f. Trần Xuân An - Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường - Tệp 6 / tập IV

author's copyright

TRẦN XUÂN AN

07/01/09

13-04 HB6

( 2006 )           

 

TẬP IV

 

 

Tệp 1

 

Tệp 2

 

Tệp 3

 

Tệp 4

 

Tệp 5

 

Tệp 6

 

Tệp 7

 

Tệp 8

 

Tệp 9

 

Tệp 10

 

Tệp 11

 

________

 

Hình ảnh:

 

Tệp 12

 

Tệp 13

 

Tệp 14

 

Tệp 15

 

Tệp 16

 

________

 

 

TẬP I

 

TẬP II

 

TẬP III

 

TẬP IV

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Kính dâng lên bàn thờ cao tổ phụ:

NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886)

 

Trần Xuân An,

nội hậu duệ thế hệ thứ năm.

 

 

 

 

Tặng hai con thương quý của ba:

 

TRẦN XUÂN BÀI THƠ

& TRẦN XUÂN NHÂN VĂN

 

TXA.

 

 

 

 

Xem:

Blogger (Google) tháng 12-2005

http://tranxuananpcdtnvt4a.blogspot.com/

   & các trang tiếp theo: … 2a … 2b … 2c …

 

 

 

Tệp 6 –  Tập IV  

(phân đoạn 1, truyện kí thứ 12)

 

 

TRẦN XUÂN AN

 

KINH ĐÔ QUẬT KHỞI

VÀ QUỐC KẾ CHIA TÁCH – PHỐI HỢP TRIỀU CHÍNH

 

Truyện kí thứ mười hai

(phân đoạn 1)

 

 

 7

 

         “[PHỤ CHÍNH NGUYỄN] VĂN TƯỜNG TÂU XIN VUA VÀ XA GIÁ BA CUNG [:TAM CUNG] ĐI RA KHIÊM CUNG TẠM THỜI LÁNH LOẠN:

 

      (Khi ấy [Phụ chính Nguyễn] Văn Tường đã vào bên Tả vu [Điện Cần chánh]. Một lát, [ông] xin mở cửa Hoà Bình, đến chỗ [phụ chính Tôn Thất] Thuyết điều khiển. [Phụ chính Nguyễn Văn Tường] nhìn trông [tình hình], biết là thất bại rồi, [nên] lại vào Tả vu, tâu xin vua xuất hành.

     Trong khi vội vã, [ông] chỉ soạn được cái ấn ở ngự tiền, văn lí mật sát, và ấn kiềm, hai quả, với [vật] hạng để vàng bạc, [bảo] đồ đệ đem theo).

      [Phụ chính Nguyễn Văn Tường] dùng hữu quân đô thống là Hồ Văn Hiển phù xe. Giờ thìn [07 – 09 giờ sáng] hôm ấy, [xa giá vua Hàm Nghi và xa giá Tam Cung] bắt đầu từ cửa Tây nam ra” (50) .

 

      Gần sát cửa Tây nam, phụ chính Nguyễn Văn Tường nhìn vào bốn chiếc kiệu ngự giá. Chiếc đầu tiên là của vua Hàm Nghi, ba chiếc kế tiếp phía sau là của Từ Dũ thái hoàng thái hậu, hoàng thái hậu Vũ thị (trung phi) và hoàng thái phi Nguyễn Văn thị (học phi). Những chiếc kiệu, võng khác là của các hoàng thân, của bà Nguyễn Nhược thị Bích (người vợ giỏi chữ, thơ hay nhất của vua Tự Đức)… Bấy giờ, tiếng súng tấn công của bọn Pháp, tiếng súng phản công của ta đang nổ rền. Nhưng tiếng súng giặc vẫn phân biệt được, quả thật, đang nổ át cả tiếng súng quân ta. Nhân dân dắt díu, bồng bế nhau, nhờ các viên lính Hữu quân đang làm nhiệm vụ hộ tống xa giá, tâu xin cho phép họ ra khỏi thành. Trẻ con kêu khóc inh ỏi thật xốn xang gan ruột. Nhưng các viên lính cầm ngang cây giáo, ngọn thương, tạm ngăn lại. Không thể chần chừ, phụ chính Nguyễn Văn Tường tâu xin xa giá tạm ngừng lại trong lòng cửa thành khá rộng, để tránh rủi ro do đạn đại bác của giặc Pháp.

      Không đợi ông tâu lần thứ hai, thái hoàng thái hậu Từ Dũ hỏi ngay:

      - Quan quận công phụ chính đó ư? Thế trận có cầm cự được lâu không?

      - Tâu, thần thấy bọn Pháp đã ồ ạt tấn công từ hai phía. Hình như quân của chưởng vệ Trần Xuân Soạn đang cố chận giặc ở Anh Danh. Còn phía Sứ quán, bọn Pháp đang vượt sông. Tình thế khó cầm cự được lâu.

      - Thế thì khanh định đưa xa giá và lão cung cùng Hai Cung đi đâu? Trường thi, Khiêm lăng hay Tân Sở?

      - Tình thế này, theo ý thần, Tam Cung vẫn lên Khiêm lăng như dự định, còn đức vua cứ lên Trường thi… Phải chia ra hai cánh, vì sợ chúng sẽ truy kích. Thần sẽ hội ý với quan tướng phụ chính sau về địa điểm phải xuất hạnh.

      - Khanh nên vì đức vua, lão cung và Hai Cung cũng như hoàng thân, đình thần, lưu lại đây với chúng để giảng hoà (51).

       Sau một thoáng ngẫm nghĩ, phụ chính Nguyễn Văn Tường liền nói với giọng cương quyết:

      - Thần xin tuân lệnh. Thần cũng có ý định, nếu chúng truy kích gắt quá, thần sẽ cản hậu bằng cách đưa thư thương thuyết cho tên tướng De Courcy. Hắn sẽ phải ngừng động binh cho đến khi đức vua và Tam Cung ra đến Tân Sở. Thần cũng dám biết vị quốc vong thân. Đức vua và Tam Cung phải được bảo toàn để lo toan cho mai hậu. – Giọng quan phụ chính Nguyễn Văn Tường bỗng nghẹn ngào, nhưng ông quyết giữ vẻ bình tĩnh –. Thần xin tuân mệnh… Có thể, thần sẽ không được dịp còn sống sót để gặp lại đức vua và Tam Cung… Các quả ấn “Văn lí mật sát” , ấn kiềm, vàng bạc, thần đã trao cho chưởng vệ Hữu quân Hồ Văn Hiển, bảo ông ta hết sức chú tâm bảo vệ. Xin xa giá lên đường lên phía chùa Thiên Mụ, kẻo trễ mất. Hữu quân sẽ đi trước mở đường, đi sau để hậu vệ. Xin hoàng thượng và Tam Cung yên lòng.

      Phụ chính Nguyễn Văn Tường nghe có tiếng khóc từ trong các chiếc ngự giá.

      Cố nén lòng lại, ông ra lệnh cho chưởng vệ Hồ Văn Hiển phù giá lên đường ngay.

 

      “[PHỤ CHÍNH NGUYỄN] VĂN TƯỜNG VÂNG Ý CHỈ CỦA TỪ DỤ THÁI HOÀNG THÁI HẬU VÀ LƯU LẠI GIẢNG HÒA (52).

 

      [Phụ chính Nguyễn Văn Tường] tức thì đi tắt [:đi không có nghi trượng theo quy cách dành cho đại thần] vào nhà thờ đạo Kim Long” (52) .

 

      Với số quân khoảng năm chục viên, ông lên kiệu đi tắt đến giáo đường Kim Long để quyết gặp giám mục Caspar. Trong phương án cản hậu, chặn sự truy kích của giặc Pháp, ông cũng đã bàn với Tôn Thất Thuyết dự kiến này. Ông cảm thấy thật xấu hổ, vì cũng chính giám mục Caspar này đã đón tiếp Trần Tiễn Thành, Nguyễn Trọng Hợp lúc thất thủ thành luỹ ở Thuận An! Nhưng ông tự dặn lòng, ông không bao giờ, không mảy may nào giống với hai tên quan chủ “hoà”, xu thời một cách vị kỉ đó. Ông không bao giờ đầu hàng. Nói thẳng ra, lúc này, ông chỉ trá hàng và sẽ chỉ trá hàng mà thôi. Phụ chính Nguyễn Văn Tường cố nén cảm giác xấu hổ ấy, để ra hiệu lệnh cho mấy viên hầu cận chỉ huy đội lính cận vệ. Ông bảo họ, một nửa phải luôn luôn đi sát ông, một nửa kia lo canh gác các cửa ra vào thuộc khuôn viên giáo đường. Ngoài ra, thấy những toán lính Phấn nghĩa nào ra khỏi thành, chạy lên đường này, phải gọi lại để bổ sung quân. Có gì bất trắc, phải kiên cường chiến đấu. Dặn xong, ông ra lệnh cho phu kiệu bước ngay.

      Từ cửa Tây nam lên đến giáo đường và chủng viện Kim Long chỉ vài dặm ta.

      Hai cánh cửa trước sân rộng thuộc khuôn viên giáo đường mở ra, sau khi một người lính rung chuông và trao danh thiếp của quan đệ nhất phụ chính. Trong giáo đường, các cố đạo Pháp lẫn linh mục, thầy giảng người Việt đã biết sự biến xảy ra từ lúc mới nổ súng. Cố nhiên, họ đã biết kinh thành sẽ thành trận địa từ rất lâu trước đó!

      Nghe lời bẩm báo có quan đệ nhất phụ chính đại thần đến trong lúc cấp bách này, giám mục Caspar cảm thấy quá bất ngờ. Sau một thoáng bàng hoàng, y nhếch môi cười nửa miệng. Giám mục Caspar biết thế nào cũng có một viên quan đến nhờ y giúp cho việc cầu “hoà”, như Trần Tiễn Thành, Nguyễn Trọng Hợp trước đây, nhưng y không ngờ đó lại là quan đệ nhất phụ chính Nguyễn Văn Tường, người đứng đầu phe chủ chiến, vốn cứng rắn, người chưa từng một lần y được gặp. Giám mục vội ra tận sân đón tiếp.

