d. Trần Xuân An - Sen đỏ, bài thơ hòa bình - Tệp 4

 

Web Tác giả Trần Xuân An

 

 

TRẦN XUÂN AN

SEN ĐỎ, BÀI THƠ HOÀ BÌNH

 

 

Chương 4

 

1998

 

 

1998

 

 

 

24

 

 

 

            Tết Nguyên đán đã qua rồi.

            Tre Trúc ngồi bồng con nhìn ra khung cửa nắng. Tháng giêng vàng chói chang với độ nóng khá oi bức đang bao trùm lên thành phố. Cả khuôn viên biệt thự Sen Trắng cũng như được quét lên màu vàng nóng ấy. Qua một khoảng sân khá rộng, Tre Trúc ngỡ các hoa văn lá sen, đoá sen trắng trên nền lam đậm ở bên hông trái toà nhà đang vào mùa hè, với làn hương ca dao xưa thẳm. Bất giác, Tre Trúc bồng con ra đứng ở bậc cửa. Cây Bàng tì cằm vào vai mẹ, nhìn vào bàn thờ tổ tiên rồi đăm đăm nhìn cây đèn bàn màu đỏ trên bàn làm việc của ba, môi vẫn bú như thể còn khát sữa, mặc dù vừa ăn xong chén cháo nghiền rất mịn, lại bú nước trong bình bú để tráng miệng. Tre Trúc vỗ nhẹ vào mông còn đậm bớt xanh sơ sinh của con trai, ru khẽ một bài lục bát với cách gieo vần điệp rất cổ, với kết cấu rất gợi hình, ngỡ ánh mắt nhà thơ dân gian nào đã chiêm ngắm từ ngoài vào bên trong, từ trong ra bề ngoài của loài sen dân dã: "...lá xanh, bông trắng lại chen nhụy vàng, nhụy vàng, bông trắng, lá xanh...". Tre Trúc muốn ca dao ngấm vào trái tim đỏ thắm bé bỏng của con, với vần điệu lục bát của tâm thức dân tộc.

            Buổi sáng, im vắng lạ lùng, chỉ thỉnh thoảng vọng từ ngoài hẻm vào tiếng xe gắn máy ai chạy vội. Tre Trúc bồng con đi tới đi lui trên hành lang nhà, bước chân chậm rãi. Sực nhớ Cây Bàng mới ăn no, cô bồng con vào nhà, đặt con nằm trên chiếc xe đẩy, đẩy con ra lại hành lang.

            Tre Trúc mỉm cười ngắm con trai. Với gương mặt của Hãng lúc còn trẻ thơ, Cây Bàng chăm chăm nhìn mẹ. "Nói chuyện" với con một lúc với những câu âu yếm, Tre Trúc bỗng mong Hãng về nhà, mặc dù anh mới ra khỏi nhà chưa lâu.

            Hãng đã phải đến xưởng vườn điêu khắc của người bạn luống tuổi thân thiết với anh Cơ Dân, từ hơn bảy tháng nay. Những năm tuổi nhỏ anh đã yêu thích điêu khắc, thời sinh viên anh đã đi học đồng thời tự nghiên cứu thêm về nghệ thuật tạo hình này. Bảy tháng qua, anh cùng nhà điêu khắc ấy hết nặn rồi lại đục với chất liệu đá và thạch cao. Gần đây, anh lại cùng nghệ sĩ già sáng tạo lại các bức tượng La Hán chùa Tây Phương từ các tảng đá. Cũng với đá, hai thầy trò còn tạc lại tượng nhà mồ Tây Nguyên - những pho tượng gỗ lõa thể đàn ông, đàn bà - trần trụi, cô đơn, thao láo đôi mắt kinh ngạc về thân phận con người: sinh ra trần trụi, chết đi cũng trần trụi! Sự trần trụi lúc về lại lòng Đất sao héo hắt, quắt queo, sao buồn thảm thế! Hãng bàng hoàng trước các pho tượng của tâm thức nghệ thuật bi đát ấy ở từng nhát đục. Nhiều lần anh về nhà với nét mặt khắc khoải, có khi thảng thốt, đến nỗi Tre Trúc phải gạn hỏi để chia sẻ cùng anh.

            Bảy tháng, Hãng vẫn cùng người nghệ sĩ già đeo đuổi ý tưởng: nền tạo hình gỗ của Kinh và các nhân tộc đồng bào cần học thêm ở nền tạo hình đá của Chăm ruột thịt. Hãng đâu chỉ kiếm sống. Nhưng dù sao, với chút tiền khi nhiều khi ít nhưng đều đặn, đúng kì, Hãng, Tre Trúc, Cây Bàng cùng Song Mây cũng vượt qua đận khó. Và dù sao, Tre Trúc cũng ngọt ngào với hạnh phúc, chỉ ngỡ ngàng với sự bỗng chốc trở thành một người mẹ trẻ.

            Hãng và nhà điêu khắc ấy không nỡ để các tượng cổ phải mục đi, nên đành "phục chế" với chút ít sáng tạo mới, còn Tre Trúc vẫn chăm con, thỉnh thoảng bà Lụa Hà hay Song Mây hoặc Ô Châu, Trắng Cát, Hoài Hương trông hộ, nhưng cũng tiếp tục việc nghiên cứu đang dở dang. Tre Trúc chỉ muốn có những phát kiến mới trên các trang sách tham khảo. Cô không muốn phải hi sinh như Hãng và nghệ sĩ già kia. Văn bản chữ có thuận lợi của nó. Máy sao chụp và kĩ thuật in ấn hiện đại đã giúp văn bản chữ cổ không cần sự hi sinh để phục chế. Tre Trúc cũng muốn đi làm, kiếm thêm tiền để trang trải, nhưng khi đến cơ sở Kim Tràm, Tre Trúc đã phải vin vào cánh tay Hãng, để có thể khỏi ngã qụy trong lần gặp lại đầu tiên!

            Tre Trúc còn nhớ mãi đôi mắt một mí rất đặc trưng của người Mông Cổ ở ông Kim, sáng đó. Hai chiếc lá răm đối xứng, hơi xếch về phía thái dương, theo sự phỏng đoán rất buồn cười của thuật tướng số là rất đa tình đa cảm, sáng đó, bỗng sắc lẻm, và tia nhìn có vị cay. Đúng là đôi mắt lá răm dại, không biết mọc để làm gì nhỉ! Tre Trúc có cảm giác bất nhã đó sau câu chuyện với ông Kim, cô Hương Tràm. Đó là cảm giác tồi tệ rất bất giác, thật đáng tự trách, cho dẫu ông Kim tệ tình nói:

            - Chúng ta đã có người thay thế cô Tre Trúc từ gần mười mấy tháng nay, từ lúc cô ấy xin nghỉ hộ sản. Bảo cô Tre Trúc cảm phiền đi nơi khác xin việc - cô Hương Tràm dịch lại, nói thêm - Rất tiếc! Bao giờ cần, chúng tôi sẽ mời cô trở lại làm việc với chúng tôi.

            Tre Trúc còn đau xót vì những bức ảnh có chú thích bên dưới được treo quanh tường để tiếp thị. Đó là những bức ảnh màu chụp các nghi thức lễ hỏi, lễ cưới rất đậm nét phong tục Việt Nam, cả cách may mặc, đồ sính lễ, thức ăn, cách bày cỗ, các nghi lễ, cách trang hoàng. Tre Trúc đã bỏ ra mấy tháng trời để thiết kế lễ hỏi, lễ cưới rất cổ xưa, rất Việt Nam với những chất liệu, thiết bị hiện đại. Tre Trúc muốn khách mời và cô dâu, chú rễ trong lễ hôn nhân có cảm tưởng rất ấn tượng về nguồn mạch nghìn xưa nối với nghìn sau. Cô đã thành công, nhưng ước vọng thành phố Hồ Chí Minh ở lĩnh vực này được xưa sau đậm đà bản sắc như thế, lại thế này đây! Đó không còn là thành công từ ước vọng, từ quá trình trăn trở, suy ngẫm, cách tân của Tre Trúc, mà của Kim Tràm! Cô lại không được làm việc ở cơ sở Kim Tràm nữa! Cô bị từ chối nhẹ nhàng, thẳng thừng một cách nhẹ nhàng! Chừng như ông Kim lẫn cô vợ trẻ Hương Tràm của ông không hề có ý niệm gì về quyền tác giả. Họ thuê cô thiết kế có giải trình, và cô đã sáng tạo, cách tân rất riêng, hơn cả yêu cầu của họ, họ cũng trơ trơ. Với họ, họ đã mua sức lao động của cô, còn cô làm thuê, nghĩa là đã bán. Thế là xong! Chẳng quyền tác giả gì ở chuyện cách tân, thiết kế này cả.

            Giữa thời hiện đại, Tre Trúc bị trở thành một tác giả cách tân vốn cổ vô danh như muôn triệu triệu tác giả dân gian khác. Đau xót, rồi vui vui buồn buồn. Đau xót vì quan niệm về tác quyền hiện đại. Vừa vui vừa buồn vì trở nên vô danh như xưa xa chỉ truyền mắt, truyền miệng về văn hoá.

            Tre Trúc chẳng hưởng thêm đồng xu nào nhưng cơ sở Kim Tràm lại mỗi ngày mỗi thu hút khách hàng ở dịch vụ đám hỏi, đám cưới. Chất xám, mồ hôi lúc bụng mang dạ chửa của Tre Trúc vẫn tiếp tục hái ra tiền cho Hàn kiều Mỹ có tên Giêm Kim và người vợ Việt Nam của ông là Hương Tràm.

            Lúc ra về, Hãng cũng vui vui buồn buồn nhưng lo âu về việc làm nhiều hơn: Hai vợ chồng đều thất nghiệp với một đứa con dại mới được mấy tháng.

            - Cô Hương Tràm là vợ làm ăn hay vợ yêu đương vậy, hở Tre Trúc?

            - Không rõ được. Em thấy cũng quấn quýt tình cảm lắm. Có thể khái niệm "vợ làm ăn" man rợ ấy vẫn còn trong thực tế!

            Nỗi đau từ sáng hôm đó đến bây giờ còn âm ỉ trong tâm hồn Tre Trúc. Cô sợ nỗi đau sẽ làm chua nguồn sữa ở hai bầu vú, làm chua những tháng tuổi sơ sinh của Cây Bàng. Tre Trúc cố quên đi bằng những bài hát vui, những bài tập thể dục nhẹ, và đọc sách, ngẫm nghĩ, ghi chú. Tre Trúc vui mừng khi nhìn Cây Bàng bụ bẫm nhờ nguồn sữa ngọt từ hai bầu vú được khen là mát sữa.

            Lúc này, Cây Bàng đã say sưa ngủ trên chiếc xe nôi. Tre Trúc say sưa ngắm nghía con trai cưng bé bỏng với tấm lòng người mẹ. "Có con rồi mới có cha, có cháu trong nhà rồi mới có ông", câu lục bát dân gian rất triết lí này của ai nghìn xưa nhỉ. Mỗi người chữa một ít để nó trở thành không của ai cả, mà của văn học Việt Nam. Cũng như bài ca dao về sen trắng, bài lục bát hai câu này đã là sữa mẹ, Mẹ Việt Nam.

            Tre Trúc bỗng cảm thấy xấu hổ vì sự ao ước được giành lại quyền tác giả cách tân từ tay Kim Tràm. Xem ra có vẻ háo danh, muốn lưu danh ! Xem ra còn nặng "óc tư hữu" chính đáng (đâu phải tư hữu tư liệu sản xuất, bóc lột giá trị thăng dư!). Hơn nữa, rõ là thiếu thực tế quá!

            Tre Trúc nhìn biệt thự Sen Trắng, chẳng có biển đồng, biển đá nào ghi tên kiến trúc sư và năm sáng tác, thực hiện, cùng tên tuổi kíp thợ nào!

            Nhưng ca dao bây giờ vẫn có tên tác giả. Thực ra đó là thơ bác học được viết bằng thi pháp ca dao, như lục bát Nguyễn Bính. Thực ra vẫn có cơ quan lưu chiểu tạo phẩm, bảo vệ tác quyền, kể cả quyền cải tiến kĩ thuật, quyền phổ biến kinh nghiệm cá nhân, tập thể, quyền phát minh khoa học và công nghệ.

            Tre Trúc vẫn âm ỉ nỗi đau vì vốn chất xám của mình đang đẻ ra lợi nhuận cho một Hàn kiều Mỹ và Hương Tràm. Chất xám là vốn. Vốn tri thức. Vốn trí tuệ. Vốn động não, vốn lao động cật lực trên sách, trên giấy, trên băng hình...

            Hãng và Tre Trúc lại đang thiếu tiền, thiếu vốn - những tờ giấy, những kim loại vô nghĩa được quy ước có giá trị. Vàng và tiền không có giá trị tự thân, nhất là tiền! Vàng còn đẹp, còn chói ngời tự thân nó. Giấy vô nghĩa thật sự. Giá trị trang trí, trang sức của vàng, sự vô nghĩa của giấy-in-tiền đã trở thành vốn, cô đang cần, Hãng đang cần để cống hiến được vốn chất xám của mình. Tiền, vàng là tín tệ. Tín tệ là giá trị kết tinh của sức lao động được quy ước hoá trên kim loại ấy và giấy ấy. Muốn cống hiến phải có vốn - giá trị từ sức lao động trước đó đã quy đổi?!

            Nhưng mới ra trường, mới khởi đầu đi làm việc, đã lao động có tiền bao giờ! Lao động trí tuệ đã bị đoạt, đoạt một cách trơ trơ không thương xót, rất đương nhiên! Một luật đời vô minh và man rợ! Ồ, thôi, hãy chấp nhận thực tế phi lí để sống nhẹ nhàng hơn chăng?!

            Tre Trúc cười buồn, cam chịu, mơ ước giá như cõi đời văn minh và công bằng hơn, có luật pháp sâu sát hơn! Nếu thế, cô sẽ kiện Kim Tràm. Họ sẽ phải trả tiền cho cô tính từ năm ngoái đến một trăm năm sau, dù họ phải rời Việt Nam vào ngày mai. Tre Trúc ngồi suy tưởng vẩn vơ, vớ vẩn, nhìn ra sân và cổng Sen Trắng. Không, không vẩn vơ, vớ vẩn đâu. Cơ bản, cốt lõi vấn đề là đúng chứ! Đúng, nhưng hóa ra buồn cười, cái buồn cười của người nghĩ quẫn?!

            Ồ, trên thế gian này, có bao nhà khoa học, tác giả văn chương, bao người phát kiến bị tước đoạt sức lao động kiểu này nhỉ?! Họ còn bị bóc lột bởi nhiều cách khác nữa!

            Tre Trúc lại nhìn ra nắng tháng giêng theo lịch mặt trăng. Hương ca dao từ hoa văn sen trắng ở chân tường cơ hồ thoảng thơm dìu dịu. Và lục bát chân quê ngan ngát hương triết lí. Quả là đứa con trai của Tre Trúc đã sinh ra trong cô một người mẹ, biến cô thành người mẹ như sau một lần thoát xác, tằm thành bướm. Cô lại khẽ ru. Một nội dung rất tươi tắn, với sức mạnh dịu dàng của sự khẳng định phẩm chất sen, nghe êm êm buồn buồn trong tiếng ru. Không phải buồn bã, buồn rầu, buồn chán, buồn đau... Đó là điệu ru ngủ. Buồn ngủ! Cái buồn của cơ thể cần ngủ ngon giấc. Không phải cái buồn tình cảm, tư tưởng. Mặc dù con đã ngủ, Tre Trúc cũng thích ru để hương sen ca dao tươi tắn, mạnh mẽ dịu dàng đi vào giấc ngủ con.

            Lát sau, lúc Tre Trúc đang nghĩ về Hãng (có lẽ đang tạc tượng lên đá), Cây Bàng mở mắt, ngơ ngác, khóc đòi bú tuy cô biết con còn đang no. Chiếc tã đã ướt đầm từ lúc nào.

            - Cậu Gióng tè bậy quá nghe - thay tã cho con, Tre Trúc nựng - Lớn như thổi nghe Cậu Gióng! Cơm và cà mẹ có sẵn rồi. Lớn như thổi nghe. Sông Sài Gòn rộng lắm đó nghe, lựa khúc nào ngọt thì uống cho cạn. Cạn rồi lại làm đầy giùm mẹ.

            Cậu Gióng có tên Cây Bàng lại tè ướt thêm một chiếc tã nữa. Tre Trúc mỉm cười với con trai, bất chợt giật mình nghĩ, mình có phạm thượng với huyền tượng lịch sử không nhỉ? Có lẽ không. Đứa trẻ Việt Nam nào cũng phải là Thánh Gióng.

 

 

 

25

 

 

 

            Gần hết mùa khô, cuối tháng ba theo lịch mặt trời, Nguyễn Đồng Triệu, con trai ông Nguyễn Hà Đông, cũng là cháu ruột bà Lụa Hà, đã góp vốn vào cửa hiệu vật liệu xây dựng của một nhóm kiến trúc sư, kĩ sư trẻ, trong đó có Triệu Nắng Thắp, Phùng Hãng. Nhóm gồm bốn người, ngoài Hãng và Thắp, còn có thêm Trưng Đường Sóng và cô gái Đoàn Rừng Sim Mua. Nay Triệu góp thêm ba cổ phần, mỗi cổ phần đến ba chục lượng vàng! Ngoài Triệu có vốn sẵn, còn bốn người trẻ tuổi kia đã phải vay, bán xe, bán nhà, xin bố mẹ.

            Hãng phải vay ông Hương Chữ số vàng đã mua nhà để xe dạo nọ.

            Ông Hương Chữ không hề kinh doanh kiểu tư nhân bao giờ, tuy mang tiếng là thuộc nòi tư sản. Kinh doanh sách thời bao cấp vốn là việc làm có tính viên chức nhà nước. Ông chỉ là một viên chức mẫn cán cho đến lúc về hưu. Ông Hương Chữ suốt mấy tháng trời cũng cố gặp bạn hưu trí để xin việc cho Hãng nhờ sự quen biết của họ, nhưng cũng không đi đến đâu. Ông đành cho Hãng vay lại số vàng ấy với sự áy náy. Ngoài ra ông chẳng giúp được Hãng chút gì khác trong lĩnh vực tư doanh này.

            Nguyễn Đồng Triệu đã đề nghị góp cổ phần để mở rộng mặt hàng, xin thành lập cơ sở thiết kế , nhận thầu xây dựng, khi cửa hàng và kho vật liệu xây dựng tạm ổn định, bắt đầu có thu nhập. Cửa hàng có tên Sen Đỏ, nay Triệu đề nghị đổi lại là Sen Phố, lúc làm đơn xin mở rộng kinh doanh. "Phố" là chữ lót của cái tên Lương Hoài Phố Thị, tên của vợ Nguyễn Đồng Triệu. Hình tượng của loài sen phố phường?

            - Phố phường là chốn đắc địa của nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc, nhưng đã Sen Đỏ thì Sen Đỏ luôn. Sen nào cũng là sen, có sao đâu! - Hãng hơi bực mình trong một cuộc họp mặt.

            Với tư cách của người có đóng góp ba cổ phần, một Nguyễn Đồng Triệu giá trị gấp ba lần Phùng Hãng, Triệu nói rất tự tin:

            - Sen là các bạn, Phố là vợ mình. Phải là Sen Phố.

            - Bên này bốn người bốn cổ phần, Triệu chỉ có ba cổ phần thôi mà - Thắp cũng cảm thấy bất ổn trong sự hợp tác này.

            - Thì mình thêm một phần! - Triệu nói, với giọng người thừa vốn kinh doanh.

            Một cổ phần những ba chục lạng vàng. Sóng phải chạy bay tóc trán, mòn chân mới vay đủ, và vẫn nơm nớp lo âu vỡ nợ. Nghe Triệu nói, Sóng thấy sao nhẹ quá. Đúng là con cái tư sản sướng thật! Bởi biết Triệu còn là giám đốc một công ti trách nhiệm hữu hạn gồm nhiều cơ sở "vệ tinh" khắp thành phố, Sóng thấy hơi ngại. Anh định đề nghị hoãn cuộc họp. Chợt thấy ba người bạn còn lại cũng cùng một ý với anh, Sóng cảm thấy yên tâm. Cuối cùng cuộc họp cũng hoãn lại thật.

