan con người tạo ra; ở tầm cụ thể với dạng tâm lí thường thấy, đại loại như câu Kiều: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”; ở tầm khái quát với sự chiêm nghiệm sâu xa theo quy luật nhân quả cùng cặp phạm trù “tất yếu – ngẫu nhiên”: khổ đau, hạnh phúc trên cõi đời đều do cái tâm con người (thể hiện thành tư tưởng, tình cảm, hành vi...) tạo nên; mặc dù vẫn thừa nhận khổ đau – sinh, lão, bệnh, tử; sát sanh ... – là hiện thực khách quan , độc lập với ý chí của con người; tạm hiểu giản đơn như thế. Phật giáo chủ trương cải thiện trần gian, gồm cả hiện thực với quy luật khách quan ấy, bằng sự nhận thức luật nhân quả và tu tâm, hành xử với trí huệ (trí tuệ sáng suốt), theo đạo từ bi, hỉ xả (nhân đạo, khoan hòa, buông bỏ những dục vọng...).
Bài 30
DỮ THỐNG ĐỐC ĐĂNG KÌ ĐÀI
HỮU CẢM
Viễn địa tân niên hệ lữ hoài
Tướng tương hoãn bộ cưỡng đăng đài
Sơn nghinh khuy kính tùy minh diệt
Vân ủng nhàn song bán yểm khai
Cố miện chinh [ … ] cao các mộng
Bồi hồi kính cúc cố viên tài
Thanh bình giao dã tri hà nhật
Cộng chước kì anh tửu nhất bôi.
TRẦN ĐẠI VINH
phiên âm
30
CÙNG THỐNG ĐỐC LÊN KÌ ĐÀI,
CẢM XÚC
Đất khách năm mới dễ cảm hoài
Cùng nhau nhẹ bước gượng lên đài
Gương soi, núi đón, tùy ẩn hiện
Song kín, mây đưa, lỏng mở cài
Ngoái lại [ … ? … ] mơ mộng hão
Bồi hồi vườn cũ cúc vồng lay
Thanh bình thôn xóm bao giờ nhỉ
Cùng rót Kỳ Anh, chén rượu đầy.
TRẦN ĐẠI VINH
dịch thơ
30
CÙNG THỐNG ĐỐC (1) LÊN ĐÀI CỘT CỜ,
[TỰ DƯNG] CÓ CẢM XÚC
Đất xa xôi, năm mới gắn liền với nỗi buâng khuâng,
thương nhớ của người đi xa
Đỡ nhau nhẹ bước, gượng lên bệï đắp cao (đài)
Núi đón chào, tấm gương chớp [như liếc mắt] tùy theo
[chỗ] sáng, [chỗ] tối
Mây ôm cửa sổ nhàn nhã, nửa đóng nửa mở
Nhìn ngoảnh [lại], [nhớ] giấc mộng [về] chiếc vồ nện
đất xây chiềng làng (2) [trên] lầu (gác) cao
[Lòng cứ] dùng dằng, [thương] sự trồng tỉa luống cúc [ở]
vườn cũ (3)
Thanh bình [cho] vùng ngoại ô, thôn quê, biết ngày nào
[như thế nhỉ]?
Cùng rót mời cái tinh hoa (4) [của] tuổi sáu mươi một
chén rượu.
(1) Hoàng Tá Viêm (ĐNTL.CB., tập 32, tr. 94...).
(2) Bản nguyên tác chữ Hán có hai chữ này không “đọc” được (chinh chùy?). Hẳn chữ này vốn là từ tiếng Việt (“chiềng làng, chiềng chạ”) được tác giả phiên âm ra tiếng Hán. Đây là một chữ Nôm ít được dùng, bởi ngay chữ “chiềng” cũng là từ tiếng Việt cổ. Có lẽ tác giả nhớ thời xây dựng biên ải. Chúng tôi tạm đoán, dựa vào văn cảnh toàn bài cùng bài thơ 66, “Mừng Trần Trọng Cung thọ bảy mươi”: “chiềng chuỳ”, đó là “cái vồ nện đất (để đắp đất) của chiềng làng”. Xin xem thêm chú thích (3), bản dịch nghĩa bài 66.
(3) Có lẽ nhà thơ thương nhớ đến thời dạy học ở quê nhà (lúc bị cấm thi) hay ở Mộ Đức, Quảng Ngãi (lúc được bổ làm huấn đạo, sau khi đỗ cử nhân): tài (trồng cây) trong từ “tài bồi” (bồi: vun xới); “thụ mộc” – “thụ nhân” (trồng người).
“Cố viên tài”: cây cối (“tài”) ở vườn cũ. Hiểu một cách linh hoạt: vườn ươm trồng nhân tài.
(4) Chúng tôi liên tưởng đến bài “Vịnh họa thủy tiên trong quân lữ” của Hoàng Tá Viêm và bài họa lại của ông. Theo ông, hoa thủy tiên là biểu tượng “đẹp người, tốt nết, cao tài” (dị anh: tài năng xuất chúng). Có điều, ở bài thơ này này, “kì anh” cùng những phẩm chất quý báu của nó, không phải là hoa, mà là rượu – rượu kì anh, trác tuyệt! – của tuổi sáu mươi (“kì”).
30
CÙNG THỐNG ĐỐC HOÀNG TÁ VIÊM
LÊN ĐÀI CỜ, CẢM XÚC
Năm mới đất xa lính cảm hoài
Đỡ nhau nhẹ bước gượng lên đài
Gương loe núi đón, tùy ngời tắt
Song rỗi mây ôm, nửa mở cài
Ngoái thuở vồ chiềng, nâng gác mộng
Thương thời cúc luống, ươm vườn tài
Thanh bình thôn xóm ngày nào nhỉ
Cùng rót “Kì Anh” (1) một chén say!
(bản biên soạn)
(1) “Kì Anh”, ở đây dùng như tên rượu với nghĩa: tinh hoa tuổi sáu mươi, cái tinh hoa kết lại sau sáu mươi năm học tập, rèn luyện, chiến đấu, cống hiến...
Xem tiếp:
http://tranxuanan.writer.2.googlepages.com/tho_nvt-vnvcnthvttuong_12.htm
Cũng có thể xem tại:
http://www.tranxuanan-writer-5.blogspot.com
http://www.tranxuanan-writer-6.blogspot.com
Trở về trang
danh mục tác phẩm -- muc lục:
http://tranxuanan.writer.googlepages.com/danhmtphamtxa_googlepcreator.htm
bài mới -- sách mới -- tin tức mới:
http://tranxuanan.writer.googlepages.com/baimoi-sachmoi-2
______________________________________________________________________________________________________________
http://tranxuanan.writer.googlepages.com/home
Google page creator / host
GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ... / HOST, SEARCH & CACHE