      Vào phòng khách, cố giữ vẻ điềm tĩnh, ung dung thường ngày, phụ chính Nguyễn Văn Tường nói ngay:

      - Không biết giám mục vui lòng hay phiền lòng khi tôi đến đây? Hiện tại là sự biến bất ngờ. Tôi chưa rõ, nhưng thôi thì cứ tạm cho là do quan tướng phụ chính nổ súng trước. Dẫu sao, tình thế rất cấp bách. Vậy tôi nói ngay, tôi cũng như đức vua, Tam Cung và hầu hết đình thần, hoàng thân đều  “không biết chi hết”  về sự biến đang xảy ra. Cho nên, ý định của tôi và lệnh dụ của Từ Dũ thái hoàng thái hậu là mong giám mục sẽ chuyển giúp cho ý kiến của tôi, thay mặt đức vua, Tam Cung, triều đình, kể cả hoàng tộc, nhắn gửi đến tướng De Courcy, khâm sứ De Champeaux, là tôi muốn được gặp tướng De Courcy ngay lập tức để chấm dứt sự nổ súng. – Phụ chính Nguyễn Văn Tường nói tiếp –. Đề nghị giám mục cho người truyền đạt ý kiến ấy ngay cho. Phải vội, không thì sẽ muộn mất.

      - Vâng, nhưng quan phụ chính cũng nên viết vài chữ để tôi bảo một giáo sĩ chạy qua bên Sứ quán trao cho tướng De Courcy?

      - Thế thì nhờ giám mục viết luôn cho tướng De Courcy ấy. Ông ta sẽ tin ở giám mục.

      - Vâng, có lẽ phải như vậy. Và sẽ có người chạy đưa thư của tôi ngay. Xin mời quan phụ chính ngồi xuống đã.

      Phụ chính Nguyễn Văn Tường sực nhớ mình đang đứng. Ông ngồi xuống. Lát sau, ông thấy giám mục Caspar viết một bức thư có nội dung như ông vừa nói với ý định cố giữ sự hoà hảo giữa hai nước trong tình hình này thì tốo”hơn. Và ông còn đọc thấy, giám mục đã thể hiện rõ ý tưởng, rằng, sẽ không cản nổi một vụ tương tự như hai trường hợp Françis Garnier (1873), Henry Rivière (1883) hoặc cuộc chiến tranh lương – giáo như ở Nghệ – Tĩnh mười hai năm trước (1873 – 1874); và phụ chính Nguyễn Văn Tường hoàn toàn không chịu trách nhiệm về sự việc có thể xảy ra, nếu De Courcy tiếp tục bức bách nhà vua, Tam Cung, triều đình và hoàng thân, bởi nhân dân, sĩ phu, quan chức đã căm uất quá rồi. Sự căm uất ấy, nếu nhìn nhận một cách khách quan, là rất chính đáng. Phụ chính Nguyễn Văn Tường cũng đã nói rõ: Người Pháp và các cố đạo Pháp sẽ bị tấn công, nếu De Courcy tiếp tục gây chiến, bức hiếp như vậy. Ý của phụ chính Nguyễn Văn Tường là mong De Courcy không nên kích động giáo dân và bọn “phù Lê” cướp chính quyền hoặc dẫn quân binh truy kích đoàn ngự giá, dồn triều đình và sĩ dân đến chỗ phải quyết chiến cho dẫu sự thể sẽ xảy ra như thế nào.

      Phụ chính Nguyễn Văn Tường nhờ viên thông ngôn, phiên dịch của mình đọc lại. Ông thấy trong bức thư ấy, đã thể hiện được một vài ý tưởng chỉ là hăm doạ De Courcy để y không truy kích đoàn ngự giá mà thôi. Đó là đòn khóa chặn âm mưu kích động giáo dân “tả đạo” và bọn “phù Lê” cướp chính quyền. Đó cũng là kế cản hậu và hoãn binh (53). Vả lại, thật ra, hơn ai hết, ông biết rất rõ toàn bộ binh lực của triều đình đã được phụ chính Tôn Thất Thuyết dốc hết vào trận tấn kích và cố thủ từ lúc nửa khuya về sáng đến lúc này. Nếu có tái diễn những trận đánh như hai vụ FranÇis Garnier, Henry Rivière thì phải dăm bảy tháng sau, nếu vũ khí, đạn dược của quân Cần vương còn đầy đủ.

      Giám mục Caspar viết thêm một vài dòng tái bút:

      “Tôi là giám mục Caspar, tôi chỉ viết lại những ý kiến giảng hoà của phụ chính Nguyễn Văn Tường, người đang tuân theo sắc văn (lệnh dụ) của Từ Dũ thái hoàng thái hậu và đại diện cho triều đình Đại Nam. Sở dĩ tôi viết thay thư này là bởi lí do: Muốn để quý đô thống tướng De Courcy và khâm sứ De Champeaux tin tưởng” (54).

      Phụ chính Nguyễn Văn Tường thúc giục giám mục chuyển ngay đến cho De Courcy.

      Bảo người thân tín chạy giao thư, ngay trong lúc tiếng súng tuy đã ngớt nhưng vẫn còn nổ, giám mục Caspar tỏ ra nhiệt tình. Đúng là y rất nhiệt tình, bởi y chỉ mong nước Pháp và giáo hội của y sẽ “bảo hộ” Đại Nam một cách chặt chẽ, nghĩa là thắng lợi sắp đến nơi. Y cảm thấy rất khó khăn nếu thực hiện cho được ước muốn trước đây là lật đổ, tiêu diệt hẳn triều Nguyễn để lập nên một Nhà nước mới hoàn toàn Thiên Chúa giáo. Từ lâu, y biết phải theo kế sách “tàm thực” lâu dài, chứ không thể đánh nhanh, ăn nhanh như dự định ban đầu, ít ra là từ mấy chục năm trước, của các cố đạo, các quan tướng viễn chinh Pháp được. Và lúc này, dẫu là một tên gián điệp sừng sỏ, nhưng giám mục Caspar, y cũng chưa biết kế sách của hai phụ chính như họ đã bàn với nhau.

      Chuyện trò thêm một lát, giám mục Caspar mời phụ chính Nguyễn Văn Tường dùng bữa. Quan phụ chính có một thoáng ngần ngại. Thuốc độc, biết đâu? Nhưng ông vẫn cố bày tỏ sự tín nhiệm xã giao. Vả lại, ông từng có kinh nghiệm trong các chuyến thương thuyết ngoại giao với người Pháp. Một cách khôn khéo, ông bảo ông chỉ  dùng bữa theo kiểu thân tình của người Việt, chung mâm, chung tô, chung dĩa. Ông quyết mời giám mục cùng ăn. Ông chỉ ăn món nào giám mục gián điệp Caspar đã xúc, đã gắp vào chén và đã nuốt. Với kinh nghiệm sẵn có, ông vẫn ứng xử được một cách rất tự nhiên. Giám mục gián điệp Caspar tinh ý, y cũng liền bày tỏ thiện chí.

      Phụ chính Nguyễn Văn Tường cố giữ vẻ điềm tĩnh, ung dung nhưng thật ra, ông hiểu ông có thể sẽ bị bắn chết, hoặc chí ít cũng bị bắt làm tù nhân, hoặc làm con tin, ngay trong ngày hôm nay. Ông biết, trong lịch sử đã có nhiều người chết trong trường hợp oái oăm, ngặt nghèo như thế này. Nếu ông chết trong lúc trá hàng này, không ai khác, chính Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi, Tam Cung, đình thần, hoàng thân sẽ thanh minh cho ông. Tôn Thất Thuyết vẫn là người hiểu rõ ông nhất, kế đó là những viên quan quân hầu cận của ông từ lâu và hôm nay, lúc này, chỗ này, tại bữa ăn này. Ông cảm thấy yên lòng, sẵn sàng đương đầu với cái chết.

      

      8

 

      Sau khi phụ chính  “[Nguyễn] Văn Tường vâng ý chỉ của Từ Dụ thái hoàng thái hậu và lưu lại giảng hòa” (55), “[ông] tức thì đi tắt [:đi không có nghi trượng theo quy cách dành cho đại thần] vào nhà thờ đạo Kim Long.

      [Phụ chính Tôn Thất] Thuyết ra sau, gặp [xa] giá, bèn một mình hộ chuyển [xa giá] đến Trường Thi (ở xã La Chử). Nhân [thế, ông] kèm [xa giá] đi ra ngoài [phía] bắc.

      Thự hiệp biện đại học sĩ là Phạm Thận Duật, thự tham tri Trương Văn Đễ, và Trần Xuân Soạn, Tôn Thất Lệ đều đi theo xa giá.

      (Khi đó, [đoàn] tùy [tùng và xa] giá, chỉ có xe loan [:xe vua Hàm Nghi, xe Tam Cung] và lính biền binh lẻ tẻ chầu chực, trên dưới ước một trăm (100) người. Còn dư  [:số còn lại là] các dinh vệ, sau khi thua trận, đều [lập] tức tìm đường tản về quê quán).

      Giờ ngọ [11 – 13 giờ], [đoàn tuỳ tùng, xa giá] mới đến xã Văn Xá [gần Huế]. Nghỉ một chút, [phụ chính Tôn Thất] Thuyết tức thì kèm vâng mệnh vua, [tường thuật] đêm qua, tình hình vua phải ra đi, thông báo cho thiên hạ cần vương. [Đây là thông báo cần vương, chưa phải là Dụ Cần vương phát đi vào ngày mồng 02 tháng 6 Ất dậu (13.7.1885)]. [Ông sai phái lính trạm] lần lượt [thông] tư cho Nam Bắc tuân làm.

      Ngày bính thìn [hai mươi tư tháng năm (06.07.1885)], vua cùng với xa giá Ba Cung [Tam Cung] đến tỉnh Quảng Trị; dừng nghỉ ở hành cung” (55) .

      Còn các quan ta, một số thoát ra khỏi thành được, liền lẩn tránh vào nhà dân ở các xã thôn quanh đó, một số khác tìm đường ra Quảng Trị phò vua và Tam Cung.