            - Cô Sim Mua và mấy ông làm ăn thiếu quyết đoán. Chán quá! Thì giờ là tiền bạc. Thời buổi chạy đua mà lề mề quá rồi đó! - Nguyễn Đồng Triệu nói với ý gay gắt nhưng giọng nói lại cố từ tốn, dịu nhẹ.

            Dẫu từ tốn, dịu nhẹ, nhưng nghe Triệu than phiền hơi kẻ cả, bốn người bạn cùng cảm thấy khó chịu.

            Ngồi lên chiếc Đờ-rim, Triệu bây giờ không vọt đi hệt một tia chớp như dạo nào nữa. Triệu đang cố gắng ra vẻ ông chủ. Khi thay mặt anh em ra tiễn chân Triệu, Thắp có nói, quyết đoán không phải là bộp chộp, nông nổi, mong sẽ gặp lại Triệu. Bước vào, Thắp ngừng lại, đứng trước cửa hàng, nhìn lên tấm biển mới treo lên được hai tháng sau bảy tháng trời bàn bạc, chạy vốn, xin giấy phép kinh doanh. Thắp lại nhìn tấm biển nhỏ treo ở cánh thẻ một bên cửa sắt. Đó là tên và học vị của bốn anh em bè bạn, cỡ bằng tấm biển của các bác sĩ trước phòng mạch tư nhân.

            Hãng nói khi Thắp bước vào, ngồi xuống ghế:

            - Có nên đổi thành Sen Phố không? Và thêm tên của cử nhân tiếng Anh Nguyễn Đồng Triệu nữa? Nhân nhượng thế thì đau quá.

            - Sen Đỏ là do Hãng đề xuất. Mình hiểu ý nghĩa hình tượng ở sân biệt thự Sen Trắng. Có điều anh em mình cần tiền vốn. Tiền! Có lẽ phải đành nhân nhượng chăng? - Sim Mua, với chất giọng phương nam, đáp rồi hỏi lại.

            - Tay Triệu này tốt số quá. Mới hai mươi tám tuổi đã giàu có, làm giám đốc một công ti cỡ đó. Triệu còn muốn hùn hạp với nhóm mình làm gì nhỉ? - Sóng dè dặt, thắc mắc.

            - Kinh doanh vô bờ bến mà! Giàu, lại muốn giàu thêm. Các nhà tư sản cỡ bự còn hợp tác với nhau thành tập đoàn tư sản xuyên quốc gia... - Thắp không nói lên một trực cảm về Triệu và sự cảnh giác về các thủ đoạn "cá mập" trong kinh doanh anh đã đọc được trong sách -... Còn bọn mình, ki cóp từng đồng tiền lẻ, không dám "làm hết mình, chơi tối đa" để suốt đời làm thuê cho tư sản, tiêu thụ hàng hoá cho tư sản thêm giàu đâu! Bọn mình phải vay, mượn, bán sạch xe cộ, nhà cửa, như thể đánh cược cả tính mạng mình và vợ con!... Đời đã thế, thì phải vậy! Phải làm hết mình, ăn tiêu kiệm ước, để tích lũy vốn! - Thắp nói - Mình liên kết với Triệu, chẳng qua bởi cần có tiền vốn lớn hơn...

            Hãng nhìn Triệu Nắng Thắp với ánh mắt cảm thông. Anh biết Thắp cũng đã bị Vũ Hồng Ngà đuổi việc, sau khi Thắp cưới vợ được một tháng, vì Thắp cũng không chịu nhân nhượng với tư sản nước ngoài. Tiền vốn Thắp có là nhờ bán mảnh đất hương hoả ở Bình Chánh (nay đang phải ở nhờ nhà bố mẹ vợ!). Hãng nói:

            - Còn bao nhiêu sinh viên đại học, ra trường rồi hay chưa, đang khốn khổ, chật vật, gia đình không còn một hạt thóc nhổ râu! Nhóm bạn bè mình thế là đã khá may mắn khi vào đời rồi - anh nhìn Sim Mua, em gái của một Việt kiều Mỹ đang kinh doanh lớn bên ấy khi nói.

            Sóng nhìn các mặt hàng trưng bày chung quanh, vẫn dè dặt:

            - Hay thôi hợp tác với Triệu đi? Bọn mình với nhau thôi? Mình ngán cái trò "đánh bạc" này lắm.

            - Thôi, mình nhất trí nhân nhượng - Hãng nói - Vốn anh em mình ít quá, làm sao cạnh tranh với các nhà thầu, các công ti được. Bọn mình cũng phải cố mà trở thành tư sản thôi. Phải có vốn lớn, bản lĩnh mạnh, mới cạnh tranh nổi với tư sản nước ngoài. Phải trở thành một đơn vị trong "binh chủng" tư sản dân tộc. Năm ngả đường kinh tế, mình phải chọn một ngả, một "binh chủng" trong năm "binh chủng". Năm ngả hướng tâm, sẽ gặp nhau mà. Thế là cũng "hợp đồng tác chiến" rồi. Nếu làm ăn kiểu cầm chừng, ít vốn, chắc phải bị bọn tư sản nước ngoài nuốt chửng, trở thành nô lệ kinh tế mất! Còn Sen Đỏ hay Sen Phố vẫn thế, chúng mình vẫn kiên trì với "tư tưởng chiến lược" - chợt thấy hơi cộm bởi các thuật ngữ quân sự, thuật ngữ kinh tế - chính trị học, Hãng cười xoà với các bạn, với cố tật của mình.

            - Không phải chúng ta chọn lựa, mà không còn cách nào khác. "Binh chủng chủ lực" là quốc doanh không còn chỗ cho chúng mình. Quốc doanh xã hội chủ nghĩa, ở khu vực đó, không phải ai cũng như con sâu mọt Vũ Hồng Ngà. Có điều, bây giờ đã thế này, phải tự thấy là chúng mình tham gia một cách chẳng đặng đừng vào phương thức bóc lột tư bản tư doanh, ở khu vực thứ ba, sau khu vực quốc doanh và sau khu vực công tư hợp doanh (bây giờ, khu vực hai có thêm liên doanh). Nhưng làm thế nào được! - Thắp nói - Nói vậy là hơi "bài bản", tất nhiên "bài bản" vẫn đúng. Kinh tế vốn vậy. Đúng không? Năm "binh chủng" phải đoàn kết lại trên "mặt trận" kinh tế, văn hoá.

            - Không ngờ Thắp lại bản lĩnh vậy - Sóng nói, mỉm cười - "Càng chiến đấu chúng ta càng lớn mạnh". Đúng vậy. Song đã có một ngàn năm nô lệ Tàu và bao nhiêu giai đoạn ngắn cũng phải nô lệ Tàu, rồi nô lệ pháp, Nhật, Mỹ... Liệu có chiến đấu nổi không? Chẳng hiểu sao lại "mở cửa" kiểu này! Đã đủ nội lực đâu, về khoa học - kĩ thuật, kinh tế và về phương tiện văn hoá. Văn hoá mạnh, nhưng phương tiện còn yếu. Như thế phải chiến đấu trong thế bất lợi, không cân sức. Chẳng lẽ cứ chiến tranh hết bằng hình thức này đến hình thức khác. Quá khổ sở! Quá cam go! - Sóng thở dài.

            Hãng nghĩ ngợi. Một khoảng khắc im lặng trùm lên mặt bàn đặt cuối gian hàng. Thấy hơi nặng nề, Sim Mua nói:

            - Thôi, tùy theo sức mình mà lập sự nghiệp. Nói gì toàn thuật ngữ quân sự, nghe nặng mùi thuốc súng quá. Khét lẹt! Đùng, đoàng! Thôi, cụ thể là có đồng ý hợp tác với Triệu không? Vấn đề là biên bản, hợp đồng, chứ đâu phải biển hiệu. Nếu Triệu đặt vấn đề như thế, mình có nhân nhượng không? Cụ thể là vậy. Hãy bàn vào cụ thể.

            Hãng nghiêm nét mặt:

            - Và phương thức biểu quyết nữa. Triệu có giá trị một hay là bốn? Chẳng lẽ căn cứ theo tỉ lệ cổ phần mà một "phiếu" của Triệu bằng bốn "phiếu" của bốn chúng mình? Phải hợp tác, đoàn kết với Triệu. Vấn đề là hợp tác, đoàn kết cách nào, phương thức nào? Có thật Triệu có thiện chí không, hay Triệu đang giở trò "cá mập'' với chúng mình? Triệu và chúng mình giở trò với nhau thì bọn tư sản nước ngoài sẽ có lợi. Tư sản nước ngoài sẽ suốt chửng chúng ta, và tiêm nọc vào con sâu xanh là Triệu trong tổ tò vò tư sản xuyên quốc gia của chúng.

            - Phải nói cho Triệu rõ những cái cụ thể đó - Thắp cười gằn - Vẫn Sen Đỏ, Triệu bốn cổ phần nhưng giá trị chỉ là hai "phiếu" trong biểu quyết tập thể, và bên mình phải chủ toạ trong các cuộc họp, đừng để bị Triệu "giật dây".

            - Triệu không nhân nhượng chúng mình đâu - Sóng nói, hơi băn khoăn.

            - Lãi, chia đều theo tỉ lệ cổ phần, Triệu bốn và chúng mình bốn. Sòng phẳng! - Hãng nói thêm.

            Và bốn người bạn cùng nhau nhất trí về những điều sẽ thương lượng với Nguyễn Đồng Triệu.

            Hai chữ "tiền vốn" trong kinh doanh trở nên một trăn trở lớn với Hãng. Không nói, nhưng Hãng biết đằng sau Triệu còn có ông Nguyễn Hà Đông. Hãng biết ông Nguyễn Hà Đông là một con cáo già dưới chế độ cũ. Hãng tự hỏi, làm thế nào để đoàn kết được trong cạnh tranh gay gắt, khốc liệt giữa các nhà tư sản dân tộc, rồi giữa các thành phần kinh tế trong nước? Lập trường - chỗ đứng chung là giữa dân tộc, vì lợi ích dân tộc về kinh tế, văn hoá... Biết ai dân tộc và ai mại bản? Liệu Triệu cùng ông Nguyễn Hà Đông có ăn cánh với tư sản nước ngoài, sẵn sàng làm tay sai kiếm lợi cho chúng? Hãng thấy trên báo chí đã ít nhiều báo động như anh ao ước được báo động về tình trạng mại bản của một số cán bộ và một số tư sản trong nước. "Tiền vốn"! Khởi đầu là đó, sức mạnh cơ bản là ở đó. Và vốn chất xám! Hãng cũng băn khoăn về khát vọng sáng tạo kiến trúc, nghiên cứu vật liệu xây dựng. Anh đã sáng tạo được cái gì mới mẻ đâu! Chỉ mới minh họa, phục chế, sữa chữa, bổ sung! Chỉ ứng dụng vật liệu mới nhập khẩu! Hãng cảm thấy đáng tự hổ thẹn. Mơ ước cho nhiều, nói cho nhiều, nhưng nào đã làm được gì! Bên ba người bạn cùng chung hoài bão khoa học, nghệ thuật, Hãng với họ đang chỉ kiếm sống bằng việc mua bán vật tư! "Cơm áo không đùa với khách thơ", cũng nào đã khác gì với Sóng,  Thắp, Sim Mua và Hãng trong kiến trúc, xây cất. Cảm giác bị "áo cơm ghì sát đất" khiến Hãng tức tối.

            Bốn người bạn trẻ, đang tuổi hai mươi, bất giác cùng im lặng nghĩ ngợi. Cả buổi sáng nay, cửa hàng vẫn chưa bán được món hàng nào!

            Sim Mua đến ngồi trước máy vi tính, phân tích lại một kiểu dáng kiến trúc lạ. Bỏ dở ý nghĩ, Hãng đến bên cô, cùng cô trao đổi về "tỉ lệ vàng" trong bản vẽ ấy. Anh nghĩ, dẫu thế nào cũng phải rèn luyện chuyên môn. Chuyên môn là "vũ khí".

            Đang cố gắng chú mục vào khung hình vi tính với những đồ họa, Hãng bỗng nghe Thắp hỏi:

            - Này, giả dụ như có những công ti tư bản nước ngoài đề nghị chúng ta hợp tác với họ, chúng ta có đồng ý không? Họ có vốn lớn, lại có công nghệ cao, tiên tiến... Chẳng ai hữu nghị đến mức "viện trợ không hoàn lại" và "chuyển giao công nghệ tiên tiến không có điều kiện"! Tư bản mà lị!

            - Chủ trương của Đảng bây giờ là vừa hợp tác vừa đấu tranh - Hãng quay mặt lại nói với Thắp - Hợp tác nhưng vẫn đấu tranh với tư sản nước ngoài để giữ thế chủ động, quyền tự chủ kinh tế và các mặt... Ai chả biết điều đó. Vấn đề là trong thực tiễn vừa hợp tác vừa đấu tranh... Thực tiễn ấy như thế nào?... Có điều, Sen Đỏ chả muốn làm "vệ tinh" đâu nhỉ? Thắp, Sim Mua và Sóng có muốn làm "vệ tinh" cho tư sản đa quốc gia không? Vả lại, chúng mình có là cái cóc gì đâu mà đặt vấn đề ấy! Cứ như thể những ông trời bàn chuyện!

            - Chẳng lẽ kiến trúc sư, kĩ sư thế này lại làm các anh, các chị buôn bán vật liệu xây dựng thôi sao?! - Thắp cười gằn - Buôn bán vật liệu xây dựng cũng tốt, xem ra cũng sang, nhưng đâu rồi giấc mộng sáng tạo, nghiên cứu?!

            - "Càng chiến đấu, chúng ta càng lớn mạnh" mà... - Sóng lại nói, thành thật nhưng không đúng lúc - Phải cố thôi!

            - Thôi, làm việc đi các ông, nói nhiều quá! - Hãng cáu - Nói hay, làm dở, hoá ra hề mất! Thôi đừng chính trị một cách sống sít nữa! - Hãng lại cười xoà với Sóng.

 

 

 

26

 

 

 

            Phòng của Song Mây năm kia gồm có ba chị em, bè bạn, hai năm nay chỉ còn cô và Trắng Cát. Song Mây dạo này tuy ở đây nhưng nấu nướng, ăn cơm tại nhà chị Tre Trúc. Mới đó, Song Mây đã gần thi kì cuối năm thứ ba đại học, đã sống ở biệt thự Sen Trắng này gần ba mươi mốt tháng. Những bữa ăn ở nhà chị, những giấc ngủ ở phòng này, ngay cả những giờ ở trường, những buổi tối đi học thêm về vi tính, tiếng Anh, từ độ anh Mai Tự biền biệt bặt tăm tích bỗng trở nên buồn rầu, rồi dần dần chỉ là bổn phận. Sống và học tập như bổn phận kéo dài, không vui, cũng chẳng buồn nữa, đó đâu phải là sống. Song Mây hiểu mình chỉ tồn tại như một vật thể không sự sống. Trái tim cô gái Song Mây năm kia đỏ thắm là thế, hai năm rồi hoá thành ngọc đen, đá cuội. Bây giờ, trong ngực Song Mây là một viên đá cuội bằng nắm tay, trơ nhẵn.

            Nắng mùa mưa phương nam, sáng sớm, vẫn rực rỡ, tươi mát trên sân cầu lông sau toà nhà lớn của Sen Trắng. Ngồi ở hành lang phiá sau tòa nhà, nhìn ra, Song Mây thấy các bạn của mình hồn nhiên, tràn đầy sức sống. Nghị đang chơi với Gió, anh đang bị Gió áp đảo với số điểm tăng lên không dứt. Bạn bè đang hoan hô Gió ầm ĩ.

            Song Mây thấy đã ráo mồ hôi sau một ván cầu lông ban nãy, cô vào phòng lấy áo quần rồi đi lui phòng tắm nữ ở ngay phòng cuối của tòa nhà, phía trong bức vách cô mới tựa lưng.

            Tắm xong, Song Mây giặt luôn áo quần, đem phơi, lại vào phòng ở. Ngồi trước bàn học, cô nhìn ra sân có cụm tượng Sen Đỏ và vòi phun xòe ra như một cái cây bằng tia nước. Cây bằng tia nước lại trổ ra lá sen màu đỏ, hoa sen đỏ và hai cuốn sách cũng đỏ thắm. Đã bao lần Song Mây ước mình là một hạt chữ trên hai cuốn sách mở như đôi bồ câu thắm đỏ đang vỗ cánh kia. Hai năm nay Song Mây viết kịch bản phim và truyện ngắn, tiếp tục niềm đam mê từ thời tuổi nhỏ, tuy cô đang theo học khoa kinh tế. Cô vẫn nuôi ao ước sẽ biến những giọt nước mắt đau đớn, hối tiếc từ hai lần yêu thành kim cương, dù chỉ luyện thành một hạt nhỏ duy nhất. Cô hiểu anh Hãng, hai cuốn sách thắm đỏ như đôi bồ câu đỏ ấy toàn những con chữ lóng lánh kim cương. Đó là hai cuốn sách ghi công đức của những ai đã đóng góp cho nhân loại và Tổ quốc từ nghìn xưa đến nay, về mọi lĩnh vực, cả những công trình, chiến công của tập thể, của toàn dân tộc...

            Xem lại một truyện ngắn mới viết, Song Mây cảm thấy câu chữ của mình đang là cỏ rác. Cô hơi buồn nhưng không nản. Song Mây chợt nhìn vào khung kính dựng trên bàn học. Đó là bức tranh cô tự vẽ, từ độ anh Mai Tự đã trốn chạy khỏi tình yêu giữa anh và cô. Bức tranh bằng màu nước, cỡ một cuốn vỡ, nền màu lam đậm ngả đen. Đó là màu của hoàng hôn nắng tắt hay sáng tinh sương chưa hé nắng? Hình ảnh bốn trang giấy trắng bị gió lùa bay giữa nền trời lam đen ấy, với bố cục hơi xộc xệch, sao như thể ai vừa đánh rơi hoặc vứt chúng tung tóe trên nền đất đầy tro than. Một trang trắng tinh không chút hoen ố, dù chỉ một chấm bụi nhỏ. Một trang có vết nhọ đen. Một trang có một hạt tròn kim cương toả sáng. Một trang giấy trắng nữa lại có một vết nhọ đen bên một hạt nắng hay hạt sương được gọt từ kim cương sáng ngời. Bốn trang giấy trắng như từ một xấp giấy cùng loại, cỡ, nhưng không giống nhau về giá trị.

            Song Mây đã vẽ cách đây hai năm, đặt trong khung kính thường dùng để trưng bày ảnh. Hai năm trước, cô đã vẽ trong nỗi đau quằn quại của trái tim, trước lúc trái tim bị trơ đi. Bốn trang giấy! Nếu được chọn lựa lại số phận, Song Mây sẽ chọn lựa số phận nào - trang giấy nào? Bức tranh đơn sơ của Song Mây đã trả lời. Song Mây không muốn sự chọn lựa của mình là sự chọn lựa bệnh hoạn. Có điều, không thể có giả định cho quá khứ? Đã lỡ rồi, đã may mắn rồi, dù sao cũng không thể khác được. Không thể khác được, dù trót xấu, dù được tốt. Song Mây hiểu mình không cứu vãn được sự lầm lỡ tủi thẹn. Không còn tinh khôi trinh trắng. Không thể trinh nguyên trang giấy với hạt kim cương ngời sáng và vô giá. Song Mây hiểu mình là gì, trang giấy nào. Song Mây đang nỗ lực sáng tạo nên hạt kim cương để đặt cạnh vết nhơ đời mình. Đời mình lỡ hoen ố, chả lẽ cam đành chỉ hoen ố thôi sao?!

            Thuở mới lớn, Song Mây có thể tốt cơ mà! Trong chập chờn tối, sáng, Song Mây biết đâu là vực thẳm, đâu là đỉnh núi. Sao Song Mây đã tự để mình suýt sa chân xuống vực? Ồ, có thể tốt, đấy là giả định cho quá khứ. Có thể đặt ra giả định nhưng không thể thay đổi được cái đã một đi không trở lại. Rồi với anh Mai Tự nữa!

            Song Mây đã từ lâu lấy lại được sự bình tâm, nhưng đâu còn hồn nhiên, nhí nhảnh như thuở mới vào đại học, dẫu nét hồn nhiên, nhí nhảnh ấy đã úa bớt bởi chút tình yêu đương mộng tưởng năm cuối bậc trung học, chút yêu đương đã khiến Song Mây thi rớt một lần, để năm sau mới đỗ cùng lượt với em trai là Đất trong kì thi vào đại học ở thành phố này. Từ lâu, sau lần biền biệt dời nhà của anh Mai Tự, ở Song Mây, là sự bình tâm của một trái tim úa hẳn!

            Song Mây lại cắm cúi sửa chữa những trang bản thảo truyện ngắn. Học là chính, nhưng sáng tác không thể là phụ được, có điều cô phải giành giựt từng chút thời gian rỗi để viết lách.

            Trên tay Song Mây là truyện về một cô gái điếm. Cô gái ăn sương từ năm mười sáu tuổi đến tuổi ba mươi hai, vẫn buồn bã, vui vẻ trơ tráo đến bi thảm trong tủi nhục đời mình. Song Mây rùng mình kinh sợ và tự hỏi, bằng cách nào cô gái ấy vẫn sống bình thường, rất đỗi bình thường, trong hoàn cảnh của Thúy Kiều, nhưng còn bạc phận hơn cả Kiều, vì cô gái ấy không chút tài hoa, chỉ xinh đẹp ở một mức không nổi trội. Song Mây hư cấu gương mặt cô gái ăn sương nọ từ nhiều nét mặt lắp ghép lại. Theo mạch truyện, cô đem bốn trang giấy trắng của bức tranh nhỏ trên bàn viết đặt vào tay một Từ Hải - khách làng chơi. Từ Hải trong truyện ngắn chỉ là anh bán vé số nào đó tình cờ Song Mây gặp trong một quán ăn lúc cùng bạn bè ghé vào trước giờ học buổi chiều. Anh Từ Hải này đã tặng cô gái ăn sương tàn tạ Thúy Kiều kia bức tranh ấy. Cô gái ấy treo trên vách tôn xóm trọ rách nát... Tuy hư cấu hoàn toàn, nhưng Song Mây đã khóc cười với hình tượng!

            Truyện ấy Ô Châu, Trắng Cát, Hoài Hương đều đã đọc. Ba bạn gái của Song Mây bảo hãy xé bỏ. Tai họa sẽ đến từ truyện ngắn này! Người nào khác sẽ diễn dịch Song Mây chính là cô gái ăn sương ấy! Bởi bốn trang giấy trong tranh kia đang ngày ngày nhìn vào bốn cô sinh viên ở  Sen Trắng này! Lại còn bảo, bức tranh lồng kính ấy cũng nên xé bỏ nốt, bởi có người sẽ nghĩ đó là hình tượng của Ô Châu, Hoài Hương, Song Mây và Trắng Cát!

            - Ai dám nghĩ lếu láo vậy? - Song Mây nói.

            - Mình giả thử suy diễn, thấy có lí - Ô Châu đáp.

            - Có lí sao được khi hoàn toàn sai với  thực tế! - Song Mây hơi bực mình  - Người ta chẳng hiểu gì về lao động viết văn cả, nếu suy diễn bậy. Mọi chi tiết, mọi câu văn đều có văn cảnh cụ thể. Song Mây làm gái điếm bao giờ! Đã có ai trong bốn chúng mình có công trình nghiên cứu, sáng tạo nào đáng gọi là kim cương! Song Mây đến năm nay mới hai mươi mốt tuổi, sinh viên năm thứ ba, làm gì có chuyện bỏ nhà đi ăn sương từ thuở mười sáu tuổi ! - Song Mây hoảng hốt, đỏ rần mặt, toát mồ hôi đính chính.

            - Song Mây đừng giết chùm cả bốn chúng mình - Trắng Cát nói, hơi gay gắt - Biết ai trinh nguyên, biết ai hoen ố! Người ta có thể suy diễn thật! Rất tai họa!

            - Thây mặc sự võ đoán u mê của họ - Song Mây nói trong tiếng thở hắt và thoáng chột dạ.

            - Không lâu nữa mình về Mỹ rồi, chả sợ! Có điều, mình chợt ngộ ra ý nghĩa của bức tranh trên bàn Song Mây. Nếu có phép mầu nào đó, hãy tinh khôi, trinh nguyên lại chính mình. Chính mình là tờ giấy bẩn kia, cả vết bẩn bên viên kim cương trên trang giấy bên cạnh. Ba bạn hoàn toàn trong sáng, trinh nguyên và sống có sáng tạo - Hoài Hương cười buồn cuối câu nói, với nụ cười hối tiếc rất người.

            Song Mây chỉ muốn khóc:

            - Hoàn toàn vớ vẩn! Đây chỉ là bốn trường hợp. Mình hình tượng hoá bốn điển hình của bốn loại số phận nói chung. Chỉ vậy thôi. Đó chỉ là biểu trưng, hoàn toàn có tính chất tượng trưng. Mình muốn trình bày bốn điển hình biểu trưng về số phận để chọn lựa. Trong đó, đã có sự đánh giá, xếp loại theo thứ bậc. Và chẳng ám chỉ ai cả. Còn cô gái ăn sương trong truyện là hình tượng được xây dựng từ một mẩu tin trên báo với nhiều chi tiết hư cấu. Mình đã thêm thắt, lắp ghép vào đó những cảm nhận riêng về xã hội để thành một truyện ngắn, tuy mẩu tin vỏn vẹn chỉ ba mươi chữ, vốn khô khốc, khách quan rất thông tấn, với ý phê phán, cảnh báo theo yêu cầu của báo chí. Suy diễn vậy, còn ai viết, ai vẽ nữa! Người ta chẳng biết "sai một li, đi một dặm" sao, nữa là hư cấu nghệ thuật, toàn lắp ghép, tưởng tượng!

            Song Mây bật khóc, vùi mặt vào gối bông, nức nở. Song Mây cảm thấy thương niềm hối hận của Hoài Hương, thương cả chính bản thân. Cô hiểu Ô Châu, Trắng Cát  phẫn nộ là phải. Nhưng đó vẫn là sự phẫn nộ từ suy diễn, ngộ nhận.

            Bây giờ, trước khung cửa sổ bốn lá kép mở ra sân Sen Đỏ, Song Mây đọc lại, vẫn còn phân vân trong ý định sửa chữa, thay đổi một số chi tiết truyện. Đúng là nhà văn, hoạ sĩ và những người sáng tác khác đã bị mất tự do, chịu hàm oan từ nghìn xưa đến nay bởi các suy diễn xem ra có lí ấy. Song Mây giật mình, nhớ sự dẫn dắt của vô thức trong buổi tối ở quán cà phê năm kia. Lúc này, cô ngẫm lại. Và lại giật mình bởi sự suy diễn của bạn bè cùng nhà Sen Trắng. Có chút nào là kinh nghiệm về sự nổi loạn tư tưởng, tình cảm của mình trong truyện này không? Chỉ là một giọt nước mắt của Song Mây trong biển tủi nhục của hình tượng cô gái ăn sương, ở truyện ngắn chính cô đã viết.

            Song Mây xấu hổ muốn khóc, tự hỏi, sao mình không đưa chi tiết chiếc nhẫn vàng của anh Mai Tự vào truyện nào cả. Đó là chiếc nhẫn tròn như con số không!

            Năm kia, trong căn nhà của người bạn anh Mai Tự, vắng hoe, không một ai ở nhà, một nụ hôn dài trong say đắm đã nồng nàn trên môi Song Mây. Sau nụ hôn, cả anh Mai Tự và cả Song Mây đều đã không thể kìm chế. Bàng hoàng, hoảng hốt, hơi trơ trẽn cuối cuộc cháy bỏng giữa hai người! Ngay tức khắc, anh Mai Tự đã đóng lại cửa nhà, chở cô đến một tiệm vàng ngoài phố. Người chủ tiệm cứ ngỡ họ mua nhẫn cưới, lại hiểu ra họ bán! Anh Mai Tự chở cái xác xinh đẹp Song Mây đến bệnh viện như bị ma đuổi. Ngay tức khắc, vị bác sĩ hiểu chuyện. Song Mây tủi nhục nhưng cố chịu đựng. Cảm giác nồng nàn, cháy bỏng mới cách đó nửa giờ đã bị thay bằng sự đau xót, tê dại ở bệnh viện. Cả                  Song Mây lẫn anh Mai Tự đã thoát tội "giết người", một sinh linh nếu chậm trễ sẽ hình thành, hình thành như một nạn nhân của tội lỗi họ cùng nhau đồng lõa. May mắn thay, họ tránh được tội ác do tội lỗi của họ.

            Nỗi tủi hổ chắc hẳn đến suốt đời Song Mây vẫn không quên được. Chiếc nhẫn vàng rút ra từ ngón tay anh Mai Tự tròn rờn rợn một con số không. Bây giờ, Song Mây vẫn còn nguyên cảm giác của cái chết khi vẫn thở, vẫn lên xe gắn máy, vẫn bước vào tiệm vàng, vẫn lê chân trên hành lang,  và rồi trong phòng bệnh viện. Song Mây rùng mình, trào nước mắt kinh hoảng. Cũng từ đó, cô sợ hãi bất kì chiếc nhẫn nào.

            Song Mây tự hỏi, sau này hẳn cô sẽ chẳng bao giờ đeo nhẫn nữa chăng? Có đủ can đảm để sống lại cảm giác tủi hổ, hãi hùng ấy!? Làm sao Song Mây đủ can đảm để viết lại thành truyện hay kịch bản phim chi tiết ấy! Song Mây đã có một vài tháng trót sống trơ tráo, sống với nỗi buồn trơ, tê điếng, suýt nổi loạn, phá phách chính cuộc đời mình. Cô đã kịp ghìm lại sự sự thác loạn. Tình yêu đương mộng tưởng là đám mây đen cao nguyên đã bay đi, nhưng vết tủi hận với anh Mai Tự vẫn hoen ố, ghê sợ mãi trong tâm hồn Song Mây đến suốt đời.

            Sáng chủ nhật này, Song Mây một lần nữa buồn trào nước mắt. Nắng ngoài sân Sen Đỏ tươi vàng rực rỡ đến vô tâm. Trong biệt thự Sen Trắng này, cô hiểu chính mình là đoá sen lấm bùn. Một đoá sen tự vùi xuống bùn tanh!

            Nắng từ thềm tòa nhà đã xuống khỏi bậc cấp. Khá trưa rồi. Song Mây nghe những tiếng cổ vũ, reo hò từ sân cầu lông phía sau vọng tới, rõ nhất vẫn là tiếng của Cơ Nguyên và Y Cao - hai đứa con của anh Cơ Dân.

            Song Mây chợt thấy bức tranh đơn sơ của mình với bốn biểu trưng, ngầm ý đánh giá, xếp loại, xem ra hơi vớ vẩn, nhưng có ý nghĩa giáo huấn cho bản thân hơn bất kì kinh sách, thánh nhân nào. Còn Thượng đế, chỉ là đứa trẻ, đứa "trẻ tạo hoá đành hanh quá ngán, chết đuối người trên cạn mà chơi", nói như nhà thơ lớn, giỏi cả nghệ thuật kiến trúc Nguyễn Gia Thiều! Ngài hóa nhi ấy chỉ thích đưa đẩy con người vào tội lỗi và tội ác để cất tiếng cười khoái trá, có giáo huấn ai bao giờ! Hay Thượng đế là Ông Trời già, thường thả tóc trắng vào mỗi tiết thu, mãi mãi im lìm - ''Thiên hà ngôn tai'' (''Trời có nói gì đâu!''), như nhà giáo vĩ đại Khổng Tử đã bảo?

 

 

 

27

 

 

 

            Cuối mùa hạ mưa ở thành phố, biệt thự Sen Trắng đã dần đông đủ trở lại. Các sinh viên trọ học, hầu hết đã vào năm thứ tư của bậc đại học. Hoàng và Hoài Hương, năm thứ hai. Nghị đã tốt nghiệp, lại may mắn xin được việc làm ở một xí nghiệp cơ khí. Nghị đi làm đã được hai tháng, tỏ ra yêu nhà máy đến quên ăn quên ngủ. Anh không ngớt khen ngợi vị giám đốc được phong hai lần danh hiệu Anh hùng Lao động và tập thể kĩ sư nơi anh làm việc.

            Đã hơn bảy giờ rưỡi tối. Tối nay là buổi tối thứ bảy, Nghị lại đến biệt thự Sen Trắng để thăm ông bà Hương Chữ - Lụa Hà, vợ chồng anh Cơ Dân - Y Sông và gia đình nhỏ của Hãng - Tre Trúc, cùng bạn bè trọ học cũ. Từ Thủ Đức, anh đi xe gắn máy của cơ quan về Sen Trắng này.

            Đang chơi cờ tướng với Hãng, Nghị bảo:

            - Chị Tre Trúc cái gì cũng Việt hoá cả. Cũng hay! Bộ cờ tướng này mấy trăm, mấy ngàn năm rồi vẫn để nguyên chữ Hán. Lạ thật. Cũng xin chúc mừng chị Tre Trúc về cuốn sách vừa được xuất bản.

            Tre Trúc mới dắt Cây Bàng tập đi chập chững từ phòng ngủ ra, mỉm cười với lời khen, bày tỏ niềm vui cũng là lời chào của Nghị.           

            - Gặp nhau là đánh cờ liền sao? Coi bộ ở xí nghiệp cơ khí không ai so tài với Nghị chắc ? - Tre Trúc lại mỉm cười.

            - Thua! Nghị dạo này cao cờ quá - Hãng bị chiếu tướng, đang bí nước.

             - Đâu dám! - Nghị đáp, cười thích chí - Lâu nay vẫn giải trí môn này với anh em trên xí nghiệp. Hồi ở đây, thua anh Hãng hoài, giờ mới thắng đấy!

            Một tiếng chuông cắt ngang tiếng cười của Nghị. Hãng vội ra mở cổng. Sau cơn mưa lớn hồi chiều, đất và đá lát còn ướt nước. Dưới ánh đèn ở cổng, Hãng rất đỗi ngạc nhiên.

            Tre Trúc cũng không ngờ Hàn kiều Mỹ Giêm Kim và cô Hương Tràm, cùng một người Úc đến thăm. Hãng chào rồi bồng con lên toà nhà lớn gửi cho Song Mây. Anh vội xuống tiếp khách với vợ.

            - Tám giờ rưỡi tối rồi. Chúng tôi đến thăm hơi muộn, và xin lỗi là đã không điện thoại trước - ông Giêm Kim nói bằng tiếng Việt, rất chậm - Xin giới thiệu, đây là ông Bơ-rao (Brown), người Úc, còn đây là... ?

            Khách và người nhà gật đầu chào nhau sau câu giới thiệu về Nghị của Hãng.

            - Cô Tre Trúc ạ, chúng tôi đến chúc mừng cô cuốn sách mới xuất bản - cô Hương Tràm nói, sau một lúc chuyện trò.

            - Xin cảm ơn tất cả. Rất tiếc ở biệt thự Sen Trắng này có nội quy không được uống rượu, trừ những ngày giỗ tết. Xin thông cảm cho. Xin mời chúng ta dùng trà.

            Nâng tách trà trên tay, ông Kim cười, lại nói bằng tiếng Anh.

            - Rất may là dịp chúng tôi sắp về Mỹ, cô Tre Trúc lại xuất bản sách trước. Tôi đã nghe nhà tôi, cô Hương Tràm, cho biết đã có vài bài báo tán thưởng, đồng thời ít nhiều có nhận định với ý phê phán. Nhưng tôi, cả ông Bơ-rao, đều thấy nhiều người, Hàn Quốc và Úc lẫn Mỹ, giỏi tiếng Việt rất thích. Ông Bơ-rao là một giáo sư Úc về Việt Nam học - cô Hương Tràm dịch lại.

            Tre Trúc thật không ngờ. Cô viết cuốn sách "Những nhu cầu cơ bản của con người và bản lĩnh văn hoá Việt Nam" trong năm tháng. Một người làm sách liên kết với nhà xuất bản để in, nhuận bút trả cho cô chỉ là một trăm bản in! Gần hai trăm trang sách viết từ luận văn tốt nghiệp, từ nghiên cứu lễ cưới hỏi, và từ những kiến giải về các khiá cạnh văn hoá khác sau này, cô không ngờ lại được xuất bản. Mới đó thôi, đến ông Bơ-rao, ông Giêm Kim cũng biết.

            - Chúng tôi đề xuất rằng, mong cô Tre Trúc cho phép chúng tôi dịch ra tiếng Hàn Quốc, tiếng Anh để xuất bản ở hai nước của chúng tôi, cả ở Mỹ nữa. Chúng tôi hi vọng Việt kiều Mỹ đón nhận - ông Bơ-rao nói tiếng Việt bằng giọng Huế khá chuẩn.

            Tre Trúc xúc động đến bối rối. Hãng đỡ lời giúp vợ. Sau đó họ đã kí hợp đồng. Tre Trúc run lên trên nét kí tên. Xấp tiền một ngàn đô la Mỹ được đặt trên bàn nước. Tre Trúc tới bàn viết, lấy ba cuốn, kí tặng giáo sư Bơ-rao, hai vợ chồng ông Kim và Nghị.

            Biết đã tối, khách xin phép về.

            Ở cổng, cô Hương Tràm đi chậm lại, cầm tay Tre Trúc:

            - Rất tiếc, tôi và Tre Trúc không làm việc với nhau lâu. Tôi cũng sắp cùng Giêm Kim về Mỹ hẳn. Thế là phải đất khách quê người! Bây giờ, ở Việt Nam, tôi cũng lỡ là "khách", qua Mỹ, cũng "khách". Cái số phải làm "khách" suốt đời, kể cũng lạ! Thôi, chúc khỏe, hạnh phúc và viết được nhiều sách, Tre Trúc nhé - cô Hương Tràm nhìn thật kĩ Tre Trúc, hơi rưng rưng khóe mắt - Dẫu sao, tôi vẫn là người Việt...

            - Mong ông Giêm và cô hạnh phúc. Em rất xúc động, quá bất ngờ. Có bao giờ em nghĩ cô không là người Việt!

            Nghị bên vợ chồng Tre Trúc, nhìn theo ba vị khách, đến khi chiếc xe hơi chở họ lăn bánh, ra khỏi hẻm. Cả ba người vốn cùng nhà Sen Trắng vẫn còn đứng lại ở cổng trong nỗi ngạc nhiên thú vị, và thoáng chút bùi ngùi, mặc dù xe hơi đã khuất, khách đã xa.

            Hãng sực nhớ đến Gion, Thủy Lê Thị, một người Úc (thật ra là một gián điệp CIA. của Mỹ) và một Việt kiều Úc, hai kẻ đã dã tâm tác động Vũ Hồng Ngà để đẩy cả anh lẫn Thắp đến chỗ cùng đường, nhục nhã. Đã vài lần Hãng đấu tranh với Gion, Thủy để biết được những nanh nọc bọc đường của chúng. Hãng cũng đã biết Giêm Kim - Hương Tràm. Nhưng lúc này, anh vẫn ao ước ai rồi cũng sẽ tốt như giáo sư Bơ-rao, ai cũng hồi tâm và tình nghĩa như Giêm Kim - Hương Tràm. Không, Hãng nghĩ, thật không nên hiểu mọi người Úc, mọi Việt kiều đều là Gion, Thủy Lê Thị. Vẫn có những tấm lòng... Người tốt bao giờ cũng là số đông, số đông áp đảo.

            Đóng cổng, bước vào nhà, đã thấy Song Mây bồng Cây Bàng chạy xuống ở sau lưng, rồi tiếp đó là Trắng Cát.