       “(Từ thự hậu quân chưởng phủ Nguyễn Hanh, thự thống chế Ngô Tất Ninh, thự Tả quân Đinh Tử Lượng, Công bộ tham tri Tôn Thất Phan, biện lí Trần Khánh Tiến, thuỷ sư hiệp lí Cao Hữu Sung, phủ doãn Nguyễn Đình Dương, toản tu Phạm Phú Lâm cũng đều tiếp nối đến hành tại)” (56).

      Tình hình ở kinh đô Huế và riêng trong kinh thành hết sức bi đát!

       “Đương lúc xa giá nhà vua đã đi rồi, quân Pháp lên kì đài treo cờ hiệu tam tài [:cờ tam sắc, tức là quốc kì Pháp]. Súng bắn vẫn còn ầm vang. Quan lại, nhân dân giành nhau tìm cửa chạy ra, rồi tự dày xéo lên nhau. [Quan và dân bị] chết và bị thương rất nhiều.

      [Với lòng thù hận hai quan phụ chính], quân Pháp bèn đốt hai bộ Lại và Binh (nguyên là nơi [hai phụ chính Nguyễn] Văn Tường và [Tôn Thất] Thuyết ở đó). Và thuốc đạn, khí giới [cũng bị đốt, khói lửa] bốc lên xông trời (hai ngày đêm không tắt). [Bọn Pháp] chia giữ các cửa thành trong, ngoài, và các kho tàng, cung điện.

      Ngày phát gạo kho, [bọn Pháp] thuê vát những dân còn ở trong thành và những bọn ở ngoài lẻn vào (đều là đồ vô lại, nhòm vào toan lấy đồ đạc của quan tư còn bỏ sót lại). [Bọn Pháp còn sai người] sửa đắp các trại lính làm nơi trú đóng [của chúng], và [chúng sai người] nhặt chôn, hoả táng các xác bị chết và bị nạn ở lúc trận vong.

      Dưới đô thành, [nhân dân] nơm nớp sợ, chạy” (57)

 

      9

 

      Một trong những lí do khiến quan đệ nhất phụ chính phải có phương án “kẻ ở”, “người đi” , và chính vua Hàm Nghi, Tam Cung cũng ra sắc văn dặn ông phải ở lại  “giảng hoà” , là không thể để kinh thành, nhất là hoàng thành và nhân dân Huế, phải lâm vào tình trạng bi đát hơn.

      “[Phụ chính Nguyễn] Văn Tường hôm ấy đã vào nhà thờ đạo Kim Long. [Ông] bèn cùng với giám mục Lộc [Caspar] thương thuyết, cùng đến Tòa Sứ trần tình, cùng bàn nỗi khổ với đô thống Pháp [De Courcy], lại xin giảng hòa” (58) .

     Sự thể thực hiện phương án “kẻ ở”, “người đi”, “giảng hoà”  ấy không thể đơn giản, ngắn gọn như thế…

     Lúc khoảng chín giờ sáng nay, De Courcy rất bất ngờ khi một giáo sĩ cải trang làm thường dân xin vào Sứ quán. Bấy giờ, tiếng súng đã hầu như tắt hẳn ở phía hữu ngạn sông Hương. Chỉ ở tả ngạn, phía trong kinh thành, tiếng súng vẫn đôi lúc lại vang lên, mặc dù trên kì đài, cờ tam khoang xanh trắng đỏ được kết bằng dây thắt lưng với mấy mảnh vải, nghe đâu là áo của vợ tên sĩ quan Pháp hoặc Ả Rập nào đó, đã phất phơ bay.

      De Courcy hết sức căm giận khi thấy sĩ quan, quân lính của y có đến hàng trăm tên bị chết, bị thương, và dinh thự nứt vỡ, đồn trại, quân trang bị thiêu rụi. Y định bụng sẽ bắn ngay viên đệ nhất phụ chính,  “kẻ thù không đội trời chung” (59)  với người Pháp kia. De Courcy đọc bức thư, hiểu ngay viên phụ chính Nguyễn Văn Tường vừa thuyết phục, vừa hăm doạ y rằng, ông ta không chịu trách nhiệm nếu người Pháp và các cố đạo Pháp bị quân binh triều đình hoặc sĩ dân tấn công. De Courcy vừa giận, vừa âu lo.

      De Courcy hỏi De Champeaux. De Champeaux vốn là một kẻ rất nhiều năm quyết  “đập tan tành”  thượng thư, phụ chính Nguyễn Văn Tường. Nhưng De Cham-peaux vẫn là một gã thực dân khá khôn ngoan một cách thâm độc. Y lại hiểu tình hình Đại Nam và uy tín của phụ chính Nguyễn Văn Tường. Giết ông ta lúc này thì quá dễ, nhưng tổn thất sẽ rất lớn. Tuy nhiên, việc ông ta quay lại cầu “hoà” là một điều bất ngờ. Ông ta mà đầu hàng thật sao? Hay ông ta đang thực hiện một mưu kế nội công ngoại kích gì đây?

      De Courcy và De Champeaux bàn bạc với nhau hồi lâu, để rồi chúng quyết định phải giam giữ phụ chính Nguyễn Văn Tường. Để giam giữ ông ta, phải bố trí ít ra là một trung đội quân viễn chinh canh gác cẩn mật, do tên đại uý Schmitz vốn rất thận trọng chỉ huy. Sau đó, cả hai tên đô thống, khâm sứ liền nói cho viên giáo sĩ cải trang đưa thư đến: “Hãy đợi một chốc”. De Courcy viết nhanh một lá thư ngắn cho phụ chính Nguyễn Văn Tường, rằng y đồng ý gặp để bàn chuyện “hoà”!

      Gần xế trưa, phụ chính Nguyễn Văn Tường và giám mục Caspar đi thuyền sang bến Sứ quán. Họ được mời vào một dinh cơ tiêu điều, đầy vết đạn, mùi thuốc súng và mùi cháy khét vẫn còn vướng vất, khói lửa còn ngún toả, trước đây là một Sứ quán khang trang.

      Phụ chính Nguyễn Văn Tường chợt nhận ra, cả hai viên đô thống, khâm sứ đều có chữ lót quý tộc là “De” (không biết dòng họ bỏ tiền ra mua hay có công lao thật sự). Ông thấy họ, sau một đêm mất ngủ, không thể không căng thẳng, không thể không mệt mỏi. De Courcy, De Champeaux ngồi đối diện với phụ chính Nguyễn Văn Tường và giám mục gián điệp Caspar. Những người lính cận vệ luôn luôn đứng sát sau lưng quan phụ chính.

      De Courcy đã có thời gian để suy nghĩ, bàn bạc với De Champeaux, nên lẽ ra, phần nào y cũng đã bớt bức xúc. Nhưng lúc này, quả thực, y vẫn không kìm nổi sự căm giận. Y nói phủ đầu để hạ nhục:

      - Quan đệ nhất phụ chính đã  “đem lòng cự chiến, đến đây làm gì?” (60) . – De Courcy căm giận xen lẫn với bối rối đến run cả giọng nói –. Ngài đã chống đánh chúng tôi, ngài còn đến đây làm gì?

      Phụ chính Nguyễn Văn Tường vẫn cố giữ vẻ điềm tĩnh, ung dung:

      - Tôi rất tiếc khi phải đến đây trong tình huống không vui, không hữu nghị như thế này. Nhưng, dẫu sao sự biến cũng đã xảy ra. Nguyên nhân xa và gần tôi đã nói với giám mục Caspar. Nói cụ thể và ngắn gọn thế này, trận chiến xảy ra là do quan tướng quân phụ chính Tôn Thất Thuyết, nếu không phải quân Ả Rập bắn trước. Tuy nhiên, điều đó dẫu sao cũng chỉ là nguyên cớ trực tiếp. Sự thật và nguyên nhân chính như thế nào, phía người Pháp, phía Đại Nam đã hiểu từ lâu, ít ra là mấy chục năm trước, từ khi người Pháp bắt đầu nổ súng vào Đà Nẵng. Còn riêng tôi, tôi không can dự gì, tôi  “không biết chi hết”  vào sự biến này. Tóm lại, thay mặt cho nhà vua trẻ và Tam Cung, hoàng thân, triều thần, tôi trần tình (trần thuật tình trạng) như vậy. Sự biến đã gây ra bao nhiêu chết chóc, tang thương! Thật ra, bản chất cuộc chiến tranh người Pháp tiến hành là không văn minh, là phi nhân. Dẫu các ông căm giận, tôi cũng phải nói thật như vậy. Mấy chục năm qua, Đại Nam buộc lòng phải kháng chiến vệ quốc, thế thôi. Dẫu sao, nỗi khổ cũng đã quá chất chồng rồi! Cuối cùng, tôi mong nên giữ tình “giao hảo” giữa hai nước Pháp – Nam. Như thế hẳn là tốt hơn,  nhất là trong tình hình hiện giờ.

      Thật sự, De Courcy, De Champeaux lúc này cũng như giám mục Caspar hồi sáng, chúng đều không tin phụ chính Nguyễn Văn Tường  “không biết chi hết”  vào sự biến. Có điều, như đã bàn với De Champeaux lúc gần trưa, khi mới nhận được bức thư do viên giáo sĩ cải trang mang tới, nên De Courcy vẫn kiên nhẫn lắng nghe. Y cố ghìm lại cơn tức giận điên cuồng trong lòng. Y dùng ngôn từ xã giao:

      - Thôi được, thưa ngài phụ chính. Tôi mong tình “giao hảo” sẽ tốt hơn giữa hai nước! Tôi cũng rất âu lo là nhà vua, Tam Cung, đình thần, hoàng thân sẽ phải vất vả giữa rừng rú và chiến tranh sẽ vẫn tiếp tục. Do đó, mong ngài hãy liên lạc để rước nhà vua, Tam Cung, đình thần, hoàng thân về lại hoàng thành (58).

     Như thế, cuối cùng, theo sự bàn bạc mưu kế với De Champeaux trước đó và sự thuyết phục của phụ chính Nguyễn Văn Tường lúc này, tên  “đô thống [De Courcy] ấy cũng nghe lời [“giảng hoà”], dặn phải rước ngay vua và Tam Cung hồi loan về triều” (58) .