            Lần đầu tiên trong đời, Tre Trúc nhận được một lúc từ công sức lao động của mình một số tiền lớn đến vậy. Thật ra cũng chả là bao, nếu một ngàn đô này ở đất Mỹ! Khoảng mười ba triệu đồng, ở Việt Nam, đã là một món nhuận bút tác quyền khá lớn. Trong Tre Trúc, vẫn có cảm tưởng lạ kì là tiền trên trời rơi xuống, mặc dù chính từ lao động trí tuệ của cô mà có!

            - Ông giáo sư Úc và ông Hàn kiều Mỹ này chơi đẹp đó chứ. Nếu là kẻ khác, dám họ "im lặng" dịch ra, phát hành thì sao - Nghị chúc vui và nói.

            - Xin cô Tre Trúc cho biết cảm tưởng? - Trắng Cát ra bộ là phóng viên đang phỏng vấn, rồi cười thật giòn.

            - Cái chính là sách mình viết được phát hành rộng, ra khỏi cả Việt Nam, lại được Việt kiều đọc - Tre Trúc cười - Đó là niềm vui lớn nhất. Bộ Trắng Cát định chuyển khoa sao?

            Lát sau, Nghị cũng lên xe gắn máy về lại xí nghiệp cơ khí của anh ở Thủ Đức. Một lúc, anh Cơ Dân lại lững thững bước qua, chuyện trò với vợ chồng Hãng và hai người bạn trẻ. Hơn ai hết, anh Cơ Dân hiểu niềm vui được phổ biến tác phẩm của người sáng tạo, gồm cả sáng tạo trong công việc nghiên cứu.

            - Không hiểu số phận tôi thế nào, vì đã may mắn lấy một thiên tài làm vợ! - Hãng đùa.

            Những tiếng cười vang lên giòn giã, vui vẻ.

            - Cây Bàng! Sao cưng cưng không giống hệt mẹ, lại giống y boong ba làm chi hở cưng! - Hãng lại đùa.

            - Ba là chiến sĩ ở ngành "mũi nhọn" trong kĩ thuật chứ đùa sao! - Song Mây đỡ lời, mỉm cười, đã thoáng vui trở lại.

            Tre Trúc vui đến ngẩn ngơ, bàng hoàng. Cô vẫn dè dặt:

            - Em vẫn không ngờ ông Giêm Kim, ông Bơ-rao lại đồng cảm với cuốn sách của em. Em nghĩ họ phẫn nộ chứ. Có điều, nghĩ lại, em xoá đi ý tưởng họ chỉ làm ra vẻ thế thôi, bởi một ngàn đô với họ có nghĩa lí gì. Ở các nước tư bản, ở đâu cũng thế, vẫn có những trí thức độc lập tư tưởng. Nước Mỹ từng có Đảng Cộng Sản, từng có Giắc Lơn-đơn (Jack London), có Gian Phon-đa (Jane Fonda), Mo-rít-sơn (Morisson), nay ở Trung tâm Gioi-nơ (Joinner), có các cựu chiến binh từng phản chiến, ủng hộ Việt Nam chống Mỹ.

            - Đúng, họ vẫn đấu tranh cho nhân quyền, để họ được tự do thể hiện chính kiến (chủ kiến về chính trị), tự do tư tưởng... - anh Cơ Dân nói với vẻ xúc động - "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Phải độc lập hơn, tự do hơn nữa - anh Cơ Dân lại nói - Tre Trúc à, nhờ cuốn sách của em, anh đã phổ nhạc thành công bài thơ khá dài về cái đình làng, bài "Mặc niệm" của bạn anh. Bài đó xuất bản lâu rồi, viết về một miền quê trong tâm thức, một miền quê của những miền quê, cũng không phải về cái đình cụ thể nào. Anh rất thích, cứ phổ hoài nhưng chưa đạt. Đọc sách của Tre Trúc xong, anh phổ liền một hơi thành một trường ca nhạc, đạt ngay. Hôm nào anh sẽ hát, mong được góp ý nhé.

            Một tiếng chuông chùa trên sân thượng ngân vang. Anh Cơ Dân đứng dậy :

            - Để anh ra mở cổng cho. Có lẽ Hoàng và Hoài Hương đã về. Anh về nhà anh luôn, chín rưỡi rồi. Chúc vui nhé.

            Hoài Hương xuất hiện khi cánh cửa sắt mở ra, bánh xe dưới cánh cửa lăn trên đường ray vòng cung.

            - Trời đất, dám diện cả áo tứ thân toàn một sắc hồng đi phố sao! - anh Cơ Dân nhìn chăm chăm với vẻ đùa vui - Quá trời đẹp! Nhà Sen Trắng này sao đậm đà dân tộc tính đến thế! Xin "kính" mừng nghe Hoài Hương.

            Hoài Hương cười thật tươi tắn, tiếng cười giòn tan:

            - Cổ kính thế, mà quá thời trang hiện đại!

            Anh Cơ Dân mỉm cười nhìn theo Hoàng và Hoài Hương. Hoài Hương chợt đứng lại, quay mặt ra phía anh Cơ Dân:

            - Cho em gửi lời cảm ơn chị Y Sông nhé. Đúng là nhà thời trang lớn, may quá đẹp. Đúng là nghệ sĩ may mặc!

            Anh Cơ Dân cũng chỉ mỉm cười thú vị. Quả là cô sinh viên Việt kiều Mỹ này đã thay đổi nhiều, và khá dễ thay đổi. Anh sợ rằng Hoài Hương chỉ thích lạ mắt, chịu mới mẻ một cách táo bạo, ngổ ngáo, tinh nghịch thế thôi. Bước vào nhà, anh vừa đi vừa mong cả nước mình đều mặc áo tứ thân, tất nhiên là dành cho phái nữ, như Tre Trúc đã viết trong sách. Các cô gái sẽ mới mẻ và cổ kính như Hoài Hương. Anh cũng mong tính dân tộc không chỉ ở trái tim hay chỉ ở chiếc áo. Bên trong lẫn bên ngoài, tâm hồn lẫn trang phục, đều rất Việt Nam! Anh Cơ Dân lại mỉm cười hi vọng. Anh chợt nhớ mấy năm nay, để dọn cửa hiệu may mặc, phải chịu tiền thuê mặt bằng khá cao, còn cách may mặc đã chạy theo thời trang, đẹp có, lố lăng kinh dị có, những kiểu cách gây dị ứng cho chị Y Sông, và áo quần may sẵn lại tràn lan, khiến mức thu nhập của vợ anh giảm sút... Anh Cơ Dân muốn tạm quên đi những khó khăn về mức sống.

 

 

 

28

 

 

 

            Vào nhà, anh lấy ống sáo, ra hành lang ngồi thổi một khúc nhạc của mình. Anh biết tiếng sáo giữa khuya khoắt, nửa đêm về sáng, cũng không làm ai giật mình, mất ngủ. Lúc này, chắc mới hơn chín giờ rưỡi tối. Bài "Mặc niệm", một bản nhạc khá dài, với tiết tấu, giai điệu biến hoá, linh hoạt như một liên khúc (các ca khúc ngắn nối liền nhau), nhất quán nhưng không đơn điệu. Anh Cơ Dân đã tiếp nhận từ nhạc lễ mỗi dịp cúng tế, lễ hội ở đình làng rồi nâng cao, cách tân, với những nét hiện đại. Anh hình dung nhạc và lễ ở đình làng như thể đã được chế định lại. Theo tiếng sáo, một đình làng nghìn xưa bỗng mới mẻ và cổ kính, như lời thơ, như mơ ước da diết về lại với mạch tâm linh - lịch sử rất cội nguồn, với chút lòng hướng tới nghìn sau, trong tâm khảm.

                       

                        MẶC NIỆM

                        trong tôi có một miền quê

                        đôi khi buồn quá tôi về trong tôi

 

                        bao nhiêu vỡ nát rối bời

                        thiêng liêng quốc túy vẫn ngôi đình làng

                        nến lung linh khói trầm nhang

                        nghe lòng ấm lại bốn ngàn năm xưa

                       

                          đất trời buốt bỏng nắng mưa

                        trái tim thanh lọc nhịp mùa nguyên sơ

 

                        chiêng rung trống vọng bóng cờ

                        trăm con chim Lạc, giọng hò trăm nơi

                        mẹ Tiên yêu núi biếc ngời

                        cùng cha Rồng hát chung lời sóng vang

 

                        đông

                        tây

                        khúc xạ

                        hòa tan

                        tan vào vũ trụ mênh mang mãi còn

 

                        mở trường ẩn giữa làng thôn

                        sớ dâng, kẻ sĩ nhớ ơn người thầy

                        và ai thấu nỗi đắng cay

                        giả lười, sách thuốc đọng dày tình dân (17)

 

                        bâng khuâng...

                                    xa khuất, suối ngân

                        lắng trong heo hút tiếng chân không mòn

 

                        quên thù cha vì nước non

                        vung gươm, truyền hịch vạn hồn bừng nghe

                        và ai thắp lửa hội thề

                        án oan tưới máu...

                                    bia đề, rưng rưng... (17)

                       

                        thây phơi, đàn nhị nghẹn chùng

                        vô danh câu hát, mung lung hương đồng

 

                        sân đình lặng nhớ cha ông

                        thuở nào mở đất dắt bồng cháu con

                        hoang vu chí ngợp vai sờn

                        ngoảnh về cố quận hoàng hôn cháy lòng

                       

                        nao nao diệu vợi pháo hồng

                        bồi hồi trăng ngát đèn lồng lễ vui

 

                        ngấm bao chát xót ngọt bùi

                        ngàn xưa reo múa ngậm ngùi ngàn xưa

                        mương kênh rửa mặn thau chua

                        ngàn sau điện sáng trĩu mùa ngàn sau

 

                        còn dây tóc chỏm khoe màu

                        áo dài khăn đóng bạc đầu ô đen

 

                        vẫn còn đây làm sao quên

                        ước mơ nẩy lộc đẹp thêm một thời

                        gốc bàng cổ thụ khô rồi

                        bây giờ sống lại cho đời, vạn năm

 

                        trong tôi, khuya một, đêm rằm

                        ngát xưa hương tỏa hướng tâm về nguồn

 

                        bao ngôi đình quá thân thương

                        nơi tôi tìm đến dọc đường xa quê

                        trái tim gọi thức cơn mê...

                        hồn thiêng đất nước lắng nghe chút lòng...

 

            Lễ hội, giao cảm tâm linh, như một khiá cạnh cốt lõi của văn hoá, sự nối mạch văn hóa. Trong sinh hoạt thường ngày, thế giới, với các phương tiện giao thông, viễn thông, như bị thu nhỏ lại. Một tiếng khóc, một tiếng nấc ở Nam Tư, tận Việt Nam đã nghe, đã hiểu. Loài người có xu hướng y hệt nhau về nếp sống, nếp nghĩ và nếp làm - nhất thể hóa, hòa tan vào nhau làm một trên mọi phương diện. Có phải xu hướng ấy là đúng đắn? Liệu sẽ dẫn đến đâu? Xu hướng ngược lại: bảo vệ bản sắc văn hóa nhân tộc và dân tộc, trong sự hội nhập vào quốc tế. Liệu có phải là một phản ứng cuối cùng, cái lóe lên trước khi phụt tắt của chủ nghĩa dân tộc và nhân tộc?(!) Anh Cơ Dân đã có ba lần băn khoăn, thao thức ở ba thời điểm : tuổi mới lớn với văn hóa Mỹ, tuổi hai mươi với văn hóa xã hội chủ nghĩa, và thời điểm này, thời Mở cửa.

            Cầm ống sáo trên tay, tựa lưng vào cột hành lang, ngồi trên thành lan can ven thềm, anh Cơ Dân im lặng nghĩ ngợi. Không còn băn khoăn, thao thức, trăn trở nữa, có điều đôi khi phải cần ngẫm lại chính những gì đọng lại, làm nên bản lĩnh sống trong mình. Bản lĩnh ấy cũng hao hụt,  phôi pha, nếu bỏ mặc phần tâm thức nguồn cội trong mình cho quên lãng, không tự trau dồi thêm!

            Bài thơ Mặc niệm của bạn, anh Cơ Dân đồng cảm với cả lòng mình. Anh đã phổ nhạc, những mong thành nhạc tế lễ. Bài thơ ấy cũng đã trở nên máu thịt anh. Sao tiếng sáo vừa rồi ngỡ vang tận nghìn xưa lại vọng về anh những băn khoăn cũ... Trong cuốn sách của mình, Tre Trúc bảo, bản sắc nhân tộc nào cũng gặp nhau ở tính phổ quát, ấy là tính con người, tính loài người. Anh Cơ Dân thấy rất đúng là, các nền bản sắc văn hoá chỉ gồm các biểu hiện khác nhau của tính phổ quát ấy. Có điều, theo cách nói của ai đó, nếu mọi loài hoa đều là cúc vạn thọ, thì cuộc sống quá đơn điệu, buồn tẻ. Thế giới Tre Trúc mơ ước cũng không mới gì, ấy là một vườn hoa với ngàn luống hoa khác màu, khác loại và đều đẹp.

            Bản sắc văn hóa có phải là sản phẩm của quá trình cách bức dài lâu về địa bàn cư trú, thiếu phương tiện giao thông, viễn thông để trao đổi trong giao lưu? Nhân tộc, dân tộc cũng là sự khu biệt hóa do sự cách bức địa dư đó? Nhân tộc, dân tộc và bản sắc văn hóa cùng song song hình thành như xác với hồn theo sự chia biệt địa bàn sinh sống và quốc gia?

            Bản sắc văn hóa nào có tính hợp lí, tính phổ quát nhất? Các hình thái chính trị phủ định nhau, thay thế nhau, sao tôn giáo vẫn bền vững? Đến bao giờ khoa học thực nghiệm và lí tưởng nhân văn mới sẽ soi sáng mọi ngõ ngách của tâm thức con người? Tôn giáo có tính bản địa rất nặng, rất đậm, sao lan truyền khắp thế giới? Cái giáo đường, cái chùa, cái đình, cái nào mang tính phổ quát nhất?

            Anh Cơ Dân thấy Tre Trúc nói rất đúng, cái đình nhân loại nhất, phổ quát nhất nhưng cũng nhân tộc, dân tộc nhất. Đó là biểu hiện cụ thể, tập trung của Đạo Hiếu Nghĩa, thờ cúng tổ tiên,   những người có công, sức mạnh nhân dân, nhân loại, trời đất. Tre Trúc thử giả định có cái đình ở Nga, ở Mỹ. Người Nga sẽ thờ cúng tổ tiên họ, sức mạnh nhân dân họ, danh nhân của họ cùng nhân loại, trời đất. Người Mỹ cũng thế, cũng thờ cúng tổ tiên lập quốc, danh nhân của họ và nhân loại, đất trời. Người Mỹ chắc chắn không thể không ghi công, nhớ ơn sức mạnh làm nên lịch sử nước Mỹ của nhân dân Mỹ - lịch sử được nhìn nhận ở chiều sâu, chứ không phải ở các sự kiện nhất thời do các tập đoàn cầm quyền gây ra. Người nước nào cũng hiếu nghĩa với dân tộc họ, với nhân loại, với hành tinh trái đất và cả vũ trụ.

            Khẳng định cái đình là phủ định cái giáo đường, cái chùa (đặc Do Thái và đặc Ấn!)? Đâu dám vậy! Mỗi người có trí tuệ để chọn lựa riêng!

            Anh Cơ Dân chợt bồi hồi xúc động. Bất giác, hơn lúc nào hết, anh thấy rõ đáp số cho vấn nạn tâm linh, dân tộc, nhân loại. Nhân loại hóa và dân tộc hóa. Nhất thể hóa và bản sắc hóa. Anh nhủ thầm, đúng vậy, đáp số đã ở trong anh từ bao giờ, nhưng đến lúc này, trở nên sáng tỏ, rành mạch như một thức ngộ lạ lùng, mầu nhiệm. Cái mầu nhiệm của đời, của tâm tư con người, sau rất nhiều băn khoăn, suy tư, trăn trở, học hỏi, nghiền ngẫm, chợt lóe sáng!

            Tre Trúc, diệu kì của bình thường! Anh Cơ Dân mỉm cười. Cô sinh viên Tre Trúc cách đây ba năm, Tre Trúc bây giờ, vẫn rau thịt, tương cà, đã sinh ra một chú bé Cây Bàng, viết và xuất bản được một cuốn sách sáng giá, ngỡ chẳng có gì thay đổi... Anh mừng thầm cho Hãng. Anh nhớ Hãng đã nói với Tre Trúc một hôm có mặt anh : "Em đã viết sách, anh phải lao vào thực tiễn, phải là người hành động, là "chiến sĩ tiền tiêu"! Đất nước rất cần những con người hành động, lao vào thực tiễn!". Anh Cơ Dân lại mỉm cười. Trong ngôn ngữ của Hãng thi thoảng có những từ ngữ của thời đi bộ đội... Hãng với Tre Trúc đang ở tuổi hai mươi. Tuổi hai mươi của anh và vợ cũng khá xa rồi...

            Tiếng động sau lưng khiến anh Cơ Dân quay mặt lại.

            - Ba, mẹ nói khuya rồi, ba vào ngủ - Cơ Nguyên ra đứng bên anh, thưa khẽ.

            Anh Cơ Dân vuốt tóc con trai, cùng con vào nhà. Anh lại bất giác huýt sáo theo ca từ:

 

                        ... bao nhiêu vỡ nát rối bời

                        thiêng liêng quốc túy vẫn ngôi đình làng...

 

            Anh thầm nghĩ, lúc treo ống sáo lên vách đối diện với bàn thờ tổ tiên trên tủ: Ngôi đình làng từ thời công xã xa xưa đến giờ, đã bốn nghìn năm... Yằ tưởng ấy theo anh vào giấc ngủ.

            Giấc ngủ đến với anh Cơ Dân trong niềm bồi hồi, xao xuyến. Ca từ, giai điệu nhạc tế lễ rất cổ kính, rất mới mẻ đưa giấc mơ anh về nghìn xưa, bay tới nghìn sau. Nửa đêm về sáng, anh chợt được tiếng sáo trong tâm can đánh thức:

                        ... đông, tây

                        KHÚC XẠ

                        hòa tan

                        tan vào vũ trụ mênh mang mãi còn...

 

            Anh Cơ Dân cơ hồ hiểu tận sâu thẳm những gì làm nên bản lĩnh mỗi người và của chính anh, một cách không còn gọi là hiểu nữa, vì hơn cả hiểu ở mức độ của nó. Bản sắc dân tộc không chỉ thuần khởi nguồn từ cộng đồng các nhân tộc (Mẹ Núi và Cha Biển). Đó là tòa lâu đài kim cương của cốt cách văn hóa Việt Nam, bao hàm nhuần nhị cả tổng hòa văn hóa Đông và Tây với diễn trình khúc xạ, hòa tan vào nhau, trong diễn trình khúc xạ, hòa tan vào bản lĩnh văn hóa dân tộc, trên nền móng là năm mươi ba khối đá tảng văn hóa nhân tộc, cũng bằng kim cương, của chính bản sắc cộng đồng các nhân tộc. Nói khác cách nói ấy, anh muốn được sống, ngày ngày hít thở trong khí hậu bản sắc Việt Nam, một khí hậu rất riêng trong khí hậu vũ trụ của bao nền văn hóa trên thế giới, xưa, nay, và mai sau. Bao tia sáng văn hóa thế giới khúc xạ trong tâm thức Việt Nam. Ánh hồng bản sắc văn hóa Việt Nam lại khúc xạ vào các tâm thức của bao dân tộc trên quả đất này... Không chỉ bốn danh nhân trong bài Mặc niệm, anh nhớ hai cuốn sách tươi thắm sắc đỏ, ghi bao công lao nhân loại và dân tộc trên đài Sen Đỏ, cùng bao danh nhân khác.

            Anh Cơ Dân cũng hiểu, như ở mỗi người, trong anh cũng có một độ khúc xạ riêng trước bao nguồn sáng. Đó là độ khúc xạ của một thành viên mang huyết thống nhân tộc Kinh, là độ khúc xạ rất riêng của tạng chất anh.

            Trời gần sáng hẳn, anh Cơ Dân chợt nhớ lại buổi tối hôm qua, một buổi tối chan hòa niềm vui ở nhà Tre Trúc và Hãng.

 

 

 

29

 

 

 

            Hãng không thể ngồi ở nhà để chờ xe hơi của Nguyễn Đồng Triệu đến đón. Anh vừa hồi hộp, vừa phấn khích bước ra khỏi cổng Sen Trắng. Nụ cười sáng và duyên của Tre Trúc, dưới ánh ban mai chưa chói chang nắng, lúc mở cổng đưa chân anh, khiến Hãng cảm nhận vị ngọt của hạnh phúc. Hãng bước tới quán cà phê, ngồi lại chỗ ngồi ba năm trước anh với anh Mai Tự đã ngồi để đón, và đón nhầm Tre Trúc. Hãng mỉm cười nhớ lại buổi sáng dễ thương, buồn cười ấy.

            Đã cạn chén trà sau li cà phê đen, Hãng nhìn đồng hồ, hơi sốt ruột, bỗng mừng khi thấy xe Triệu vào hẻm. Hãng bước ra khỏi quán, vẫy Triệu đang ngồi trong xe. Hình như anh Cơ Dân vừa mở cổng để xe trở đầu.

            Lại phải điểm tâm với Triệu ở một quán phở. Một phần vì hơi no, một phần hồi hộp bởi nghĩ về cuộc đấu giá thầu sáng nay để thực hiện đồ án một quảng trường, của chính anh, đã trúng giải xuất sắc, một phần khác do hơi ái ngại, khó chịu khi thấy người tài xế của Triệu phải ngồi trông xe, Hãng khó nuốt. Với Hãng, anh không thể quen với cung cách quan liêu này. Nuốt làm sao nổi khi tài xế phải nhịn!

            Triệu cũng chẳng thèm mua chiếc bánh bao nào cho người

lái xe của mình! Ngồi bên Triệu ở băng ghế sau, Hãng áy náy nhìn gương mặt bình thản của tài xế cỡ bằng tuổi Triệu. Đó là lẽ thường tình ở đời chăng? Vậy thì băn khoăn chỉ thêm nặng lòng. Cũng như lúc ngồi ở quán phở, Hãng trót quen rồi đến không còn áy náy trước một người tàn tật ngửa tay! Trước mọi thói quan liêu trưởng giả, trước các cảnh huống xót xa đều phải chai lòng đi chăng? - Hãng tự hỏi, lúc xe chạy êm như ru đến Uẵy ban nhân dân quận, khá xa với quận Hãng ở.

            Ở hội trường, Hãng bất ngờ khi gặp ông Vũ Hồng Ngà, biết ra ông Ngà quen thân với Nguyễn Đồng Triệu. Ông Ngà bắt tay Hãng, cười với nụ cười bặt thiệp của người giao du rộng, hơi nheo một đuôi mắt ra vẻ đã nắm được thóp Hãng - "thóp đầu", điểm "chết" ở gót chân A-sin (Achil) (18), từ vụ Hoài Nhớ.

            - Lâu rồi không gặp lại cậu! Rất mừng về đồ án quảng trường ngã năm của cậu đã trúng giải. Biết đâu tớ sẽ thi công đồ án của cậu! Cũng hay nhỉ! Xin chúc mừng!

            Ông Ngà không cười sảng khoái rồi rít cái đuôi của chuỗi cười vào cuống họng như mọi lần. Nhìn kĩ, Hãng thấy ông Ngà ra vẻ bặt thiệp, sao nom ông mệt mỏi hẳn, già đi, hình như đang cố giấu niềm âu lo nào nặng trĩu trong lòng.

            - Dạ, xin cảm ơn thủ trưởng...

            - Đâu phải nữa, bây giờ Thắp mới là trưởng của cậu, phải không? - ông Ngà ngắt lời.

            - Dạ vâng. Cũng gọi là ông trưởng be bé vậy thôi, bạn bè cả. Chỗ bọn cháu chỉ bằng cái ria so với công ti của chú - Hãng nói lấp câu đưa đãi vừa rồi - Lâu nay, Thương Hoài với vợ chồng nhà cháu vẫn gặp nhau luôn. Thằng nhóc Cây Bàng mến cô Thương Hoài, dượng Đào Hải lắm.

            Ông Ngà thoáng cau mày. Hình như nhắc đến Thương Hoài khiến ông bực mình. Ông Ngà vội bắt tay Hãng, đến nói chuyện với Triệu và một số các giám đốc, đại diện viên, nhà thầu khoán đang chụm lại, rôm rả nói cười.

Vào cuộc đấu giá thầu, Triệu ngồi cạnh Hãng. Ngoài ý đồ cụ thể sâu kín, Triệu còn muốn xâm nhập thực tế ở ngành kiến trúc, xây dựng mà Triệu đang có ý định kinh doanh. Kinh doanh về thương mãi, xuất nhập khẩu, Triệu vẫn muốn vươn thêm một tay vào ngành của ông Ngà và Hãng.

            Hãng phấn khởi vì mô hình quảng trường với cụm tượng đài của anh đặt ngay trước dãy bàn của ban chủ trì đấu giá thầu. Đó là mô hình sáng tác theo đề tài của Phòng Xây dựng và Phòng Văn hóa quận: tượng đài nhà báo cách mạng chống Pháp nổi tiếng, sát cánh cùng những người cộng sản trên mặt trận báo chí, chính trị - Nguyễn An Ninh. Cụ thể hơn, đó là Nguyễn An Ninh, danh nhân hầu như duy nhất của thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh, quê ở Hóc Môn, bên cạnh một người công nhân trí thức quét rác, các loại rác rưởi.

            Hãng đặt tên là quảng trường "Cái Chuông Rạn" (La Cloche Fêlée), tên tờ báo đấu tranh của ông.

            Sau bốn tháng thao thức sáng tác, đồ án đạt giải cao hơn cả giải nhất! Bây giờ mô hình trên sa bàn được đặt ở đây, sắp được thi công. Hãng muốn không ai khác, chính anh sẽ thực hiện các hạng mục của đồ án, ngay tại một ngã năm của quận. Lại ngã năm! Có lẽ Hãng thành công nhờ đề tài của Uẵy ban quận đưa ra tình cờ đúng với điều anh trăn trở và tâm đắc lâu rồi. "Ngã năm Sen Đỏ" ở sân biệt thự Sen Trắng cũng được gửi gắm thêm vào trong "Cái Chuông Rạn" này. Hãng rơi vào tình huống để lòng hiếu thắng vốn có của anh trào lên đến rần cả mặt.

            Các mức giá thầu tiếp tục hạ thấp. Hãng đã hô giá đúng với bản dự toán của Thắp. Vẫn bị vài mức giá thấp hơn cạnh tranh, Hãng cố trấn tĩnh. Đồ án này được thực hiện với giá rẻ như bèo kia, sẽ ra sao! Vật liệu sẽ là vật liệu giả dù nhãn hiệu đúng với yêu cầu Phòng Xây dựng quận và chính Hãng đưa ra, đã được duyệt! Không thể "bèo" như thế được ! Hãng nóng đầu. Không ngờ ông Ngà cứ hạ giá, ép Hãng đến vậy. Gần năm mươi người dự đấu thầu hơi ngạc nhiên. Họ thầm nghĩ, có lẽ người ta định thực hiện đồ án "Cái Chuông Rạn" với các hạng mục của nó bằng đất sét, bằng giấy làm hình nộm, chứ không phải bằng bê tông với đá hoa cương!

            - Hãng phải bằng mọi cách để chiến thắng, để lấy uy tín cho cơ sở Sen Đỏ của chúng mình! - Triệu nói vào tai Hãng - Mình mới điện thoại về cơ sở Sen Đỏ, gặp cả Thắp, Sim Mua và Sóng - Triệu chỉ vào máy điện thoại di động trên tay - Họ nói tùy cậu. Cậu có thể chiết tính, lấy ra cổ phần của cậu ở vốn chung để tự một mình cậu thi công. Lỗ lã cũng chấp nhận đi.

            Hãng cảm thấy quá căng thẳng. Sao ông Ngà, một vài đại diện các nhà thầu khác ép quá thế! Lại tự rút cổ phần ra tự liệu một mình! Phá sản để được gì đây!

            - Yằ kiến vừa rồi ai đề xuất? - Hãng hơi nghi ngờ.

            - Chính mình, ờ... muốn tăng độ bền cho công trình từ đồ án của Hãng đó. Mình sẽ cho Hãng vay, nếu không rút cổ phần.

            Hãng bỗng liều lĩnh, chấp nhận lỗ. Anh hô giá. Và giá của Hãng là giá thấp đến mức cả hội trường im như nín thở. Ban chủ trì cuộc đấu giá thầu hỏi lại, rồi sau mười phút, họ tuyên bố Hãng đã thắng với chút ái ngại.

            Ông Vũ Hồng Ngà bắt tay Hãng, mắt nháy với Triệu. Hãng đang tê dại, vì cầm chắc sẽ phải vay nợ Triệu dù đã thắng, được trực tiếp chỉ đạo thi công đồ án của mình.

            Ngồi trên xe máy lạnh của Triệu, Hãng chợt tỉnh lại. Anh thấy đồ án "Ngã năm Cái Chuông Rạn" có phải là một sáng tạo gì ghê gớm, to tát, sâu thẳm, mới mẻ, là phát kiến tầm cỡ gì đâu, mà phải hi sinh tiền vốn đang quá ít của mình! Chịu lỗ để lấy uy tín cho cơ sở Sen Đỏ ư? Sao một mình mình gánh nợ! Hãng ngửi thấy một âm mưu ở Nguyễn Đồng Triệu, ở Vũ Hồng Ngà, nhưng đã lỡ chấp nhận ở cuộc đấu giá thầu tại hội trường, đã kí hợp đồng với Uẵy ban quận mất rồi! Hãng cảm thấy lạnh. Anh biết Tre Trúc sẽ không thét lác ầm ĩ, có điều, hẳn cô ấy sẽ buồn. Buồn và lo. Anh sẽ là con nợ của Triệu sao? Chính Hãng thấy rõ hơn bao giờ hết cái thòng lọng Triệu đặt vào cổ anh, lôi anh đi như một con chó đói, hay ít ra là cột chặt chân anh vào chân bàn làm việc của giám đốc Nguyễn Đồng Triệu. Ngẫm lại, Hãng thấy chưa vội nghĩ tệ về Triệu. Chờ xem.

            Qua rất nhiều quãng đường phố, Hãng tính nhẩm con số chênh lệch giữa giá dự toán và giá nhận thầu. Mười lạng vàng! Có bao nhiêu đâu, nếu lỗ chừng ấy. Nhưng biết đến bao giờ anh mới trả nổi số nợ chừng ấy vàng!? Không, rồi sẽ trả được, vì anh hi vọng sẽ gỡ lại ở những công trình sau. Hãng thấy rõ anh hiếu thắng như một cố tật ngu ngốc. Hiếu thắng, đó mới là cái thóp đầu sơ sinh ở Hãng, là gót chân A-sin của anh. Hãng vẫn khắc vào đầu những cái nháy mắt giữa ông Ngà với Triệu, cả những phút hai người bàn bạc với nhau. Hãng biết trước, vẫn hiếu thắng! Có phải là hiếu thắng không? hay là tính táo bạo của người nghệ sĩ kiến trúc trong anh và lòng kính yêu Nguyễn An Ninh, mặc dù không phải không hiểu những hạn chế của ông? (19).

            Chiếc xe của Triệu đã ngừng lại trước cổng Sen Trắng. Hãng mở cửa. Nhiệt độ không khí ngoài xe hực vào anh.

            Tiếng chuông chùa trên sân thượng tòa nhà lan ra, ngân trên ngực anh.

            Chia tay với Nguyễn Đồng Triệu và anh lái xe xong, Hãng đi bên cạnh Song Mây để vào nhà. Tre Trúc bồng Cây Bàng đứng trên thềm, cầm tay con vẫy chào Hãng. Một tay cầm cặp da, một tay nựng má con trai, Hãng cười. Gọi theo những tiếng tập gọi của mẹ: "ba! ba!", Cây Bàng bập bẹ, bi bô.

            Vào phòng, Hãng để nguyên quần áo đi làm, ngả xuống giường:

            - Anh thắng rồi! - Hãng mệt mỏi, kìm tiếng thở dài.

            Tre Trúc reo lên. Hãng vội nói, thắng nhưng phải chịu lỗ, rồi anh kể cho vợ nghe cuộc đấu giá thầu hồi nãy.

            - "Lòng người cực hiểm thay!" - Hãng ngao ngán.

            - Thì đồ án mình, người khác thi công cũng được. Tại anh cũng có chút đa nghi chứ. Trên đời này chỉ có mỗi một Vũ Hồng Ngà với thêm một Nguyễn Đồng Triệu thôi - Tre Trúc bàng hoàng khi nghe Hãng nói về số nợ phải chịu, nhưng vẫn cố bình tĩnh bảo - Cũng tại anh muốn trở thành một Cao Lỗ xây Loa thành! Anh, thôi, thay áo quần đi anh. Rồi sẽ trả được món nợ ấy. Mười lạng lớn nhưng không lớn đâu! - nói thế, nhưng gương mặt Tre Trúc hiện rõ nét thảng thốt.

            - Triệu biến anh thành con chó với sợi xích mỏng mảnh mười lạng vàng của nó! Anh thì muốn tác phẩm của mình có độ bền vĩnh cửu. Chẳng biết anh có ngốc không! Có lẽ anh bị kích lòng hiếu thắng thật đấy! - Hãng còn nghĩ thầm, anh còn quá thiếu kinh nghiệm nên dễ "nóng đầu", nhưng Hãng im lặng không nói tiếp, sợ bị vợ coi thường.

            Hãng đứng dậy, tự bảo mình phải rèn luyện đức tính điềm tĩnh, phải thật điềm tĩnh, quyết đoán, ở lần sau.

 

 

 

30

 

 

 

            Buổi chiều. Lúa Ngọc phân vân dưới trụ đèn xanh đỏ ở một ngã tư, rồi quyết định về Sen Trắng. Cô chạy xe nhưng tâm hồn đang trải qua một cuộc giằng xé đau đớn. Không cách nào khác được! Lúa Ngọc đã trăn trở nhiều rồi! Cô không muốn cứ mãi chơi trò ú tim với tình yêu đương say ngất trong đau khổ. Gió. Gió. Gió. Đã nổi bão tố triền miên trong bao ngày tháng của Lúa Ngọc. Thế là đã hơn hai năm rưỡi đeo đuổi một mối tình trớ trêu, thoang thoáng niềm vui rạng rỡ, miên man nỗi đau ảm đạm. Không cách nào chịu đựng được nữa khát vọng và tuyệt vọng nhức nhối!

            Cũng biết chiều nay Trần Ngát Gió chưa đi học về lúc này với chiếc xe đạp cà khổ của anh, Lúa Ngọc vào nhà Tre Trúc. Bật máy truyền hình, ngồi bồng Cây Bàng vào lòng, Lúa Ngọc buồn muốn khóc, có hiểu gì đang được chiếu trên màn ảnh nhỏ kia đâu. Cây Bàng vẫn bi bô hồn nhiên với tay chân hiếu động. Đứa cháu trai mũm mĩm cho cô những phút nguôi quên với vẻ dễ thương, đáng yêu trẻ nhỏ.

            Những tiếng chuông chùa trên sân thượng như gọi cô bước hẳn ra hành lang ngồi ngóng. Cô bỗng sợ gặp Gió lần này.

            Rồi Gió cũng về. Khi gửi lại Cây Bàng cho Tre Trúc, cô ao ước mình được một chút hạnh phúc thôi, chút hạnh phúc ở nụ cười hiền hậu của người chị dâu nhỏ tuổi hơn mình.

            Gió mỉm cười với Lúa Ngọc ở chiếc bàn đá dưới giàn hoa tím. Se se một cọng lá úa, Lúa Ngọc cũng mỉm cười. Hai người nhìn nhau trong một thoáng. Cứ ngỡ chẳng có gì để Lúa Ngọc buồn đến da diết thế.

            - Lúa Ngọc Đời Đời đến lâu chưa? - Gió khẽ hỏi.

            - Hơn nửa giờ. Đi làm về, ghé đây luôn - nhìn gương mặt sáng sủa, đẹp trai của Gió, Lúa Ngọc vừa say đắm vừa nghe nhói ở tim mình.

            - Mấy tuần rồi, trông Lúa Ngọc đến, nhưng vẫn bặt tăm. Bộ có gì mới mẻ sao?

            Lúa Ngọc hơi giật mình. Cô cúi mặt, ngẫm nghĩ một lúc, cắn khẽ vào môi. Lát sau, ngẩng lên, cô cười gượng gạo:

            - Có. Chắc Gió sẽ vui.

            - Vui?

            - Nói thật nghe. Mình quen nhau thế này khổ Gió lắm phải không?

            Gió chớp mắt:

            - Sao lại nói thế! Tình bạn muôn năm mà!

            - Thà là... Mà thôi! Vẫn mãi mãi tình bạn! - Lúa Ngọc bỗng lạnh lùng, ánh mắt hơi quắc lên trong một thoáng rồi cúi mặt xuống bàn đá. Cô đang ghìm tiếng khóc chực bật ra.

            - Bao giờ Gió cũng muốn tình bạn mãi đẹp - Gió lại nói.

            Lúa Ngọc vẫn cúi mặt, lắc đầu, im lặng. Cô cố hình dung ra nụ cười của một người đàn ông cùng cơ quan, nụ cười hơi chua chát nhưng hồn hậu, để xua đi nỗi đau trước Gió.

            - Chính vì vậy đó - Lúa Ngọc nói, sau một lúc.

            - Vì vậy là sao?

            - Vì tình bạn mãi đẹp.

            - Là sao hở Lúa Ngọc? - Gió hỏi như tiếng thở nghẹn.

            Lúa Ngọc lắc đầu, im lặng. Cô hiểu mình tự hành hạ mình quá đáng.

            - Lúa Ngọc sắp đính hôn rồi - cô nói nhanh.

            Gió sững sờ. Anh thấy có một mất mát không thể bù đắp được trong tim mình. Thật lòng, Gió không hiểu nỗi chính anh. Yêu hay không yêu Lúa Ngọc, Gió không rõ. Có lẽ cả hai cùng tồn tại trong anh.

            - Thật sao? - Gió nghẹn giọng.

             Lúa Ngọc cúi mặt, gật đầu.

            - Quen lâu rồi sao? - Gió hơi cay đắng.

            - Lâu rồi, nhưng... Cũng mới thật sự không chỉ là bạn cùng cơ quan. Không, không phải bạn! Ờ, bạn vong niên! Anh ấy lớn tuổi hơn Lúa Ngọc, hơn đến hai mươi tuổi.

            Gió cảm thấy nghẹn ngào. Một lúc, Gió ngập ngừng:

            - Xin mừng hạnh phúc của Lúa Ngọc và anh ấy.

            - Sẽ không hạnh phúc đâu! - Lúa Ngọc buột miệng.

            - Vậy là sao, hở Lúa Ngọc?

            - Lúa Ngọc chỉ dự cảm vậy - Lúa Ngọc cười buồn - Nhưng đành vậy. Vậy còn hơn khổ tâm!

            Câu cuối cùng như thể Lúa Ngọc chỉ nói với mình, dứt khoát với trái tim mình, giọng cô lạnh lẽo, đau đớn. Lúa Ngọc vụt đứng dậy.

            - Thôi. Đừng khổ tâm nữa. Hai năm rưỡi rồi. Lúa Ngọc về đây.

            Lúa Ngọc đi như chạy trên lối sỏi trắng, vào sân nhà Hãng, định chào Tre Trúc, nhưng rồi đẩy xe ngay ra cổng. Gió sững sờ, bước ra mở cổng. Chỉ chào nhanh, Lúa Ngọc muốn vụt thoát khỏi nỗi đau, buồn tủi trong ngực mình. Xe gắn máy của Lúa Ngọc chở cô ra khỏi hẻm. Lúa Ngọc muốn chỉ nghĩ về anh phó tiến sĩ gầy guộc, nhỏ bé và lớn tuổi ấy, để xua đi gương mặt Gió trong đầu mình. Biết không thể chạy xe lúc này, Lúa Ngọc ghé vào một quán cà phê ven đường phố. Tìm một góc khuất, sau cây kiểng giả xanh um và đầy hoa thắm, Lúa Ngọc gọi nước uống rồi bưng mặt khóc một mình dưới ánh đèn tím. Quán lúc này may sao vắng tanh. Ngoài đường, xe cộ đầy đặc trong hoàng hôn, khoảnh khắc huyền ảo nhất của thành phố Lúa Ngọc đang sống và làm việc.