      Điều phụ chính Nguyễn Văn Tường vui mừng nhất là ông đã cản được sự truy kích của quân Pháp đối với xa giá. Nếu chúng truy kích, chắc hẳn sẽ nguy to cho đoàn ngự giá! Nhưng chúng đã không tiếp tục động binh. Đó là một điều ông thấy chính ông đã thành công.

      Còn nay mai sẽ ra sao? Nay mai, chắc hẳn De Courcy sẽ ép buộc ông kí tên vào tuyên cáo đầu hàng? Ông sẽ tính toán thực hiện kế hoạch viết các  tuyên cáo yết thị tại kinh hay gửi cho các quan tỉnh theo kiểu  “bì lí xuân thu” (61) (hình thức ngôn từ và nội dung lí lẽ khác nhau như mùa xuân với mùa thu)  và phối hợp chiến với đàm như đã bàn với quan tướng quân Tôn Thất Thuyết. Hơn nữa, trước đây, vua Kiến Phúc, vua Hàm Nghi và hai phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã thông tư cho các quan tỉnh: Mật dụ mới là văn kiện chính thức, còn các dụ “thoả hiệp” với Pháp chỉ có tính chất đối phó với Pháp mà thôi; phải hiểu theo kiểu  “bì lí xuân thu” , kiểu viết mà nhà nho uyên thâm đọc vào mới thật sự hiểu. Về phía Pháp, chúng cũng thừa hiểu tính chất “hai mặt” ấy, nhưng chúng chưa thể ép buộc triều đình Đại Nam được.

 

      10

 

        Aymonier, một tên Pháp năm ngoái đã nhờ khâm sứ tại Huế xin Viện Cơ mật cho phép y đi “du khảo bác vật”. Hơp Ai, một ngườiø Chăm (Ninh Thuận), bị Aymonier buộc phải tháp tùng theo y, nào ngờ để đi khuân vác các bức tượng, phù điêu, bi kí Chăm và Việt! Ông chính là tác giả bản Ariya Po Parơng (“Trường ca về quan lớn Pháp”) . Hơp Ai đã viết rõ, chính tác giả khởi hành từ tháng giêng năm Ất dậu (1885) (62):

 

…  “Ngày hai mươi tháng giêng năm Dậu

Quan Pháp sai bắt chúng tôi đi cùng”…

 

      Và trong chừng mức nào đó, dẫu sao, ông cũng như một nhân chứng về cuộc kinh đô quật khởi, bốn tháng sau đó:

 

 “… Vào lúc bảy giờ ngày hai mươi tháng sáu

       [theo lịch Chăm (?)]

Quân Pháp đánh vào Huế, bắn phá dinh vua

Khói lửa bay tung mù trời

Quân nhà Nguyễn chết như kiến,

       cả ngựa lẫn voi

Sau đó, quân Pháp tiến vào mở cửa thành

Binh lính trong thành sống sót,

chẳng biết đường nào mà đi

       Mãi tới trưa mới tìm được lối ra

Bụng đói, mắt thâm quầng, chân run đi không nổi

       Hoảng hồn bước lên rồi té ngã

Thêm choáng váng bởi thuốc súng,

người họ mệt lả bơ phờ

       Có người bò trườn ra tới cửa thành

Vừa ngóc đầu lên nhìn

       thì bị một tên lính Tây đứng gác,

       nạt lớn không cho ra

Khi ấy [[nghe tin]] Tôn Thất Thuyết phò vua

Cùng chạy ra khỏi thành đi ẩn náu ở xứ khác

Nguyên soái [De Courcy] cho chạy tin

       khắp Đất nước

Lệnh cho quân nhà Nguyễn

       trong mười ngày

       phải [[nộp vũ khí]] xin hàng

Tướng [Pháp chiếm cứ] trong triều [:hoàng

       thành] cũng đã giao thành

Rồi [phụ chính Nguyễn Văn Tường trá hàng]

       kí sắc lệnh chịu hàng

       không chống Pháp nữa

Ngoài khơi, bảy chiến hạm chực sẵn

Sáng hôm sau, quân Pháp ra lệnh truy tìm

       nhà vua…” (62).

 

      Những sử gia đương thời, trong cuộc đã ghi chép rõ:

 

       “Buổi chiều hôm ấy, [phụ chính Nguyễn] Văn Tường bèn bàn với quan Pháp, [ông] vào thành tạm đóng (đóng ở trong nhà Bộ Hộ).

      Hôm sau (tức là ngày hai mươi bốn [24 (06.07.1885)]), [phụ chính Nguyễn Văn Tường và tên tướng Pháp De Cour-cy] bèn hội đồng yết thị cho hai nước hòa hảo như cũ.

      Nhưng [bọn Pháp] cho [rằng phụ chính Nguyễn Văn Tường] ở trong thành là không tiện, lại bàn ra Nha Thương bạc, tạm đóng ở đấy làm việc. [Sau đó, ngày hai mươi bảy tháng sáu Ất dậu (09.07.1885)], [phụ chính Nguyễn Văn Tường] bèn đem hiện tình giảng hòa, [cho lính chạy ngựa trạm] phi tấu nơi hành tại [:nơi vua và Tam Cung ở] và thông báo cho Nam, Bắc biết [phục chức cho những quan lính Cần vương trở về trong hạn định mười hai ngày, kể từ ngày ban hành bản tuyên bố]” (63) .

      Đó là hai văn kiện công khai, có tính chất đối phó, và tất nhiên, phụ chính Nguyễn Văn Tường đã có mật lệnh kèm theo.

    

      11

 

       “Lúc đó, trong đô thành, nhân dân hãy còn nhốn nháo, sợ hãi. Bọn gian đồ, phần nhiều đi cướp bóc ở ngoài mặt phố và các nơi làng xóm. [Phụ chính Nguyễn] Văn Tường nghiêm sức [:nghiêm khẩn ra lệnh] [cho lính] đi tuần ngăn cấm. Viên huyện Hương Trà tức thì bắt được vài tên phạm ở hai chợ Nam Phố, An Hòa, đem chém đầu bêu ngay để cảnh cáo. Các bọn [trộm cướp, hôi của] khác nghe tin, đều dẹp cả” (64) .

      Không những phụ chính Nguyễn Văn Tường phải lo toan ổn định kinh đô, ông còn phải lo lắng cử người ra tâu bàn với nhà vua, Tam Cung và đặc biệt là bàn bạc với quan đệ nhị phụ chính.

       “[Phụ chính Nguyễn] Văn Tường lại ủy [nhiệm cho] Binh Bộ thị lang là Phạm Hữu Dụng, [đích] thân đến hành tại [ở Quảng Trị], đem hiện tình bàn với [phụ chính Tôn Thất] Thuyết, [và] tâu vua biết, định xin rước xe vua về. [Phạm] Hữu Dụng đến [nơi], bị [phụ chính Tôn Thất] Thuyết ngăn cản. ([Phụ chính Tôn Thất] Thuyết không tâu vua, nhưng dặn [Phạm] Hữu Dụng về báo với [phụ chính Nguyễn] Văn Tường:

+++ Phải nên đoàn kết với quân Pháp;

+++ [Pháp] không lại lấn áp như trước, thì mới đón xe vua về).

      [Phạm] Hữu Dụng sợ [phụ chính Tôn Thất] Thuyết, bèn từ về ngay, không dám tâu vua biết” (65) .

      Phụ chính Tôn Thất Thuyết lắng nghe thị lang Bộ Binh Phạm Hữu Dụng trình bày khá cặn kẽ những gì phụ chính Nguyễn Văn Tường đã tiến hành trong “thế hi sinh” tại Huế. Ông hết sức cảm phục và không khỏi áy náy, ái ngại khi nghe kể.

      Phụ chính Tôn Thất Thuyết cũng đã có ý định phải giả vờ hoà hảo với Pháp, bởi thật sự, ông hiểu triều đình Đại Nam bị cô lập và rất bế tắc hiện nay, kể từ sau khi Pháp và Trung Hoa đã kí kết hiệp ước Thiên Tân hồi cuối tháng tư nguyệt lịch vừa qua. Hơn nữa, ông lại hiểu hơn ai hết về tình trạng quân binh tan rã sau khi kinh đô quật khởi và bị thất thủ. Ông không phải không sáng suốt, không phải không nhận thấy rằng, trong tình hình này, cần phải hoà hoãn để tranh thủ thêm thời gian, tạo thế và lực mới, đồng thời thúc đẩy cho sự xuất hiện thời cơ mới, rồi kháng chiến mới có thể thành công. Nhưng thật lòng, ông cũng biết bọn Pháp hiện giờ đang lúc thừa thắng. Chúng đã đánh bại Phúc Châu trong lục địa Trung Hoa, lại đang vây Đài Loan, phong toả Trường Giang (sông Dương Tử), buộc Trung Hoa nhà Thanh đầu hàng. Pháp đang thừa thắng như thế, lẽ nào chúng bỏ mất thời cơ tốt đối với chúng! Cho nên, phụ chính Tôn Thất Thuyết vẫn phải đưa vua lên kinh đô kháng chiến Tân Sở, phát Dụ Cần vương một cách hùng tráng và có đủ tư thế uy nghi, như kế hoạch đã bàn với phụ chính Nguyễn Văn Tường. Sau đó, việc đưa vua về hay không sẽ tính tiếp. Ông cũng bàn kế hoạch với phụ chính Nguyễn Văn Tường là sẽ đưa vua về, còn ông sẽ tiếp tục kháng chiến như Nguyễn Văn Giáp hoặc như Tạ Hiện, Nguyễn Thiện Thuật, nhưng không núp dưới bóng cờ quân Thanh như họ, mà phải giữ cho được tính độc lập, tự chủ, tuy rất cần đến việc thiết cốt là phải tranh thủ viện trợ của các nước (nhưng đau xót thay, điều này hiện nay là bế tắc!). Kế sách chia tách triều chính nhưng vẫn phối hợp mật thiết, chặt chẽ với nhau đã vạch ra. Chính ông sẽ lãnh đạo các quan chức, sĩ dân trung nghĩa kháng chiến, còn vua Hàm Nghi và phụ chính Nguyễn Văn Tường sẽ tiếp tục “hai mặt”, “bì lí xuân thu” để triều đình Đại Nam có điều kiện viện trợ vũ khí, đạn dược, quân trang và lương thực cho quân kháng chiến của ông. Chiến phối hợp với đàm! Có điều, đưa vua Hàm Nghi về ngay lúc này là chưa tiện. Hẳn phụ chính Nguyễn Văn Tường muốn thúc hối ông lên Tân Sở ngay để phát Dụ Cần vương.