 

            - "Thiền chăng?" (...).

            - "Thiền chứ (...) Nếu hiểu thiền chỉ là sự bình tâm, tỉnh táo và sáng suốt (...) là lòng từ bi ... (...)".

            - "Tình yêu cuộc sống vốn Trần ai, vẫn rất Ngát Gió nữa chứ!".

 

            Lúa Ngọc nhớ chiều nào sau buổi đánh cầu lông, cô chạy xe song song cùng chiếc Đờ-rim đã cải tiến yên ngồi - Đào Hải chở Vũ Thương Hoài với tiếng cười khúc khích giàu lòng tốt. Đường về hôm đó bỗng đẹp trong khoảnh khắc hoàng hôn huyền ảo thế này. Hai năm rưỡi rồi! Giờ mới thật hiểu, hiểu thấm thía tình si, ảo vọng! Yêu vậy, sao nghe khổ tâm lắm, Gió ơi! Có bao cuộc tình tuyệt vời với độ chênh trớ trêu, Lúa Ngọc biết. Có bao người vợ hơn chồng những mười tuổi, vẫn hạnh phúc đến ngọt lịm suốt đời, Lúa Ngọc biết. Có điều hầu như giữa Gió và Lúa Ngọc, không có quãng cách nào cả ngoài quãng cách giữa tình bạn và tình yêu đương. Mọi quãng cách, mọi độ chênh đều vô nghĩa, đều đã vượt qua, duy một quãng cách còn lại, bạn và người yêu! Bạn, sau hai năm rưỡi, vẫn không thể là người yêu, chỉ là tình bạn mãi mãi! Biết làm thế nào được. Gió. Gió. Gió. Đừng thổi triền miên trong Lúa Ngọc nữa, Gió ơi. Gió ơi, hay mọi quãng cách vẫn còn đó?

            Cô gái chủ quán bưng li la hán quả ra, hơi lặng người, đặt khẽ xuống bàn, ái ngại, như thể không nỡ làm động đến nỗi đau của khách. Lúa Ngọc đã thấm nước mắt vào khăn tay, vẫn cúi gục đầu. Cô cảm thấy hơi ngượng với cô gái chủ quán.

            - Cô có thể... Vâng, cô cần gì nữa không... Có lẽ cô đang gặp một việc không may nào. Cô có thể gọi về nhà bằng điện thoại ở đây - cô gái rụt rè.

            Lúa Ngọc nói cảm ơn và lắc đầu. Ngồi sững sờ một lúc, Lúa Ngọc vừa có cảm giác buồn tủi vừa cảm thấy nhẹ nhõm, trút được một nỗi đau nặng trĩu. Thế là hết. Rồi sẽ quên đi Trần Ngát Gió như một kỉ niệm buốt xót mà thơ mộng. Lúa Ngọc thấy tình yêu đương trong cô cho cô nhiều mộng tưởng nhưng nhiều hơn vẫn là nỗi tự ti trước Gió. Tình yêu ấy đã làm Lúa Ngọc đánh mất chính mình. Tha hóa, vong thân. Lúa Ngọc chạy theo thời trang, son phấn và mĩ viện đến mệt nhoài. Khổ sở đến cực nhọc cho áo quần, giầy dép, kiểu tóc, cách đi, dáng đứng, sự tăng hay giảm kí đến cuồng dại và lố bịch. Để làm gì cơ chứ! Có những điều không thể sửa chữa được! Không thể gọt dáng hình thô tháp để trở nên thon gọn!

            Gió. Gió ơi. Không phải là ý nghĩ của một cô gái kém nhan sắc là tôi đâu, khi tôi nghĩ nhan sắc nào có ích gì cho đời. Nhan sắc của cỏ hoa làm tươi cuộc đời này. Nhan sắc người nữ hay vẻ đẹp người nam chỉ có ích cho riêng bản thân, nhưng làm tăng thêm nỗi đau cho đời. Người kém nhan sắc, vẻ đẹp bề ngoài bao giờ cũng quá nhiều. Tôi khổ sở vì nhan sắc, vì Gió. Đã hai năm rưỡi tôi ngu muội, si dại và khổ não. Gió. Gió. Gió. Yêu Gió tôi nào thăng hoa chút nào đâu. Gió thành bão làm tôi tiều tụy trong áo quần, son phấn. Công việc nghiên cứu sinh học có ích cho cõi đời, cho đồng bào, tôi xao lãng vì yêu mê. Cũng chỉ tại tôi cuồng si, ngu ngốc. Gió bao giờ cũng tốt với tôi, nhưng làm sao Gió buộc trái tim Gió yêu tôi được! Tôi cũng chả cần tình yêu đương đượm lòng thương hại. Tôi quên đi mặt mạnh của mình, quá chú tâm cho mặt không thể sửa chữa được. Trí tuệ có ích và không phù phiếm. Tất nhiên tôi không bì nổi với Tre Trúc, chị dâu của tôi, đẹp sắc và giỏi tài. Nhưng chỉ chọn được một trong hai, nhan sắc hoặc tài năng, tôi sẽ bình tâm, sáng suốt để chọn tài năng. Và cái nết, cái đức hạnh mới đích thực là "cái đẹp cứu chuộc nhân loại". Nhan sắc thì cứu chuộc được ai, ngoài việc... bán cho kẻ háo sắc để kiếm tiền xây dựng viện mồ côi, tặng người tàn tật! Gió. Gió. Gió ơi, yêu Gió, tôi khổ tâm, ghen tị một cách đê tiện, độc ác. Những thoáng ghen tị chợt hiện trong đầu khiến tôi tự cảm thấy nhục nhã, tự khinh mình đến trào nước mắt. Yêu Gió, tôi phát hiện ra cả những tì vết xấu xa ấy của tâm hồn mình, càng u ám, thấm thía thêm sự bất bình đẳng về mặt tự nhiên và cam tâm chấp nhận. Chấp nhận này là cả một sự phũ phàng. Cay đắng và bình tâm. Chấp nhận cả những tì vết của cái tâm, cái nết để tự sửa chữa. Chấp nhận để bình tâm về những gì bề ngoài không cách nào sửa chữa được. Ấy không phải là tiêu cực. Ấy là sáng suốt. Vâng, tôi có sáng suốt không, khi hiểu ra cái đẹp phải là cái tự phản tỉnh cho mình (cái cốt lõi của đức hạnh), cái có ích cho cõi đời chung. Đó là cái nết, cái tài. Tài năng và đức hạnh mới đích thực là cái đẹp. Tôi đã luẩn quẩn? Tôi đã rối? Không. Tôi muốn khẳng định. Cảm ơn Gió, dù cho Gió vẫn không ngờ chính Gió đã làm đời tôi bão bùng, nhưng trong bão bùng tôi có những tia chớp, tia chớp làm sấm sét đánh vào u mê tôi, cho tôi được lóe sáng về Cái Đẹp. Gió ơi, thế là hết. Nhẹ nhõm nhé. Nhẹ nhõm nhé tôi. Tôi đành chấp nhận đính hôn với Mặc Chi, người đàn ông tài năng, xấu xí và bé như một con khỉ. Tôi dùng từ chính xác. Anh ấy dị dạng thật. Tôi đã lạnh lùng nói một cách nhẫn tâm thế đó về anh, người chồng tương lai của tôi. Anh ấy có bộ óc của một thiên tài với trái tim nhân hậu của đại đa số quanh mình. Anh ấy ở Nga về với bằng phó tiến sĩ, cho dẫu công trình anh đang làm còn vượt xa tiến sĩ. Tôi đã hiểu cái đẹp, Cái Đẹp đích thực ở anh. Tôi có cực đoan không. Tôi có thách thức mắt thịt của người đời không. Tôi có xoay thẩm thức ngược chiều một trăm tám mươi độ không. Và, Gió ơi, có hài hước không, khi tôi to kềnh, thô tháp thế này, Mặc Chi của tôi lại quắt queo, gầy sắt thế kia. Tôi có nổi loạn không, lập dị không khi chấp nhận vậy. Không. Gió ơi. Tôi hoàn toàn tỉnh táo. Tôi làm cùng cơ quan với anh ấy hơn hai năm rồi. Chúng tôi hiểu nhau tận gan ruột, tận đáy mỗi khóe nhìn, mỗi lời nói. Tôi dự cảm hôn nhân chúng tôi sẽ không hạnh phúc, vì trót yêu Gió. Thời gian sẽ dần dần rót mật ngọt vào tình nghĩa vợ chồng chúng tôi. Thôi nhé, nhẹ nhõm đi Gió. Thế là hết. Chưa bao giờ tôi thanh thản như bây giờ. Gió ơi. Chưa bao giờ tôi có nụ cười biết ơn và bình tâm đến thế, với cõi đời, với người chủ quán lại là cô gái trẻ xinh đẹp. Cảm ơn nhé Gió.

            Trời nhập nhoạng tối. Quán đã đông khách. Trả tiền xong, bước ra, Lúa Ngọc về nhà trong ánh đèn xe cộ và phố xá. Thanh thản qua bến xe Tây Ninh, qua ngã tư An Sương, Lúa ngọc chợt tấp vào lề khi nghe tiếng gọi tên mình. Cô bàng hoàng nhận ra Trần Ngát Gió! Gió đạp xe ngược chiều, bên kia lề đường. Gió đưa tay xin băng qua đường tuy đoạn này xe cộ đã thưa vắng bớt.

            - Lúa Ngọc! - gương mặt Gió rạng rỡ trong vẻ mệt phờ - Gió chạy theo Lúa Ngọc nhưng không kịp. Gió đã về nhà Lúa Ngọc, nhưng không có. Đạp xe lên lại, vẫn ngong ngóng dõi mắt tìm Lúa Ngọc. May quá, đã gặp - Gió cười.

            Lúa Ngọc xúc động đến nghẹn giọng. Cô im lặng một lúc lâu rồi đưa mắt tìm một quán nước. Đó, quán trước mắt đó thôi, có điều, Lúa Ngọc đã sợ hãi phải chìm ngập lại vào nỗi đau vừa thoát khỏi. Lúa Ngọc đã sợ vẻ đẹp và tấm lòng cao quý của Gió. Nhưng có lẽ Gió cần một li nước chanh sau một đoạn đường đạp xe đạp quá xa như thế.

            - Mình vào quán nước đi, Lúa Ngọc - Gió nói trước câu Lúa Ngọc định nói, có vẻ chịu lỗi.

            - Vào quán kia kìa! - Lúa Ngọc run lên, chẳng hiểu ra sao nữa.

            Hơn nửa giờ đồng hồ, Lúa Ngọc chỉ khóc, lắc đầu rồi im bặt. Gió nói, Gió van vỉ, Gió khóc, Lúa Ngọc vẫn im bặt. Cuối cùng, cô nói với Gió những gì cô đã khổ khi yêu Gió, có điều đã giấu bớt nỗi buồn đau, tủi cực để làm nhẹ lòng Gió.

            - Gió à, yêu nhau vậy, khổ tâm nhau lắm Gió à. Lúa Ngọc đã dứt khoát rồi. Không muốn chọn lựa khác nữa.

            - Lẽ nào Lúa Ngọc không thấy dáng dấp, vẻ mặt là vô nghĩa sao! Gió cũng đã kể cho Lúa Ngọc, mạ của Gió hiện ở ngoài quê, cũng là một người xấu xí vì bệnh đậu mùa - Gió chân thành.

            Lúa Ngọc bật cười, trào nước mắt, không tin lời Gió.

            - Thôi. Lúa Ngọc đã quyết tâm rồi, dứt khoát rồi. Đã khổ quá, nhức nhối hai năm rưỡi rồi, còn gánh thêm một nỗi ân hận vì lại mềm lòng, lại si dại nữa, làm sao Lúa Ngọc sống nổi! Thôi, đừng bận lòng nữa - giọng Lúa Ngọc chợt ráo hoảnh.

            Lúa Ngọc ra lề đường, trở đầu xe, khởi động, bình thản đến lạnh lùng, chạy về nhà, chậm rãi. Gió ngơ ngác nhìn theo, thở dài. Anh nghĩ, nỗi bệnh của mặc cảm tự ti trong Lúa Ngọc đã quá nặng. Phải chăng đó là căn bệnh của thời buổi thiên hạ chạy đua theo thời trang và các cuộc thi hoa hậu - tàn dư của các cuộc chọn vợ cho vua chúa thời xa xưa, một dạng đối cực của tục gieo cầu phó thác cho duyên số, thiên mệnh mê tín khi chọn phò mã. Quá chú trọng đến nhan sắc, sẽ khổ vì nhan sắc. Cái khổ ấy vô ích, vô nghĩa, bởi loay quay, vật vã vì một giá trị xét cho cùng cũng phù phiếm. Gió hiểu, nghĩ thế, là anh đã cố thoát khỏi thói hiếu sắc tự nhiên của con người. Và thời buổi này, thói ấy đang được đề cao, đồng thời đề cao nhan sắc, kể cả những nhan sắc nhơ nhuốc về phẩm hạnh hay đần độn, lười biếng, vô học. Gió hiểu anh đang lí trí vì yêu Lúa Ngọc, với ý nghĩ như thế về nhan sắc. Anh tự hỏi liệu anh có bị nhồi sọ về các nhan sắc châu Âu và nhan sắc nói chung quá không, khi thật lòng anh cũng bị quyến rũ bởi nhan sắc xác thịt. Có điều cũng từ lâu rồi, Gió chiêm nghiệm mãi về ý tưởng của Đốt (Dostoievski) và Cay Đắng (Go-r-ki, Gorki): "Cái đẹp sẽ cứu chuộc nhân loại""đạo đức học là mĩ học của tương lai" (20). Hiểu là một chuyện, sống lại là chuyện khác. Sống với một tư tưởng nào đó như máu thịt, như phản xạ tự nhiên của trí tuệ, tình cảm trong bản thân là một việc đâu phải một sớm một chiều.

            Gió lên xe đạp, về lại Sen Trắng. Đường chợt xa lăng lắc. Gió chợt hiểu ra con người sống bằng đôi mắt quá nhiều và cũng quá nhiều xác thịt. Gió rùng mình. Anh hiểu Đốt và Cay Đắng thực sự có "tuệ nhãn", triết nhãn ngoài thị giác tinh tế bình thường, tầm thường. Gió cũng không hiểu mình là thế nào nữa, có điều, chiều hôm nay anh biết mình đã khác trước. Có lẽ mình giả dối một cách chân thành? Muộn chưa, khi Lúa Ngọc sắp đính hôn? Gió tự hỏi và cúi đầu đạp xe, nghẹn ngào. Anh muốn khóc, hiểu ra chiều nay anh đã chạm vào nỗi mất mát, hiểu ra sự tầm thường của mình. Hình như Gió cam tâm chịu đựng sự mất mát đó, chưa đủ sức mạnh của tâm hồn để vượt lên mức tầm thường trong anh.

            Chưa bao giờ Gió đạp xe rã rời đến vậy. Bỗng Gió trực nhận, tư tưởng của Đốt và Cay Đắng có gì mới mẻ và xa lạ đâu, tận cốt lõi là rất gần với "cái nết (nội dung đạo đức) đánh chết cái đẹp (vẻ đẹp bề ngoài, rỗng tuếch)" ,"tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người", "văn dĩ tải đạo" ("chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm"). Gió còn liên hệ đến "tận chân, tận thiện là tận mĩ". Anh nghĩ đến cái đẹp nghệ thuật, cái đẹp đạo hạnh và tài năng, cái đẹp cuộc sống hướng thiện, cái đẹp trong ứng xử giữa người với người... Anh nghĩ đến cái đẹp có ích. Và anh buồn bã, luyến tiếc Lúa Ngọc. Gió hiểu anh yêu Lúa Ngọc, thương Lúa Ngọc, sao còn lí trí quá!  Anh hiểu đầu óc anh còn lổn ngổn những khái niệm mĩ học! Những khái niệm thân thuộc ấy cứ như củi, cứ như sắt thép của các chi tiết máy móc cơ khí, chẳng hiểu sao không nhuần nhị trong tâm thức anh!

 

 

 

31

 

 

 

            Bà Lụa Hà mỉm cười khi bước sóng đôi với Song Mây sau lưng Hoàng và Hoài Hương. Một chàng trai tóc hớt ngắn, quần rộng thùng thình, gấu quần trên mắt cá, chân đi giày thể thao, nom có vẻ buồn cười, nhưng rất ngộ là trên lưng áo thun cũng thùng thình rộng, một bài ca dao được in bằng các con chữ sắc nét. Không phải một câu tiếng Anh, một hình dị hợm, lại là bài ca dao Việt Nam quê kiểng nhất! Hoàng, hôm nay như thế. Bên Hoàng, song song với anh, là cô gái mặc áo tứ thân toàn một sắc lá chuối non óng mịn, đi giày hạ, tóc đã để khá dài hai năm nay, vấn lại thành lọn óng mượt, đầu chít khăn mỏ quạ cũng cùng màu áo, nom rất cổ kính và mới mẻ. Đó là Hoài Hương. Bước giữa lối đi trong siêu thị ngập ánh sáng dịu mát và hàng hóa, bà Lụa Hà cảm thấy cần phải cắt đôi nếu Hoàng và Hoài Hương được thu vào tấm giấy ảnh. Họ ăn mặc có vẻ chỏi với nhau quá. Giá như Hoàng đừng "bụi" như thế có lẽ hợp hơn. Ở hai sinh viên Việt kiều Mỹ này, vẻ hồn nhiên, lập dị một cách dễ thương có lẽ khởi từ một chất Mỹ. Bà đã gặp nhiều người Mỹ đội mũ cối, nón tai bèo giải phóng quân hoặc đội nón lá, quấn khăn rằn dạo phố với  vẻ thích thú ra mặt. Cũng không phải lập dị, có lẽ thấy ngồ ngộ hay hay thế nào đó, khi đến một môi trường văn hóa khác. Nhưng có lẽ đúng hơn, những người Mỹ ấy muốn chứng tỏ họ không dính líu gì đến cuộc chiến tranh do chính quyền Mỹ tiến hành ở Việt Nam. Bà mơ hồ thấy thế, mơ hồ nghĩ thế, và cũng chỉ thoáng nghĩ. Song Mây cũng mỉm cười, lại nghĩ Hoàng và Hoài Hương thích chơi trội một cách tinh nghịch, đầy tự tin. Họ đã vứt quần cực ngắn, váy bó mông với đường xẻ "khiêu khích" và áo hở bụng, khoe ngực, áo in những câu tiếng Anh vớ vẩn. Họ chuyển cực một cách có lí nhưng chưa hài hòa. Đúng là dám nghĩ, dám làm, dám chơi trội không phiền ai...

            Sáng nay, dạo quanh hai tầng siêu thị, nhiều con mắt đổ vào cô cậu với vẻ tán thưởng, thích thú, Hoàng và Hoài Hương cũng phớt tỉnh. Hóa ra họ chơi trội vì họ thích, chứ chăng vì thiên hạ, hoặc làm ra vẻ phớt tỉnh. Dẫu sao, Song Mây vẫn không dám mặc áo tứ thân quá đẹp như Hoài Hương, bởi ngoài Hoài Hương chẳng ai mặc như thế cả! Đó là cả một điều trái khoáy, có vẻ nghịch lí. Sự lai tạp quá lâu ở một thành phố về cách ăn mặc đã trở thành một lực cản, một sức ì. Dẫu chưa, Song Mây cũng dám mặc váy ngắn đầy "thách đố", nhưng quả thật không dám mặc áo tứ thân đẹp đến ngơ ngẩn mắt nhìn như thế, để dạo siêu thị! Lực cản, sức ì kì quặc!

            Bà Lụa Hà mỉm cười. Song Mây ngạc nhiên về mình và ngẫm nghĩ. Trên tay cũng đã có vài món hàng trong túi ni lông, chân cũng đã hết chỗ rảo bước thêm, bà Lụa Hà quên bẵng ý nghĩ của cái mỉm cười vừa rồi. Nhìn Song Mây đang phải tươi tắn cười với một con gấu bông nói tiếng Anh những câu khá cù nách khách hàng, bà cũng cười, nhắc khẽ:

            - Về được chưa ? Còn gì đâu hở Song Mây!

            Song Mây gọi Hoàng và Hoài Hương. Họ quay lại.

            - Cũng dạo hết các chỗ rồi. Bây giờ mình về, dọc đường, ghé hiệu sách mua giúp ông ở nhà mấy cuốn - bà Lụa Hà vừa nói, vừa lục tìm mẩu giấy ông Hương Chữ đã ghi tên sách từ một tờ báo - Đây rồi! - bà yên tâm - Bốn bà  cháu mình về nhé.

            - Vâng, cũng trưa rồi, thưa bà - Hoài Hương đáp.

            - Song Mây gọi điện thoại đi.

            - Để cháu - Hoàng nhanh nhẩu.

            Anh đến một quày hàng, xin gọi nhờ.

            Khi ngồi lên băng sau của tắc xi, bà Lụa Hà mới sực nhớ, thuở còn tuổi hai mươi, mới vào Sài Gòn, bà cũng mặc áo tứ thân, quần lĩnh, chít khăn, nhưng đậm đà sắc nâu với tuyền đen. Và thỉnh thoảng đi đóng phim, bà cũng còn được mặc như nếp xưa. Mới đó, đã hơn bốn mươi mấy năm, không lâu nhưng quá thay đổi.

            - Phố xá Sài Gòn biến đổi ngày một nhỉ! - bà nhìn ra đường phố qua cửa kính - Mình ở ngay đây, bẵng đi vài tháng, thấy có vẻ đã khác.

            - Tại bà cũng chỉ quanh quẩn ở nhà với ra chợ. Bây giờ người ta xây cất nhiều lắm - Hoài Hương nói, như thể không phải mới từ Mỹ về cách đây gần ba năm.

            - Qua ngã tư này, có một nhà sách lớn lắm. Bốn bà cháu cùng vào, hay chỉ cháu vào mua cho ông hở bà? - Song Mây khẽ hỏi.

            - Cùng vào đi - bà Lụa Hà cười, đáp.

            Xe ngừng lại, trả tiền xong, bốn người ngẩn ngơ trước một hiệu sách ngỡ như mênh mông. Những cô gái mặc áo dài cùng một màu xanh lá non, ngực có đeo bảng tên, cười rất tươi chào đón. Song Mây sửng sốt, suýt bỏ chạy, nhưng không thể bước nổi. Cô vịn vào Hoài Hương. Cả bốn người hầu như cùng gọi một lần cái tên ''Mai Tự''! Anh Mai Tự sững sờ, mặt xanh đi, lúng túng bên tủ chia ra nhiều ngăn để khách gửi xách tay. Anh cũng mặc đồng phục, cũng màu trắng ở quần, màu lá non ở sơ mi, cũng biển tên xanh đậm trên ngực.

            - Lâu quá mới gặp lại bác và các bạn! - anh trấn tĩnh nói, hơi ấp úng, xấu hổ.

            Song Mây ngả đầu chết lặng với đôi mắt đờ đẫn trên vai Hoài Hương, rồi tì tay lên tủ kính, cúi gục đầu. Hoài Hương vin chặt bạn. Cô hiểu Song Mây chưa bao giờ bất ngờ đến suýt ngất như thế. Không để ý, Hoàng mừng rỡ:

            - Sao anh Mai Tự lâu nay không đến Sen Trắng? Ồ, cũng lâu nhỉ! Chúng em nhắc và mong anh hoài.

            Anh Mai Tự trông già hẳn đi, đang ngượng ngùng:

            - Đáng trách thật. Nhưng, Bến Mai, nhà tôi, phải bệnh nặng, chạy chữa không khỏi được. Ngặt nghèo quá! Tôi... tôi cũng đành nghỉ dạy học, phải nghỉ... Mừng là thấy bà vẫn khoẻ, các bạn cũng khoẻ. Chắc ông và mọi người ở Sen Trắng vẫn hơn trước chứ?

            - Vẫn được chữ "thường", anh Mai Tự ạ. Cảm ơn anh. Mà này, thế nào thì vẫn lui tới thăm nhau chứ.

            Từ lâu, ngoài Song Mây, mọi người ở biệt thự Sen Trắng đều chỉ đoán có gì đó không ổn nhưng vẫn không thể đoán ra, chỉ mơ hồ hiểu anh Mai Tự dời chỗ ở để cố trốn thoát một tình huống tình cảm khó xử, có điều sao quá đột ngột. Họ biết giữa Song Mây - anh Mai Tự đã chớm một tình yêu đương, và chỉ có thế. Họ biết cả hai đã thoát khỏi, tuy mỗi người sa sút một cách khác nhau. Cứ ngỡ, lâu rồi, đã quên mất...

            Không cách nào khác, cơ chừng là bản năng tự vệ và tồn tại đã giúp, Song Mây cố trấn tĩnh, quyết giữ được bình tĩnh, để khỏi tự tố cáo vết bẩn đời mình trước mọi người ở hiệu sách này. Có điều Song Mây cũng không thể vui mừng hồn nhiên như Hoàng và Hoài Hương, hoặc cởi mở, thân thiện như bà Lụa Hà. Cô đang im lặng, chết điếng như tượng đá, không khóc, cũng không thể cười.

            Anh Mai Tự bỗng tìm ra lối thoát:

            - Bà và các bạn cần sách gì, tôi có thể vào lấy ngay đem ra.

            Thoáng ngạc nhiên, rồi đều hiểu ra sự thể, Hoàng cười với chút hụt hẫng, Hoài Hương đổi nét mặt, hơi sượng, bà Lụa Hà vội nói lấp cảm giác lạt lẽo vừa trực nhận:

            - Aắ... Đây! - bà lục túi xách chưa gửi vào ngăn tủ - Đây, nhờ anh Mai Tự - bà chìa tấm giấy ghi tên sách.

            - Vâng. Bà và các bạn đợi cho vài phút thôi - anh Mai Tự phá lệ, đi nhanh vào các dãy kệ sách, như đã bay thoát được khỏi cảnh khó xử khá bất ngờ.

            Dáng vẻ xinh đẹp, duyên dáng, thon mọng của Song Mây trong chiếc áo dài tím nhạt, hai tà buông tha thướt, che phủ kín đáo ngoài chiếc quần đậm một màu tím than, với vẻ mặt rũ rượi buồn, sững điếng, bổ vào tim anh Mai Tự một tượng đá đổ ngã, đau đớn, bàng hoàng, tức nghẹn lồng ngực - nơi tình yêu đương luôn bùng cháy, âm ỉ lửa than rồi lại cháy bùng, khôn nguôi, suốt hai năm rưỡi qua. Như một tội phạm, nhà giáo tài hoa cũng là nhà nghiên cứu văn học dân gian hai mươi chín tuổi Mai Tự bối rối, ứng xử lúng túng và hơi bất nhã trong vẻ đào thoát. Anh quờ quạng, nhầm lẫn ở các kệ sách bên trong. Niềm ân hận hai năm nay giày vò anh đến khổ sở, xen lẫn nỗi hối tiếc về cô sinh viên xinh đẹp, thông minh, có phẩm chất tâm hồn của nhà văn đã bị cuốn vào cơn lốc nhục cảm, sa đọa một cách trí thức. Anh chưa bao giờ yêu ai đến thế, và yêu trong cảm nghĩ ghê sợ như thế. Anh Mai Tự đứng nghẹn ngào sau một kệ sách, đành nhờ một đồng nghiệp tìm sách giúp.

            Song Mây choáng váng, cảm giác tủi hổ khiến cô không nghĩ ngợi được gì. Đầu óc trống rỗng, mê lịm, tuy vẫn còn nhận biết mơ hồ những gì chung quanh. Hoài Hương vẫn ôm chặt bạn, lo âu nhìn hai luồng xe chạy ngoài đường. Cô hiểu đây là cảnh huống, với người khác, có thể phát điên hoặc chết ngất, cũng thầm mừng cho bạn còn giữ được bình tĩnh. Hoài Hương cảm nhận điều ấy bằng nỗi đau uất nghẹn thường gặp ở đâu đó (nỗi nhục bị ruồng bỏ của người nữ!) hơn là bằng niềm hối tiếc về sự đánh mất trinh trắng! Hoài Hương hiểu nhưng không sống với giá trị ấy! Hoài Hương cũng nào đã hiểu hết sự thể của Song Mây, của anh Mai Tự. Nếu hiểu hết, cô cũng xem thường, hồn nhiên... đáng sợ!

            - Thôi, quên đi - bà Lụa Hà trực cảm, bảo ban Song Mây với niềm bao dung.

            Tuy chỉ là diễn viên không chuyên, thường đóng các vai phụ nữ Trung hoặc Bắc, các nhân vật thoáng qua, mờ nhạt trong kịch bản, bà Lụa Hà vẫn khắc sâu ấn tượng vào vài thế hệ người xem. Các nhân viên ở hiệu sách nhìn bà, nói khẽ với nhau về các vai bà đóng. Với bà, đôi khi bà có cảm giác kịch giữa cuộc đời, và hơn ai hết, bà rất tinh tế để hiểu đâu là kịch, đâu là không thể kịch giữa đời thật hàng ngày, ai có thể "diễn", ai không thể "diễn" trong đời sống. Là người từ chối mọi mời gọi tiến thân trên phim trường bằng mọi cách "lót đường" ("đóng thuế thân" bằng tiết hạnh và lương tâm trong các cảnh ''câu khách''!), bà hiểu nỗi đau Song Mây, và còn hiểu với giác quan nghề nghiệp - thứ giác quan có được do sự chuyên tâm vào nghề nghiệp ban tặng. Lúc này, bà cảm thấy thật sự xúc phạm Song Mây nếu dùng giác quan diễn viên để thẩm định nỗi đau của cô, cô sinh viên gần gũi và bà yêu quý nhất ở Sen Trắng. Bà mong anh Mai Tự sớm mang sách ra, để bà cùng ba người tuổi trẻ bước ngay ra khỏi vuông sân rợp bóng mát này.

            - Gọi tắc xi trước đi, Hoàng à - bà bảo khẽ.

            Hoàng đến quầy, xin nhờ điện thoại. Các cô gái đọc trên ngực áo thun của anh câu ca dao in bằng mực sơn đen: "Đêm đêm đốt đỉnh hương trầm, khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê", và cả bài ca dao có "bát canh rau muống, chén cà dầm tương" sau lưng áo anh. Họ thấy đó là chiếc áo thời trang một cách cổ điển như các chiếc nón bài thơ có thơ và hoa của xứ Huế và xứ Nghệ. Anh xin gửi tiền điện thoại. Một cô gái nói, cho anh được nợ trả ở lần mua sách sau. Hoàng mỉm cười cảm ơn.

            Xe tắc xi đến cũng vừa lúc anh Mai Tự mang sách ra. Hoàng nhận sách. Bà Lụa Hà vào quầy thanh toán tiền với tấm phiếu vi tính mới cầm. Anh Mai Tự chạy theo bà nói khẽ:

            - Cháu thanh toán rồi, bác ạ. Kính tặng bác ông ở nhà...

            Bà Lụa Hà trách, áy náy. Rồi họ bước ra vuông sân, cùng ba bạn trẻ ra xe. Anh Mai Tự tránh nhìn Song Mây, cũng không nói gì với cô để giữ kẽ cho nhau.

            - Vẫn học ngữ văn Việt chứ? - anh Mai Tự hỏi Hoàng, chờ tắc xi lùi vào hẻm để trở đầu sau khi tài xế rõ địa chỉ.

            - Vâng. Sẽ học cho hết học trình cử nhân. Ba Hoài Hương bảo, phải học tiếng Việt và hồn Việt mới nên người Việt được. Học xong mới về lại Mỹ. Phải về Mỹ, anh à.

            - Vậy sao? Tôi lại phải học tập hai bạn: Chiếc áo này và áo tứ thân kia chỉ là cái bề ngoài, nhưng cái bề ngoài cũng dần dần làm nên cái tâm hồn bên trong, giữ gìn cho cái tâm hồn bên trong ấy. Xin phục hai bạn đấy. Ai tạo mẫu vậy?

            - Chị Y Sông, từ cuốn sách của Tre Trúc. Tre Trúc, chị ấy, có tham khảo sách của anh. Anh có đọc danh mục sách tham khảo?

            - Tôi biết. Cho gửi lời chúc mừng nhé. Tre Trúc quá giỏi, quá tâm huyết. Tôi đã sa sút quá... - giọng anh Mai Tự chợt nghẹn lại.

            Ngồi trong xe, bà Lụa Hà nói qua khung cửa mở:

            - Phải đến Sen Trắng nhé. Không có gì quý hơn tình nghĩa đâu. Cơ Dân và Hãng cứ tìm anh mãi đấy, anh Mai Tự à. Ông nhà trách anh tệ tình, buồn lắm. Phải đến ngay sau giờ nghỉ nhé. Ở đời có cái gì quý hơn tình nghĩa nào? - bà Lụa Hà chợt xúc động.

            Song Mây ngả lưng vào ghế xe. Nghẹn ngào, sững đờ. Cô hoàn toàn trống rỗng, vô hồn. Hoài Hương siết chặt tay bạn gái đang lạnh ngắt.

            Tiếng cửa xe đóng. Xe chạy như trôi lướt trên đường phố. Anh Mai Tự đứng sững, trông theo, vừa buồn, vừa mừng - buồn cho mình, mừng chút tình nghĩa vừa tìm lại được, tình nghĩa ngỡ đã đổ vỡ, tiêu tan, thay vào là oán hận, khinh bỉ. Niềm yêu dấu Song Mây lại xao xuyến trong tim anh. Lúc này, câu nói cửa miệng, "để làm gì nhỉ!", hầu như đã được xóa sạch nét nghĩa trắng xoá hư vô chủ nghĩa của nó, như hôm nào đã lâu.

            Bước vào hiệu sách, anh nhớ đến cuốn sách của Tre Trúc, nhớ đến Hãng, anh Cơ Dân, ông Hương Chữ, nhớ đến các gương mặt thân quen trọ học hoặc thường xuyên lui tới Sen Trắng.

 

 

 

32

 

 

 

            Vũ Thương Hoài nhìn đồng hồ tay rồi đồng hồ treo tường, thấy đã quá giờ tan sở. Cô bình tĩnh chờ bố. Không còn cách nào khác, phải nói để bố rõ thêm một lần cuối. Không thể muộn hơn được nữa. Thương Hoài tự bảo với mình như thế. Trước và sau ngày đám cưới của cô với Đào Hải, Thương Hoài đã trình bày vấn đề, thuyết phục ông Vũ Hồng Ngà. Ông vẫn khăng khăng, dứt khoát với câu nói "đời là thế", mặc dù ông thừa hiểu đâu phải mọi việc ở đời đều nói bừa thế, và rồi cứ thế. Thương Hoài cũng đã từng buông xuôi trước những bất công, bất bình đẳng, phi lí có thể sửa đổi, cải thiện được, bởi bất công, bất bình đẳng, phi lí ấy hoàn toàn có lợi cho cô và bố mẹ. Cô cũng chưa từng nếm vị đắng cay của "đời là thế" trên bình diện quan hệ xã hội. Có điều, từ độ vào làm việc ở cơ quan thanh tra, cô mới hiểu nỗi đau của bao người thấp cổ bé miệng. Vụ Hãng bị ông Vũ Hồng Ngà "thuyết phục" và sau đó, bị "bịt miệng", làm nhục có tính toán bởi Hoài Nhớ, rồi chính Hoài Nhớ cũng bị "bịt miệng" bởi ông, là một cái tát làm trái tim cô thức tỉnh khỏi sự mê muội của cô gái được sinh ra từ quyền lực và thủ đoạn. Cô gái mê muội ấy là Thương Hoài.

            Cách đây bốn tháng, Hãng miệt mài ở công trường để cải tạo mặt bằng một quảng trường cũ kĩ, chật hẹp, nhằm thi công đồ án "Ngã năm Cái Chuông Rạn" theo đề xuất của Quận. Anh đã bị lỗ lã nặng cũng bởi sự ăn cánh giữa ông Ngà và Nguyễn Đồng Triệu. Tiếp theo đó, với một vài công trình khác, với sự lừa bịp bằng các thủ đoạn khác, cả Thắp, Sim Mua lẫn Sóng đều trở thành con nợ của Triệu. Tất cả các âm mưu đều có tay ông Ngà dính vào. Vũ Thương Hoài đã trực tiếp điều tra, nắm rõ.

            Ông Vũ Hồng Ngà đã bị các tư sản nước ngoài, qua Gion, người Úc (thật ra, Gion là gián điệp CIA. của Mỹ!), và tư sản nội địa, như Triệu, "mua đứt". Ông Ngà "bán" hết mọi quyền hạn để thủ lợi và củng cố quyền lực - cái mà danh từ luật học cũ gọi là "hối mại quyền thế".

            Hôm đến cơ sở Sen Đỏ, lúc bốn anh em, bè bạn chung vốn làm ăn đã bị cột chặt vào Triệu, Thương Hoài có bảo:

            - Em sẽ giúp anh Hãng và các anh, chị vay vốn.

            - Vay ở đâu hở Thương Hoài? - Hãng hỏi.

            - Của em và ở ngân hàng. Em có quen một giám đốc...

            - Thương Hoài cho chúng anh vay của riêng bao nhiêu?

            - Ba trăm triệu của ngân hàng. Vàng riêng em chỉ vài... lạng thôi.

            - Không ngờ Thương Hoài quyền và tốt thế - Hãng cười.

            Thắp cười gằn sau một quãng khá lâu im lặng:

            - Tôi và ba bạn ở đây đã tống cổ Nguyễn Đồng Triệu ra khỏi Sen Đỏ. Con cá mập, con bạch tuộc ấy đã ngoạm dần Sen Đỏ. Chúng tôi không gỡ được số vốn bị ngoạm, nhưng cũng đủ trí và lực để tống cổ nó. Đừng hòng biến tôi và các bạn ở đây thành lũ sâu xanh bị chích nọc tê liệt trong tò vò của lão Nguyễn Hà Đông, bố nó! Chúng tôi muốn sống. Hãy cho chúng tôi được sống với. Sen Đỏ chỉ là cái ria thôi mà! Còn với Thương Hoài, chúng tôi không nghĩ cô là Triệu. Chúng tôi không phải mù để không biết Thương Hoài rất tốt bụng, hoàn toàn trong sáng với bạn bè ở đây - Thắp chừng đã hả giận, anh cười nhạt - Nhưng xin cảm ơn lòng tốt. Sen Đỏ không có gì để thế chấp ở ngân hàng, cũng không vay vàng dơ bẩn! Thử hỏi, làm gì Thương Hoài có từng ấy vàng? Cô tốt nghiệp đại học, đi làm sau tôi cơ mà! Cách đây hai mươi hai năm, ông Ngà vào Sài Gòn với cái ba lô và đôi dép cao su thôi mà! - Thắp trút hết bao cay đắng, hằn học vào lời nói thô bạo.

            Những tiếng can ngăn rộ lên. Thương Hoài - Đào Hải giận tím mặt. Hãng sững điếng, không ngờ Thắp nói vỗ mặt như vậy.

            - Đúng là dở hơi! Điên, gàn dở! - Thương Hoài chỉ chống chế, đứng dậy ra về - Tôi đã bảo, tiền của ngân hàng. Anh điếc sao? Nghe bằng hai lỗ tai hằn học, căm hận, chả hiểu đầu đuôi gì cả! Đừng giận cá chém thớt! Bố tôi làm nhục và đuổi các anh, ép các anh, tôi vô can!

            Đào Hải cười sặc sụa, nói như rít lên:

            - Lòng tốt ngu muội của đàn bà, con nít, và sự sạch sẽ của những thằng khùng! Tại sao tôi lại sa vào cái trò vớ vẩn này nhỉ!