      “[Phụ chính Tôn Thất] Thuyết tức thì lấy ngày hai mươi bảy, kỉ mùi [09.07.1885], ép vua lên xe đi ra [:lên] Sơn phòng tỉnh Quảng Trị [:Tân Sở].

      (Khi ấy [phụ chính Tôn Thất] Thuyết đã tâu xin Ba Cung cùng đi, nhưng Ba Cung có ý lần lữa. [Phụ chính Tôn Thất] Thuyết bèn [bí] mật cùng với bọn hỗ tòng là Hồ Văn Hiển, Phạm Thận Duật, Trần Xuân Soạn, Tôn Thất Lệ, lấy hôm ấy, ước [vào khoảng] giờ sửu [01 – 03 giờ khuya về sáng], hộ thánh giá [“thánh giá” = xe của nhà vua] đi Sơn phòng [Tân Sở].

      Tuần phủ Quảng Trị là Trương Quang Đản đều hiện tiếp tục đến hành tại. Các quần thần đều không biết gì cả. Sáng ra [họ] mới rõ việc.

      [Phụ chính Tôn Thất] Thuyết [lập] tức phái cho Phấn nghĩa quân về đòi Trương Văn Đễ, Ngô Tất Ninh đều tiếp tục lên [Sơn] phòng [Tân Sở].

      Bọn Tôn Thất Phan đều lại về kinh. Duy Nguyễn Hanh, Đinh Tử Lượng, Lương Thành, phủ thần ấy bàn hãy lưu lại ở tỉnh ấy).

      Do đó lòng người càng thêm ngờ sợ, không biết theo về đâu” (66) .

    

      12

 

       “Riêng một hạt phủ Thừa Thiên, vì có [phụ chính Nguyễn] Văn Tường ở đó giảng hòa và [thường] hay [ra] hiệu lệnh ngăn cấm, hơi nhờ được yên. Còn dư [:ngoài ra], các hạt Nam, Bắc, thì bọn côn đồ tụ họp, cướp bóc nổi lên. Lương, giáo ngày thường thù nhau, sinh ra tàn sát lẫn nhau, nơi nào cũng có.

      Đô thống Pháp lại yêu cầu [phụ chính Nguyễn] Văn Tường để chiêu tập quan lại, thôi bắt binh dân, hiểu bảo cho lương, giáo Nam, Bắc cùng yên và cấm sự xảy ra trộm cướp, hạn đến tháng [thứ] hai [:nhị nguyệt = 02 tháng] là thanh thiếp” (67) .

      Cũng như hai văn kiện trước, lần này De Courcy và De Champeaux lại ép buộc phụ chính Nguyễn Văn Tường ra tuyên cáo mới. Nội dung của nó là cả một nỗi đau lòng, và hạn định De Courcy đưa ra là cả một nỗi nhục nhã:

+++ 1. Triệu tập các quan chức trở về triều đình và nha sở để điều hành công việc.

+++ 2. Chấm dứt việc tăng cường lực lượng quân binh của triều đình. Trong khi đó, hiện tại triều đình do phụ chính Nguyễn Văn Tường lãnh đạo tạm thời chỉ còn một số quân binh rất ít ỏi, yếu kém!

+++ 3. Ra lệnh ngăn cản cuộc chiến tranh lương – giáo đang bùng nổ hầu như khắp Trung Kì, Bắc Kì.

+++ 4. Tăng cường trật tự, trị an xã hội (67).

      De Courcy ra hạn định chỉ trong hai tháng! Phụ chính Nguyễn Văn Tường nhẫn nại trong tình thế phải hoà hoãn. Ông tự nhủ với nỗi đau xót như cứa vào gan ruột:   

      “Ta đang ở trong thế võ thuật được gọi là thế hi sinh. Phải cố nhẫn nhục cho đại cuộc theo kế sách chia tách triều chính nhưng vẫn phối hợp chặt chẽ, và phải nhẫn nhục cho chính nghĩa vì nước, vì dân. Không còn cách nào khác”.

      Và tất cả tấm lòng son của ông vẫn hướng về vua Hàm Nghi, Sơn phòng Tân Sở và Tam Cung ở hành cung Quảng Trị…

       “Tháng sáu [nguyệt lịch, Ất dậu], ngày mồng một quý hợi [12.07.1885], vua [Hàm Nghi] ở Sơn phòng tỉnh Quảng Trị [:Tân Sở].

      (Khi ấy, sau [trận chiến], quân Phấn nghĩa bị thua, trốn, tan chạy. Quan Pháp treo thưởng cho người bắt được quân ấy. Bọn quân ấy bèn đều lục tục đến Sơn phòng theo [phụ chính Tôn Thất] Thuyết).

      Ba Cung vẫn nghỉ xe ở hành cung tỉnh ấy. Trước [đó] vài ngày [tức trước ngày mùng một tháng sáu (tháng năm Ất dậu chỉ có hai mươi chín ngày)], [phụ chính Tôn Thất] Thuyết lại uỷ [nhiệm] người gửi tâu, xin Ba Cung tiếp tục đi Sơn phòng [:Tân Sở]” (68).

      “Tuần phủ Quảng Trị là Trương Quang Đản vẫn bàn cùng [Tôn Thất] Lương Thành, cho [rằng] thành Quảng Trị là nơi phong trần, nghĩ xin Ba Cung [Tam Cung] hồi loan [:về lại kinh đô Huế]. [Ông] đã tư cho [phụ chính Nguyễn] Văn Tường biết [ý kiến của Tam Cung để] làm. [Phụ chính Nguyễn] Văn Tường được tin báo [như vậy], bèn gửi thư đến khâm sứ Pháp là Tham Bô [De Champeaux] [để De Champeaux] trình bàn với đô thống Cô Ra Xy [De Courcy] thoả nghĩ phúc làm [:nghĩ suy cho kĩ, nếu đồng ý, trả lời lại để tiến hành].

      Ngày mồng hai tháng [sáu] ấy (13.07.1885), [phụ chính Nguyễn Văn Tường] tức tâu đệ trước xin Ba Cung hồi loan ở Khiêm cung, cho yên lòng dân. [Và ông] tịnh uỷ cho biện lí là Trương Như Cương, Tôn Thất Niêm kính đến rước” (69).

     

      TẬP TÂU [CỦA PHỤ CHÍNH NGUYỄN VĂN TƯỜNG]

     

      “Lược rằng (70):

      “[Chúng] thần là Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, vâng di mệnh tiên đế, cùng sung chức phụ chính. Nay mà hỏng việc, tội thần không nói sao cho hết. Nhưng thần cũng không tưởng rằng Tôn Thất Thuyết lừa dối mình như thế. Đến [như] Ba Cung tuổi già, nhà vua còn trẻ, lặn lội gió bụi, chịu làm sao nổi. Huống chi kinh thành, miếu điện, lịch đại, sơn lăng, một buổi bỏ đi [là] như không. Lòng thần tử chịu sao được sự chua xót ấy, nên thần phải tuân theo sắc văn [sắc dụ của vua Hàm Nghi, Tam Cung], đem thân lăn lộn ở đây, cùng với quan Pháp đi lại, [đồng thời cũng] vì bản tâm của thần, nguyền cùng với xã tắc mất còn, không dám lìa bỏ vậy.

      Nay tiếp tờ tư của Trương Quang Đản tỏ bày mọi lẽ, [thần] đã gửi thư cho khâm sứ Pháp [De Champeaux]. Cứ theo lời phúc tư [:thông tư trả lời] thì đô thống đại thần [De Courcy] rất mong rước vua về.

      [Thần] cũng mong giữ gìn [được] cung điện như cũ. Duy trong thành ấy chửa tĩnh, cũng có người ngầm muốn nổ súng. [Nhược] bằng rước vua vào thành, sợ có [những nguy cơ] chưa tiện, xin hãy ngừng nghỉ ở Khiêm cung.

      Đô thống [De Courcy] ấy xin phái một trăm (100) hay hai trăm (200) quân ở ngoài canh chực, để giữ khỏi sự quan ngại. Nhưng bọn quân ấy nên [:cần] dùng thứ ăn như trâu, dê, gà, vịt mọi thứ, ta cũng ưng cho.

     Thần trộm chiểu cung điện trong thành dẫu còn như cũ, nhưng số quân Pháp ở đó khá nhiều, chưa được yên lặng, xin [vua và Tam Cung] trú ở Khiêm cung, tưởng cũng thoả thuận.

     Thần nghiệp dĩ phái người kiểm soát, chỉnh đốn, tịnh uỷ [nhiệm] bọn thần [:bọn bầy tôi] là Trương Như Cương đi Quảng Trị chực đón, hỗ tòng [:đi theo xa giá]. Cúi xin mệnh giá hồi loan, để yên lòng dân” (70).

                                         [Kí tên:

                                         thần Nguyễn Văn Tường].

      “Cuối cùng [của tập tâu], [phụ chính Nguyễn Văn Tường] viết niên hiệu, mượn dùng ấn quan phòng của khâm sứ Pháp)” (70) .

 

      Viết xong, phụ chính Nguyễn Văn Tường trao cho De Courcy và De Champeaux xem, theo yêu cầu của chúng trước khi viết. Cả hai tên hiện đang ngồi ở Nha Thương bạc. De Champeaux có biết ít nhiều chữ Hán. De Courcy chăm chú theo dõi gương mặt của viên khâm sứ, kẻ đã luôn luôn quyết  “đập tan tành”  phụ chính Nguyễn Văn Tường. Y thấy De Champeaux cau mặt, quắc mắt lên trong một thoáng rồi vội giấu đi cái quắc mắt ấy. De Courcy muốn hỏi cho rõ nội dung bức thư.

      - Tên phụ chính quỷ quyệt ấy đã viết cái gì thế?

      - Lão già Đại Nam chết tiệt! Y viết thế này đây, tôi sẽ dịch ngay cho đô thống nghe. Nhưng quan đô thống đừng vội phẫn nộ. Dẫu sao, ta cũng cần lợi dụng lão thêm một, hai tháng nữa mà thôi.

      De Champeaux dịch ra tiếng Pháp bằng giọng nói. De Courcy không thể không nổi giận. Nhưng ngẫm lại, y thấy lời khuyên của De Champeaux không phải là sai.

      De Champeaux thưa với tên đô thống:

      - Thưa đô thống, ông thấy có đáng ghét không chứ! Hay ta bảo lão phụ chính ấy viết theo dạng bản chúng ta thảo ra trước? Linh mục hành nhân Nguyễn Hữu Cư sẽ giúp ta việc này.

      De Courcy định tán đồng ngay, vì y rất muốn giải quyết mọi vấn đề bằng bạo lực, sự bức hiếp. Nhưng De Champeaux vội nói tiếp:

      - Hay ta cứ để cho lão tự nhiên. Chắc lão không ngờ bức thư này lão viết lại gây cho ta khó chịu đến thế! Chúng ta quả thật cũng không hiểu tâm lí người Đại Nam cũng như người Đại Nam khó hiểu hết tâm lí người Pháp.

      De Champeaux nói đúng, hai phía của mọi cuộc chiến tranh, kẻ xâm lược và người chống xâm lược khó hiểu nổi nhau.

      De Courcy đâm bực mình với cả De Champeaux. Y cảm thấy tên khâm sứ này cũng đa đoan, nói thế này rồi bảo thế nọ, thật lắm chuyện.

      - Thôi, sao cũng được, cứ đóng khuôn dấu Sứ quán Pháp vào bức thư. Ta chỉ cần nhà vua tí hon và ba bà lão Tam Cung ấy về Huế càng sớm càng tốt. Bọn ấy về đây xong, ta nắm lấy đầu chúng, bắt chúng tuân lệnh. Thế là gần hai chục triệu người thuộc dân tộc Đại Nam này phải tuân lệnh ta. – De Courcy chợt cười khoái trá một cách hung ác –.

      De Champeaux gật đầu với cái nhếch mép và tiếng cười gằn. Y nói:

      - Vâng, đó là mục đích của nước Đại Pháp và Hội Truyền giáo Paris. Còn tên Nguyễn Văn Tường, lão ta hận thù chúng ta, thúc giục quân binh chống đánh chúng ta, lại còn xúi Trung Hoa gây chiến tranh với chúng ta mấy năm trời, nhất là mười mấy tháng gần đây! Lão ta phải đền tội, nhưng, chưa vội…

      De Champeaux lại đang lo âu về lòng căm giận của y đối với phụ chính Nguyễn Văn Tường, bởi y biết, ông ấy là  “một người mà mới vài hôm trước, [và ngay cả hôm nay], cái tên làm rung động cả thành Huế, một người đã ngồi tới địa vị cao nhất của triều đình; người mà trong mấy năm sau cùng này đã giữ cả vận mệnh của nước Việt Nam [Đại Nam]. Người ấy là Văn minh [rồi Cần chánh] điện đại học sĩ kiêm phụ chính đại thần: Nguyễn Văn Tường” (71) . Uy tín của phụ chính Nguyễn Văn Tường là một sức mạnh đáng sợ mà chính y, De Champeaux, phải dè chừng, không khéo phong trào Cần vương sẽ thổi bùng ngọn lửa căm hờn vào người Pháp, bọn viễn chinh và cố đạo thực dân.

      Phụ chính Nguyễn Văn Tường đang ngồi bên kia phòng, không hề hay biết hai tên thực dân đầu sỏ đang bàn với nhau về bức thư ấy và đang toan tính, cân nhắc âm mưu.

      Phụ chính Nguyễn Văn Tường viết tập tâu này trong hoàn cảnh ông đang bị giam giữ ở Nha Thương bạc, dưới đôi mắt cú vọ của bọn Pháp và tay sai của chúng (72). Ngay khuôn dấu, ông cũng phải dùng khuôn dấu của Sứ quán Pháp, mặc dù vẫn viết niên hiệu Hàm Nghi. Do đó, lời lẽ không thật như lòng ông đang sôi sục căm thù bọn xâm lược Pháp. Khi trách móc phụ chính Tôn Thất Thuyết không cho đưa vua Hàm Nghi về như đã bàn với ông, ông cũng phải nói một cách kín đáo:  “Nhưng thần cũng không tưởng rằng Tôn Thất Thuyết lừa dối mình như thế [không chịu cho đưa vua Hàm Nghi để lãnh đạo bằng mật dụ như kế hoạch đã bàn]” (70) . Ông không phủ nhận việc ông cùng Tôn Thất Thuyết bàn bạc và nhất trí tiến hành cuộc kinh đô quật khởi. Ông cũng tính liệu đến thực tế những con người quen sống trong hoàng cung:  “Đến [như] Ba Cung tuổi già, nhà vua còn trẻ, lặn lội gió bụi, chịu làm sao nổi” (70) . Cũng vì vậy, tuy là lí do giản dị, cụ thể đến tầm thường, mà ông phải nghĩ đến kế sách chia tách nhưng vẫn phối hợp triều chính. Nơi rừng núi ấy, dẫu khí hậu, lam chướng đã tốt dần, nhưng vẫn còn dày dặc sơn lam chướng khí. Nơi đó, ông đã tôi luyện mười mấy năm làm tri huyện, bang biện (và đấy là chưa kể năm năm dài tiễu phỉ ở núi rừng biên giới phía bắc). Nhưng thật ra, đó chỉ một lí do rất thứ yếu, nhưng ông nâng lên thành chính yếu, để bọn Pháp có thể tin được! Và chỉ một câu  “Thần phải tuân theo sắc văn [sắc dụ của vua Hàm Nghi, Tam Cung], đem thân lăn lộn ở đây, cùng với quan Pháp đi lại, [đồng thời cũng] vì bản tâm của thần, nguyền cùng với xã tắc mất còn, không dám lìa bỏ vậy” (70)  cũng đủ cho bọn Pháp cau mày, khó chịu, thù ghét! Quả thật, De Courcy lẫn De Champeaux, chúng không hiểu rằng, đối với phụ chính Nguyễn Văn Tường, ông viết như thế là quá  “nhẹ nhàng”, “nhẹ nhàng”  đến mức ông rất chua xót, đau đớn, vì phần nào trái lòng. Vả lại, ông cũng không phải không muốn nói thẳng vào mặt hai tên xâm lược thuộc loại đầu sỏ ấy rằng, ông chỉ tạm thời chấp nhận “thoả hiệp” với chúng, chứ không đầu hàng, khuất phục chúng bao giờ! Ông những muốn tấn công chúng cho chúng thật tan tác, quét sạch chúng khỏi Đất nước ngay tức khắc, chứ đâu phải cam đành “thoả hiệp”,  “đem thân lăn lộn ở đây, cùng với quan Pháp đi lại” (70) như thế!

      Nhận được tập tâu ấy, “Từ Dụ thái hoàng thái hậu và lưỡng cung [hai cung: hoàng thái hậu Vũ thị, hoàng thái phi Nguyễn Văn thị] chuẩn như lời tâu, lấy ngày mồng ba, ất sửu [14.07.1885], thì hồi loan.

      (Phủ thần là Trương Quang Đản đem quan quân binh phu tỉnh ấy theo đi hộ tống). 

      Ngày mồng năm, đinh mão [16.07.1885], [Tam Cung] về đến Khiêm cung.

      ([Trương] Quang Đản lại trích giải hai trăm (200) thoi bạc kho của tỉnh ấy, [loại] ăn sáu đồng, tiền đồng, một trăm (100) quan, [mang] theo, đến cung tiến)” (73) .

 

      13

 

      “[Phụ chính] Tôn Thất Thuyết còn giữ [xa] giá vua còn đóng ở [Sơn] phòng Quảng Trị [:Tân Sở], đã kèm vua ra Lệnh dụ Thiên hạ cần vương [đây là Dụ Cần vương chính thức và duy nhất], lại sẽ dụ bảo Nguyễn Văn Tường và yên ủi những người họ mạc ở trong kinh. [Mỗi thứ] đều một đạo, do đường dịch lộ chuyển chạy về kinh.

      (Khi ấy tự [Sơn] phòng [Tân Sở] đến kinh, ống trạm còn chuyển đệ được).

      Đó đều là việc từ mồng bảy tháng này [18.07.1885] trở về trước” (74).

     

      LỆNH DỤ THIÊN HẠ CẦN VƯƠNG

     

      “Từ xưa chính sách chống giặc không ngoài ba điều: đánh [chiến], giữ [thủ], hoà mà thôi.

      Đánh thì chưa có cơ hội.

      Giữ thì khó chắc đủ sức.

      Hoà thì chúng đòi hỏi không chán.

      Đang lúc thế sự muôn vàn khó khăn như vậy, bất đắc dĩ phải dùng QUYỀN [NGHI, QUYỀN BIẾN].

      Thái vương dời tới đất Kỳ, Huyền Tông chạy sang đất Thục, người đời xưa cũng đã có làm như thế.

      Nước ta gần đây gặp nhiều biến cố. Trẫm tuổi trẻ nối ngôi, chưa kịp lo việc tự cường, tự trị. Bọn phái viên của Tây hoành hành áp bức ngày một thậm tệ. Vừa rồi chúng tăng thêm binh thuyền, buộc ta những điều không thể làm theo được. Ta theo thường lệ khoản đãi, chúng không chịu nhận một tí gì. Nhân dân kinh đô náo động, kinh sợ nguy biến sắp tới nơi. Các vị đại thần mưu quốc tìm kế giữ yên xã tắc, bảo vệ triều đình: [Nếu] cứ cúi đầu nó bảo gì nghe nấy, ngồi yên để mất cơ hội thì sao bằng dò xem ý chúng muốn hành động mà đối phó trước? Ví thử việc chẳng chịu lòng, thì còn có thể làm như ngày nay để mưu tính việc về sau cho ổn. Ấy là tuỳ theo thời thế mà định ý kiến như thế. Phàm những ai biết chia lo việc nước, tất cũng dự biết như vậy, mà cũng đều nghiến răng căm phẫn. Cái lòng giết giặc, giết thù, nào ai chẳng có. Vậy thì gối đòng, gõ chèo, cướp giáp, vần chum, há không có người nào hay sao? Kẻ nhân thần ở triều đình chỉ nên theo nghĩa mà làm, nghĩa ở đâu thì chết sống cũng ở đấy. Xưa Hồ Yển và Triệu Thôi nước Tấn, Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật đời Đường là hạng người thế nào?