            Đào Hải hầm hầm bước ra xe, chỗ Thương Hoài đang đợi. Cả hai không ngờ Thắp lại choảng một đòn đau đến thế.

            Đau đến tỉnh người. Hai tháng rồi, lúc này, ngồi đợi bố về, Thương Hoài vẫn còn ngơ ngác. Tất cả đã xảy ra như một vở rối, một màn tuồng của các nhân vật trẻ tuổi, được sinh ra từ sách vở và đời thật. Sách vở quá đẹp, đời thật còn quá bẩn. Sự hôn phối của hai cực sinh ra họ. Đạo đức học bao giờ chẳng đẹp. Đời thực vẫn còn, vẫn còn quá nhiều tanh tưởi máu và bùn. Có phải thế không? Thương Hoài mơ hồ chất sinh viên lẫn chất đời ở họ là đúng.

            Hai tháng rồi, cô lai tỉnh, quyết thuyết phục bố. Cô nghĩ, đừng để quá muộn. Đã có vài vụ án được xét xử công khai, đăng báo công khai từng chi tiết. Vài bị cáo đã bị tử hình thật đích đáng. Họ có những hành vi không khác ông Vũ Hồng Ngà là mấy. Cô không muốn bố bị xử bắn. Cô biết, không cản được bố, chắc chắn bố sẽ bị xét xử, và cái chết tử hình, sẽ không tránh khỏi.

            Những quan hệ bạn bè dậy lên nỗi cay đắng. Sự bùng phát phẫn nộ, dù là giận cá chém thớt vô lí đi nữa, cộng với hồi chuông cảnh báo của tòa án, của báo chí, cộng với niềm đau từ một số đơn nặc danh chỉ đích danh ông Vũ Hồng Ngà, cô đang nắm giữ, buộc Thương Hoài phải thuyết phục bố, để cứu bố và cũng để cứu cán cân Công lí ít nhiều đang còn bị khuất trong thoáng bóng tối nào đó của tòa án. Không thể không có pháp luật, công lí lẫn công luận. Nếu ai cũng như các tử tội đã bị xử bắn vừa rồi, ai cũng như bố, không người dân nào còn sống nổi, cả đất nước sẽ bị lệ thuộc như một con sâu xanh trong tổ tò vò là quả đất - thảm trạng do những lũ giặc kinh tế nội địa tại các nước nghèo, mà trên chúng, đằng sau chúng là vài đế quốc siêu cường. Cô chua xót nghĩ ngợi.

            Thương Hoài nhìn đồng hồ. Đã năm giờ. Mẹ đang cùng cô bé giúp việc nấu cơm. Bố đi đâu sau giờ làm việc?

            Khoảng nửa giờ sau, ông Ngà về. Bà Hồng Ngọc từ nhà sau, nghe tiếng xe, đi nhanh ra đón ông.

            - Thương Hoài nó đợi ông gần một tiếng đồng hồ rồi đấy - bà Hồng Ngọc vừa bực mình, vừa lo âu - Tôi cũng phải tránh nó...

            - Đào Hải có ở đó không? Ông bóp chết cả cặp bây giờ! Con cái phản phúc, mất dạy! - ông Ngà cười nhạt.

            Bước vào nhà, ông ném cặp da xuống nệm xa lông:

            - Có việc gì mà đợi thế! Truy bức, ức hiếp bố mẹ ư!?

            Thương Hoài đứng dậy, rồi ngồi xuống:

            - Bố mẹ cứ bình tĩnh.

            Ông Ngà ngồi xuống cùng lúc với bà Hồng Ngọc:

            - Bình tĩnh? Cô dạy khôn bố mẹ cô sao?!

            - Không còn lối thoát nào đâu. Con đã nói với bố mẹ hàng chục lần rồi - Thương Hoài vừa van vỉ, vừa cứng cỏi.

            - Thoát cái gì! Ai làm được gì nhà này? Trứng đòi khôn hơn vịt! Mấy thằng lỏi con mới bị "dựa cọc", ăn đạn. Bố của cô không ai làm được gì đâu. Mọi cái đều có chứng từ. Cả mấy căn nhà đều là hàng hóa mua đi bán lại, lãi đẻ lãi, nhờ sự vọt giá nhà. Sợ cái quái gì - ông Ngà cười khẩy.

            - Bố nên nghĩ lại mấy cái đơn nặc danh!

            - Đã lấp hết rồi. Mèo đi ỉa còn biết giấu cứt, lẽ nào sói đầu vì công tác mà bố của cô còn ngu sao. Sao cứ quấy bố thế? Cô cứ im mồm, đừng bươi ra là được.

            - Nhưng người ta vẫn tính toán được. Người ta sẽ thấy không có lãi nào như thế. Và cái gì chứ cái nghề xây dựng, người ta có thể sờ tận tay tội ác được. Vàng non, vàng già, máy điện tử vẫn đo lường được, nữa là gạch, bê tông. Cái hiển hiện, chứ không phải các thứ phủi tay là xong!

            - Thây kệ nó - ông Ngà cười - Đã có kẻ chết thay bố của cô! - giọng ông Ngà đã hơi nhỏ lại, cái cười đã gượng.

            - Bố ạ, bố nên tự thú đi là hơn. Đó là lối thoát. Đơn nặc danh vẫn có giá trị bố ạ. Người ta đang điều tra theo đơn, và sẽ lòi ra các vụ chưa kê trong đơn. Nếu sống trong sáng, sợ gì đơn nặc danh và điều tra. Đằng này, con biết bố sẽ không thoát nhà đá được đâu. Con nói, để rồi, bố vào tù, bố đừng trách con không cho bố biết các lá đơn nặc danh đó! - Thương Hoài nuốt nước bọt, cay đắng.

            - Viết tay hay đánh máy? - ông Ngà hơi chột dạ - Ai viết? Huỳnh? Hoài Nhớ ? Lãng? hay Hãng và Thắp?... - ông Ngà hơi bối rối, thấy kẻ bị ông hại còn quá nhiều.

            - Hãng và Thắp chẳng thèm nặc danh, dẫu viết đơn nặc danh vẫn chính đáng. Đó là một quyền của công dân.

            - Vậy thì... - ông Ngà nhớ không xuể những cái tên bị ông vấy bùn và máu - Lão Tuyển bí thư chi bộ ư?

            - Bây giờ bố còn hỏi thế! Nếu người ta không viết, con cũng viết đơn nặc danh để tố cáo bố. Con sẽ hiếu với dân, chứ không phải với bố - Thương Hoài buột ra một phát đạn cuối cùng từ lương tâm mình - Bố cũng là một thứ ngụy, tay sai đế quốc và tư sản thôi. Bố con mình, từ phút này, đã là đối phương của nhau. Xin bố rõ. Biết bao nhiêu người gặp bi kịch bởi có người lãnh đạo như bố. Bố cũng chẳng khác gì lão Nguyễn Hà Đông, thằng Nguyễn Đồng Triệu. Chính bố, công ti của bố, cùng cha con lão Nguyễn Hà Đông đã biện minh cho sự lấn lướt của tư sản nước ngoài và việc hàng hóa họ tràn ngập cả thị trường. Sự chết dở của cơ sở thiết kế - cung cấp vật liệu xây dựng Sen Đỏ cũng do sự câu kết thủ lợi này. Bố và cha con lão Nguyễn Hà Đông đã mại bản, khiến các công ti, xí nghiệp quốc doanh chân chính phải điêu đứng, các nhà tư sản dân tộc có tâm huyết phải phá sản, hoặc èo uột, công nhân và nông dân bị chèn ép. Bố phải tự thú, trả lại của cải bất chính cho các nạn nhân của bố, cho Nhà nước.

            - Con đừng bài bản, nói kiểu tuyên huấn với bố nữa, Thương Hoài ạ - bà Hồng Ngọc đỡ lời cho chồng - Giữa cơn lốc thị trường, ai cũng bị cuốn đi. Không làm như bố, sẽ không tồn tại được. Người ta sẽ xô ngã bố, bứng bố đi, ném bố vào đầm lầy hôi thối - bà nghẹn ngào, tái xanh.

            Ông Vũ Hồng Ngà im lặng, mỏi mệt. Mấy tháng rồi, ông cũng lo âu, căng thẳng theo dõi các vụ án kinh tế, lại nhức đầu với con gái. Ông hiểu Thương Hoài cũng lo sợ, ít nhiều cũng thương bố mẹ, muốn tìm lối thoát cho ông. Có điều, tội ác này muốn bịt kín, lại phải bằng tội ác khác. Tội ác đẻ ra tội ác. Cả một dây chuyền tội ác. Bao người oan khuất, ngậm đắng nuốt cay vì ông! Ông thở dài, rùng mình nghĩ đến ngày quả báo nhãn tiền ở nhà tù, tòa án và pháp trường. Quy luật tồn tại khốc liệt thật. Cạnh tranh. Thủ đoạn. Sự quả báo nhãn tiền theo quy luật nhân qủa hiện thực cũng ghê rợn. "Gieo gió gặt bão"! Đến cô Tấm mà cũng dội nước sôi, làm mắm em gái mình là Cám! Chả có Đức Phật, Thượng đế nào điều khiển sự trả thù khủng khiếp ấy. Sự lạnh lùng, nghiêm khắc của luật nhân quả! Thương Hoài sẽ tố cáo ông? Vợ ông rồi cũng thế sao? Tận trong thâm tâm họ vẫn tố cáo ông, ghê sợ ông, dù có thể vẫn còn đồng lõa với ông. Thương Hoài định viết đơn nặc danh để tố cáo ông ư? Nó đã khác với nó trước đây rồi! Ông rùng mình nghĩ đến những viên đạn ở pháp trường sẽ được ai đó bắn thay bao cô Tấm nạn nhân của chính ông.

            - Xử tử thằng Ngà bất công này, chỉ rước thằng Nguyễn Hà Đông bất công tàn bạo kia thôi - ông buột miệng, ngỡ như nói một mình, ngỡ như nói ở cột tử hình tại trường xử bắn.

            Thương Hoài giật mình. Bà Hồng Ngọc lo lắng nhìn ông, cảm thấy vẻ bất thường ở chồng. Trong một thoáng, bà hoảng hốt thấy bằng khen, bằng huy chương, bằng gia đình vẻ vang của nội, ngoại Thương Hoài từ vách tường bay đến, tát vào mặt vợ chồng bà. Suýt rú lên, nhưng vẫn còn nhận biết đó là ảo ảnh, bà cố định thần. Bà nói trong tiếng thở hắt:

            - Thôi. Con về đi, Thương Hoài ạ. Có lẽ bố mệt.

            Ông Vũ Hồng Ngà ngả hẳn đầu lên lưng ghế, ngẩng mặt nhìn trần nhà. Chùm đèn trần lóng lánh thủy tinh đắt tiền cơ hồ sắp rơi xuống giập nát mặt ông. Ông vẫn ngẩng mặt cười mê dại. Ông cười, nghĩ con gái dạo này sao lí sự thế. Ông vừa buồn cười, vừa thương con. Ông nói, chậm rãi, buồn rầu :

            - Bấy giờ con giết chết bố cũng đáng đời bố mà. Bởi bố đã tiêm nhiễm mùi tanh tưởi bùn và máu cho con thời bé nhỏ đến giờ... Lấy máu của bố rồi nước mắt của mẹ mà gột rửa, Thương Hoài ạ.

            - Thôi! Ông nói gì kinh sợ thế! - bà Hồng Ngọc và cả Thương Hoài bỗng kinh hoảng.

            - Không! Không! Chỉ có tự thú thôi, là nhẹ bớt tội. Không còn cách nào đâu, bố ơi!

            - Con bé này! - bà Hồng Ngọc gắt - Đã có gì đâu mà rối lên thế. Tẩu tán tài sản rồi xin về hưu là xong. Tự thú cái gì!

            Thương Hoài không phải không nghĩ đến điều đó. Nhưng công an đã điều tra, họ đã nắm rõ. Tang chứng trong ngành xây dựng không giấu được. Nhân chứng vẫn còn đó, họ sẽ mở khóa trên miệng họ để tố cáo. Cô nhớ đến Hãng, nhớ đến Thắp, Hoài Nhớ, tên Gion, tên Thủy, lão Hà Đông, Nguyễn Đồng Triệu và bao nhiêu kẻ tay chân khác. Nạn nhân, lũ chủ mưu, bọn đồng lõa còn đó. Đúng rồi, phải tố cáo những tư sản nước ngoài và nội địa nữa. Thương Hoài nghiến chặt hai hàm răng. Cô biết mình phải chiến đấu. Phải hiếu với dân, phải nghĩa với dân, phải trung với nước. Không thể "đời là thế" ở chuyện này được! Những kẻ gian ác không thể chạy tội!

            Cô quắc mắt nhìn bố. Thương Hoài nghĩ bố đang đóng vai kịch ra vẻ ân hận. Cô không thể tin bố được. Bao giờ bố tự thú trước cơ quan pháp luật, chịu bị thu hồi tài sản thật sự, cô mới tin, mọi người mới lấy lại được niềm tin vào công lí, tình yêu cuộc sống trần gian này, tình yêu và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng. Không thể đánh đổ bất công cũ để chịu đựng bất công này, đánh đổ bất công này để chịu đựng lại bất công cũ! Không, không phải ai cũng như bố đâu, bố ạ - Thương Hoài muốn hét lên - Những người trẻ phải dự vào công việc quản lí Nhà nước, để cùng những cán bộ đứng tuổi, hồng thắm, chuyên sâu, đầy kinh nghiệm và giữ được sự liêm khiết, góp phần làm trong sạch guồng máy quyền lực ấy! Không ai phải gặp bi kịch vì sự hám của, hám tiền, thói quan liêu và ngu dốt nữa. Không ai phải gặp bi kịch bởi kẻ lãnh đạo cơ quan bán mình cho đế quốc nữa. Và Hãng ơi, Thắp ơi, Tre Trúc ơi... tôi vẫn tin vào lòng tốt, vào tình người cho dẫu ngộ nhận nhau đến thế nào! Những ngộ nhận sẽ sáng tỏ, còn lòng tốt, tình người, tình bạn mãi ấm lòng người, cứu rỗi trái tim người! - Vũ Thương Hoài úp mặt vào hai bàn tay. Cô cũng biết những lạng vàng bố mẹ cho, cô tự kiếm được, từ lâu là các ổ khóa bấm vào hai bờ môi của cô để "khóa miệng" chính cô! Nhưng không thể cam chịu mãi được! Thương Hoài vẫn tin vào sức mạnh công lí và chủ nghĩa xã hội, một chủ nghĩa xã hội không phải thoát thai từ óc chuyên chế phong kiến, từ ý thức của nếp nghĩ hoặc quá lỗi thời hoặc quá vong thân, tha hóa, sùng ngoại của một số cán bộ địa phương, một chủ nghĩa xã hội tỏa ánh sáng công lí cho mỗi công dân và từ mỗi công dân, với độc lập, tự do, dân chủ cho mỗi nhân phận, mỗi dân tộc (của nhiều nhân tộc)... Thương Hoài bật khóc trước bố mình, khóc nức nở.

            - Giá như cả nhà này đều là thầy tu khổ hạnh, hoặc đồng lương không phải ba cọc ba đồng chết đói, có thêm chút tiền bảo liêm để giữ liêm sỉ giữa thời buổi kích thích tiêu dùng và xa hoa này! - bà Hồng Ngọc vừa than vãn vừa phân trần - Không thể với đồng lương ấy mà thanh liêm được!

            - Nói thẳng là lòng tham không đáy đi bà ạ! - ông Vũ Hồng Ngà cười sằng sặc một cách điên dại.

            Không thể nhầm được, cả bà Hồng Ngọc lẫn Vũ Thương Hoài đều thấy và nghe ông Ngà đang cười sằng sặc, bỗng cười như tiếng chó sói tru lên, thật kinh sợ. Có lẽ ý niệm nghiệp trong vô thức bỗng trỗi dậy, buộc ông phải trả nợ suốt bao năm tháng nay ông đã vay - nợ mồ hôi, nước mắt, nợ nỗi đau nhân phẩm! Yằ niệm nghiệp và nhân quả của Phật giáo hai nghìn năm hơn vẫn chảy trong vô thức dân tộc, chính ông Ngà cũng không rõ.

            Ông Ngà đạp, gí, ngỡ giun đất dưới chân, và tru lên như con sói thật, rồi ngã qụy. Ông cũng ngỡ mình là nai bị sói ăn thịt, là giun bị chính vợ con giày xéo. Bà Hồng Ngọc, Thương Hoài, nước mắt trên mặt đầm đìa, sửng sốt nhìn ông, rồi cùng bổ tới đỡ ông dậy. Thật ra ông Ngà chưa ngất đi, chỉ quá căng thẳng, mệt mỏi, và ý tưởng buông xuôi, phủi nợ gần đây nẩy ra trong ông, khiến ông muốn yên nghỉ. Ông nằm dài trên ghế, nói thều thào như trong ác mộng với giọng hoang dã:

            - Tôi là cá mập, là bạch tuộc xuyên quốc gia, là chó sói liên lục địa. Tôi là Nguyễn Hà Đông cáo già, là Nguyễn Đồng Triệu cáo trẻ. Tôi bị thằng Gion, con Thủy Lê Thị chích vào tim một loại máu có tên là "Diễn biến hòa bình", tôi đã biến hình. Ơi Hãng, ơi Thắp... ơi bao người thợ... hãy tha cho tôi, cho dù tôi phải bị tử hình... Hãy tha nợ cho tôi... Tôi cũng chẳng muốn hóa kiếp thành nai, thành giun... Kiếp sau, xin cho tôi lại làm người, con người chân chính - ông níu vào quan niệm siêu hình.

            - Còn dục vọng tham lam bẩm sinh trong bố nữa, bố ơi! Tư hữu, lòng tham không đáy là thằng giặc tư bản chủ nghĩa trong tim bố! Dục vọng ấy cộng với loại máu chó sói, máu cá mập, máu bạch tuộc, máu cáo già! Bố cũng cơ hội như các cán bộ ở Liên Xô, ở Đông Âu đấy thôi... - Thương Hoài nói như mê sảng.

            - Có "máy huyền vi mở đóng khôn lường" (21) điều khiển không nhỉ? - bà Hồng Ngọc lẩm bẩm trong cơn cảm ứng bởi không khí thảng thốt giữa ba người - Có loại máy điện tử ấy không? Nhân loại thành người máy rô bốt (robot) từ năm nào? "Máy huyền vi" ấy vốn có từ vô thủy đến vô chung của vũ trụ ư? Từ khi sinh vật và rồi nhân loại hình thành đến nay, mọi sinh linh đã bị thế, và rồi vẫn bị thế? Mọi sinh linh nhai xương, xé thịt nhau bằng cách này hay cách khác mãi sao? Thượng đế độc ác đến vậy sao?! - bà mê tín lẩm nhẩm trong miệng.

            Bà Hồng Ngọc chưa kịp thấm hiểu luật nhân quả duy vật sâu xa hơn. Bao người đã bị ô nhiễm do sự thối nát trong từng ý nghĩ thâm độc, trong từng hành vi, thủ đoạn mờ ám của ông Ngà. Sự thối nát ấy đã tạo nên nghiệp chướng cho vô thức cộng đồng, từ gia đình đến xã hội! Chính Thương Hoài phải vật vã, giằng xé để gột rửa sự ô nhiễm ăn sâu vào máu thịt bản thân, và nhờ vậy, nghiệp chướng lại sẽ làm sáng tỏ hơn, có thể đến mức chói sáng, Phật tánh trong tâm thức cô...

            Thương Hoài thoảng nghe đâu đây hương ngôn từ nhà Phật từ Sen Đỏ...

 

 

 

Xem tiếp:

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/sen_dbthbinh-5.htm

 

Cũng có thể xem tại:

 

http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/

Trở về trang

danh mục tác phẩm -- muc lục:

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/danhmtphamtxa_googlepcreator.htm

 

bài mới -- sách mới -- tin tức mới: 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/baimoi-sachmoi-2

______________________________________________________________________________________________________________

 

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/home

 

 

Google page creator /  host

 

GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE  

 

    lên đầu trang (top page)   

 01 & 02-5 HB7 (2007) = 15 & 16-3 Đinh hợi HB7