      Trẫm đức mỏng, gặp phải biến cố này, không thể hết sức chống giữ, để kinh thành bị hãm, Từ Cung phải lên xe lánh nạn. Tội ở mình trẫm tất cả, hổ thẹn vô cùng. Nhưng mối luân thường quan hệ, trăm quan khanh sĩ không kể lớn nhỏ, chắc không nỡ xa bỏ trẫm. Người trí giúp mưu, người dũng giúp sức, người giàu xuất của để giúp quân nhu, cùng nhau đoàn kết, chẳng ngại nguy hiểm, làm cách gì mà có thể cứu nguy, đỡ ngã, gỡ chỗ khó, giúp khi bí, thảy đều hết lòng hết sức. May mà trời cũng chiều người, chuyển loạn làm trị, chuyển nguy làm an, thu lại đất đai, phục lại bờ cõi, cơ hội này thật phúc cho nước nhà, tức là phúc cho thần dân. Đã cùng nhau lo lắng được thì cùng nhau yên vui, há chẳng tốt lắm ru?

      Nhược bằng lòng tiếc chết nặng hơn lòng thương vua, việc lo cho nhà chăm hơn việc lo cho nước, quan thì thác cớ lánh xa, lính thì bỏ ngũ lánh trốn, dân thì không biết vì nghĩa, hăng hái với việc công, sĩ thì cam chịu bỏ nơi sáng đi vào nơi tối, như thế dù có sống sót ở đời thì thân tuy mặc áo đội mũ mà không khác loài chim muông. Sao nỡ làm vậy cho đành?

      Thưởng hậu, phạt cũng nặng, triều đình sẵn có phép thường, không nên để điều hối hận về sau. Ai nấy nên nghiêm chỉnh tuân theo dụ này.

           Khâm thử!

           Hàm Nghi năm đầu, tháng sáu, ngày mùng hai (13.07.1885)” (75).

      Tuyên dụ tại Sơn phòng Tân Sở, Cam Lộ, Quảng Trị.

     

     “NGÀY MỒNG HAI [THÁNG SÁU (13.07. 1885)], [VUA HÀM NGHI VÀ PHỤ CHÍNH TÔN THẤT THUYẾT VIẾT] DỤ [GỬI PHỤ CHÍNH NGUYỄN] VĂN TƯỜNG” (76):

     

      “Lược nói:

      “Y [Cô Ra Xy (De Courcy)] thấy ta càng khuất, y càng ngày càng lấn, khiến triều đình không còn mặt mũi nào, vạn bất đắc dĩ mà ta mới phải làm cái kế bỏ thành đi ra ngoài. Nay đại thần Tôn Thất Thuyết cùng ta cùng quanh quẩn, còn ngươi là phụ chính đại thần thì ở lại mà thương đàm, kẻ ở người đi đều lấy lòng yêu nước lo dân làm căn bản. Trời đất thực cũng chứng giám. Ngươi nên khéo thể tấm thịnh tình của tiên hoàng đối với nước láng giềng rất có thuỷ chung và cùng y giảng rõ về lí thế, cân nhắc về lợi hại, hết lòng thoả hiệp [:hiệp bàn thỏa mãn đôi bên, không phải “thỏa hiệp vô nguyên tắc”]. Phàm những khoản gì bách thiết [:bức thiết], [thì ngươi cùng chúng] chung nhau bàn đổi, cốt khiến cho hai nước như anh em, vinh nhục cùng quan hệ, vui lo cùng chung nhau, mười phần chân thành, không còn dùng đến uy thuật. Lúc này [:lúc đó] ta [sẽ ban] mệnh [lệnh] cho hồi loan, trên để phụng dưỡng ba cung, dưới để yên lòng thần dân, khanh cùng với Tôn Thất Thuyết trung trinh chói lọi, muôn thuở cùng sáng, những phường nịnh tử gian phu, đều phải lặn hình giấu bóng. Nam triều ta há chẳng hân hạnh ư. Nước Đại Pháp chắc cũng vui vẻ mà cùng giữ lấy cường thịnh vậy.

     Nếu không như thế thì các miếu xã, lăng tẩm và các vương công không kịp đi theo ấy thì hết thảy uỷ [nhiệm] cho khanh. Ta duy có chọn đất lánh ở, sợ trời vui trời. Rường cột cương thường, cả nước cùng thế, không đâu không phải là triều đình và không phải là tôi con vậy. Trẫm quyết không cùng với họ tranh thua vậy.

      Tình thế ví lại không thôi, trẫm nguyện phái thêm cán viên, lấy đường đi khắp các nơi, nghiêm sắc cho Ninh Bình trở về phía bắc, bao nhiêu quan tỉnh, phủ, huyện đều để ấn lại mà đi, người nào như có trung nghĩa, tài lược, không kể quan hay dân, đều cho được tiện nghi làm việc [:nhân dân, sĩ phu khởi nghĩa], cốt không phụ tấm lòng tốt của triều đình dưỡng dục, tác thành, yên được bóng thiêng liêng ở trời của liệt thánh, và đáp phó được nguyện vọng [khởi nghĩa chống Pháp] tha thiết của thần dân trong nước. Khanh nên nghĩ cho kĩ nhé. [Khanh] có muốn nên [:cần phải] tâu đối, thì gởi theo đường trạm chờ xét, cũng chẳng hại gì”” (76).

           

      “NGÀY MỒNG BẢY [THÁNG SÁU (18.07. 1885)], [VUA HÀM NGHI VÀ PHỤ CHÍNH TÔN THẤT THUYẾT VIẾT] DỤ [GỬI] CÁC NGƯỜI TRONG HỌ” (77):

 

      “Đại lược nói:

      “Dụ Thọ Xuân vương, phụ chính Hoài Đức công và các bọn hoàng phiên công chúa, nghĩ coi: Nước Nam ta nhiều lần bị kẻ khác bức hiếp nhiều khoản, phàm có tai mắt khí huyết không ai là không uất ức buồn rầu, chẳng riêng người trong họ ta mà thôi. Trẫm vâng di mệnh của tiên quân, và các vương công phụ thần cùng suy tôn lên quyền giữ việc nước. Phàm có trăm điều đều duy kiến nghị, phải ấy thì theo. Trẫm tuổi trẻ, kiến thức chưa rộng, dám đâu chuyên trái việc gì, cho nên hễ khi tiếp được thư của nước Đại Pháp gửi đến khoản gì, nếu quá lăng nhục và yêu sách quá đáng, nhân tình không thể chịu được, mật nghe vương công và các phụ chính khuyên bảo, không đâu là không cưỡng tự đau đớn nín náu, chịu theo êm việc, vì muốn bảo toàn xã tắc, để họ mạc lâu dài hưởng tôn quý giàu sang vậy. Không ngờ sứ Pháp ngang ngược ngày thêm, không còn được chút quốc thể, cúi xuống đất, ngửa lên trời, xiết bao hổ thẹn, vạn bất đắc dĩ mà phải làm ra việc này. [Trẫm] quay nhìn nơi lăng miếu và các bậc ý thân, thực không biết bao nhiêu là tưởng nhớ, chả biết trong tôn tộc từng có tin đến sự lo xuôi nghĩ ngược của ta không?

      Nay đã có phụ chính huân thần là Nguyễn khanh [tức là Nguyễn Văn Tường] ở lại giảng nói, che chở nhiều việc, hơi được yên ổn. Huân thần [:Nguyễn Văn Tường] tâm sự như thế, cáng đáng như thế, [huân thần ấy] thực là đau khổ quá chừng. Nhân vật nước ta, những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được. Trẫm cũng dụ cho đại thần [Nguyễn Văn Tường]  ấy hết lòng bàn tính công việc, tâu chờ quyết định.

      Vương công đều là cốt nhục chí thân, đều nên thương ta khổ tâm, thể tất ta vô cùng. Phàm việc gì cùng với Nguyễn khanh [:Nguyễn Văn Tường] châm chước thoả đáng, cốt không trái với cương thường của trời đất, nên được nền bình trị lâu dài của quốc gia, ngõ hầu để được tiếng thơm muôn đời. Thế là lành lắm, tốt lắm.

      Trời đất dài lâu, gặp nhau có hẹn. Nước nhà suy thịnh, gặp hội đổi thay. [Vậy] càng nên trân trọng di dưỡng, để yên tấm lòng xa của người tuổi trẻ.

      Còn ra sẽ uỷ cho Nguyễn khanh [:Nguyễn Văn Tường] sẽ vì ý thân điều đình cho thoả đáng, vụ được như thường.

      Phàm người họ ta, cần tin lời ta nhé, thế thì ta mới yên lòng”” (77) . 

 

      Ngoài  “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương”  vốn đã được soạn thảo trước, hai bản dụ ấy do chính Tôn Thất Thuyết và vua Hàm Nghi cùng viết. Phụ chính Nguyễn Văn Tường lúc bấy giờ còn bị giam giữ ở Nha Thương bạc với sự canh giữ của một toán lính Pháp và Ả Rập, toán lính này đặt dưới sự chỉ huy của tên sĩ quan Schmitz (72), nên ông chỉ được nghe hai bản dụ ấy qua một viên quan tham biện. Hôm ấy, còn có mặt tham tri Hoàng Hữu Thường, thị lang Phạm Hữu Dụng… Viên quan tham biện này học thuộc lòng rồi đọc nhỏ lại cho ông nghe, như thể đang trò chuyện.

      Hơn lúc nào hết, trong lúc bị giam giữ như một người tù, phải chấp nhận  “thế hi sinh”  để chống lại bọn xâm lược Pháp và “tả đạo” này, phụ chính Nguyễn Văn Tường rất đỗi xúc động, xúc động đến nghẹn ngào khi nghe đọc hai bản dụ đó trong khi đi dạo quanh trong khuôn viên Nha Thương bạc. Lúc ấy, bọn lính Pháp và Ả Rập và cả bọn tay sai, mặc dù để mắt theo dõi, nhưng chúng cũng chả làm gì được đối với người tù đầy uy thế mà cả chủ tướng De Courcy, chính phủ Pháp ở Paris cũng không thể không nể nang.

       “Dụ Nguyễn Văn Tường”  và  “Dụ người trong hoàng tộc” , phụ chính Nguyễn Văn Tường vừa nghe, sau khi ông và không một ai không biết  “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương”. “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương”  và  “Dụ Nguyễn Văn Tường”  được phát đi, gửi về trong cùng một ngày. Đó là ngày mùng hai, tháng sáu, Ất dậu (13.07. 1885). Điều đó đã xác quyết về quốc kế chia tách nhưng vẫn phối hợp triều chính, giữa “kẻ ở” với “người đi”, giữa đàm và chiến.

      Bọn Pháp, nhất là những tên trùm gián điệp như giám mục Puginer, mãi đến năm năm sau, càng khẳng định về Lệnh dụ thiên hạ Cần vương :

       “Vua Hàm Nghi đi theo Thuyết còn phụ chính Tường ở lại, vẫn giữ nguyên chức tước, và sau một thời gian trá hàng, lại tiếp tục có những hành động đối kháng. Chính theo lệnh của y mà khoảng ba chục ngàn (30.000) giáo dân đã bị hại chỉ trong vòng hai tháng và hơn một ngàn (1.000) người [Pháp…] khác cũng chịu chung số phận do các quan lại thi hành mệnh lệnh trên…” (78) .

       Đó là sự khẳng định trong một bản điều trần gửi các nhà chức trách Pháp, Puginier viết vào ngày 09.03.1890. Có điều, con số ba mươi ngàn ấy là số lượng gồm cả những kẻ xu thời lẫn “tả đạo” phản quốc, chứ không phải giáo dân lương thiện! Tất cả những ai theo giặc Pháp, Puginier đều dán lên nhãn hiệu “giáo dân”! Thật sự, khá nhiều nơi, linh mục Việt và giáo dân  “tả đạo” đúng nghĩa (bởi đã thực sự phản quốc!), theo lệnh các cố đạo gián điệp Pháp, hung tợn đánh phá các phủ, huyện để phục thù các quan lại Đại Nam và để cướp chính quyền! “Tả đạo” phục thù bằng cách tàn sát nhân dân kinh đô Huế cũng như ở các tỉnh, và “tả đạo” cướp chính quyền khi kinh thành thất thủ là điều mà phụ chính Nguyễn Văn Tường đã tiên liệu. Do đó, ông đã chặn trước Caspar, De Courcy, De Champeaux, ngay vào sáng ngày hai mươi ba tháng năm máu lửa ấy (05.07. 1885). Thật sự, chiến tranh lương – giáo trên khắp Trung – Bắc Kì không thể không xảy ra, và trong thực tế đã xảy ra!

      Những ngày thượng tuần tháng sáu Ất dậu (1885) bừng dậy ngút trời khí thế Cần vương! Phụ chính Nguyễn Văn Tường cùng Hoàng Hữu Thường, Phạm Hữu Dụng và vài viên tham biện khác tuy phải “đi dạo” trong sân vườn Nha Thương bạc, nhưng trong lòng họ vẫn cháy bùng lên ngọn lửa Cần vương với niềm cảm xúc hào hùng, bi tráng.

      Ngoài kia, không xa lắm, dòng sông Hương bừng chói trong nắng cuối mùa hè.

   

 

Hết tệp 6

(PHÂN ĐOẠN 2 TRUYỆN KÍ THỨ 12)

 

Khởi viết từ 07 giờ 41

sáng ngày 17.01.2003

(15.12 Nh. ngọ HB.3)

Viết đến dòng chữ này vào lúc 17 giờ 07 phút,

ngày 24.01.2003 (22.12 Nh. ngọ. HB.3).

 

TRẦN XUÂN AN

 

 

(50) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 221.

 

(51) ĐNTL.CB., tập 35, sđd., 1976, tr. 221, 230 . “Trong khi vội vã, phụ chính đại thần là Nguyễn Văn Tường đem lão cung và xe vua ra [khỏi] thành tạm lánh. Ta nhân dặn thầm đại thần ấy rằng: “Lui cùng quan Pháp ở trong bàn tính; may được nghe lời và sớm tan quân”” (sđd., tr. 230). Xem thêm: Nguyễn Nhược Thị Bích, Hạnh Thục ca (HTC.), (Trần Trọng Kim sưu tầm, phiên âm, chú thích…), Nxb. Tân Việt, 1950, tr. 39 – 40: “Thấy người trước đón lên đường, Gửi rằng: “Có Nguyễn Văn Tường chực đây”, Phán rằng: “Sự đã dường này, Ngươi tua [:lo; nên ] ở lại, ngõ rày xử phân”,Vâng lời Tường mới lui chân, Giá ra khỏi cửa, dân lần dõi theo”. Và ở “Dậu Tuất niên gian phong hỏa kí sự” (trong “Đặng Đức Tuấn, tinh hoa công giáo ái quốc”[!], Lam Giang, Võ Ngọc Nhã sưu tầm, Sài Gòn, 1971, tr. 516 – 517): “Thuyết – Tường sanh sự sự sanh [?!], Đem Hàm Nghi trốn bôn hành Khiêm Lăng, Cùng nhau bàn luận rứa răng, Thuyết đi hộ giá, Tường băng về đầu, Khéo làm chước nhiệm [nhịn?] mưu sâu, Pháp quan mắc mớp tưởng đâu thiệt tình”. Cho dù với cách diễn đạt theo quan điểm thuộc chính kiến nào đi nữa, hai đoạn thơ trên cũng phản ánh về một sự thật lịch sử!

 

(52) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 221.

 

(53) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 230. Xem chú thích (51) của truyện kí thứ mười hai này.

 

(54) Tôi hư cấu nội dung bức thư này xuyên qua các sự kiện lịch sử đã được ghi nhận trong ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976.

 

(55) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 221.

 

(56) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 221 – 222.

 

(57) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 222.

 

(58) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 222.

 

(59) Tập san Những người bạn cố đô Huế (NNBCĐH.) (Bulletin des amis du vieux Huế, Cadière làm chủ bút), bài “Vị đại biện đầu tiên của nền bảo hộ đến Huế”  của H. Le Marchant de Trigon, Đặng Như Tùng dịch, Tôn Thất Hanh hiệu đính, Nhị Xuyên, Lê Văn biên tập, tập IV (1917), Nxb. Thuận Hoá, 1998, tr. 272 – 273: “Than ôi, ngay ngày hôm sau [tức là ngày kế tiếp ngày 29.8.1875], những thủ đoạn phá rối có hệ thống [:đấu tranh chống Pháp bằng ngọai giao…] của Nguyễn Văn Tường kéo dài cho đến ngày chiếm cảng Thuận An [8.1883], và còn về sau này, cho đến khi đày kẻ thù không đội trời chung của chúng ta, và trong thời gian [bị lưu đày] đó, [Nguyễn Văn Tường] chẳng chịu hiểu biết gì cũng chẳng chịu quên gì” (lưu ý cách diễn đạt đậm màu sắc thực dân của H. Le Marchant de Trigon).

 

(60) Mặc dù vè “Thất thủ kinh đô” không phải là tư liệu gốc, chỉ là một tác phẩm dân gian hư cấu với nhiều sai lệch đáng kể, chúng tôi cũng trích một vài đoạn khá xác thực, chỉ để tham khảo thêm:

 

 “Đô thành, quan Quận giao hòa

Lựa chiều hơn thiệt nói mà với Tây

Tây phiên ngẫm vẫn giận thay:

“Đem lòng cự chiến, còn đến đây làm gì?

May mà Nam Việt buổi bại suy

Tây mà bại, Đạo phen ni, cũng không còn

Người mà phiêu lạc núi non

Bao nhiêu nhà cửa chẳng còn gì đâu

Tây phiên thúc thủ thụ đầu

Hàng lai Nam Việt, mảnh âu chẳng lành

Tây phiên trở lại Tây thành

Ở đây xấu tiếng bia [bêu?] danh đã rồi

Họ không cho đâm nhánh mọc chồi

Trăm dao xẻo thịt thả trôi giang hà”

Quan Quận khi ấy nói qua

Nói cùng Đại Pháp chư nha phiên trào:

“…”

Quan một cho đến quan ba

Quan năm quan sáu vậy mà cũng nghe!

Đòi triệu các quan tỉnh trở về

Sự tình y ước cho ra bề đục trong

Tin thì tin, dạ còn phòng

Nam triều tể tướng nó đem lòng phục binh…”.

 

         Vẫn là vấn đề “bình Tây sát tả”, trá hàng [và có thể nói thêm, là vấn đề “Nam Việt”! (Bắc Việt đã bị “bảo hộ” theo chính sách thực dân “chia để trị”)].

         Chúng vẫn sợ Nam triều tể tướng Nguyễn Văn Tường làm nội công cho Tôn Thất Thuyết. Về vấn đề này, xin xem thêm: Tập san Những người bạn cố đô Huế (NNBCĐH.) (Bulletin des amis du vieux Huế, Cadière làm chủ bút), bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên” của linh mục Aldophe Del-vaux, Đặng Như Tùng dịch, Phan Xưng, Bửu Ý, Đỗ Hữu Thạnh, Hà Xuân Liêm hiệu đính, tập III (1916), Nxb. Thuận Hoá, 1997, tr. 54: “Triều đình thấy nguy cơ mất độc lập, đã bàn bạc ngầm các phương kế để chận đứng sự lấn chiếm của Pháp. […] Tôn Thất Thuyết, […] Nguyễn Văn Tường đã lôi kéo Hội đồng Cơ mật thoả thuận hai vấn đề quyết định như sau: Ra một mật lệnh cho các sĩ phu định rõ ngày tàn sát cùng lúc tất cả giáo dân trong toàn quốc [!sic!]. Sau khi loại kẻ tiếp tay cho quân xâm lược sẽ chuyển Triều đình và Chính phủ đến một pháo đài kiên cố, và đến các vùng hiểm trở bất khả xâm phạm. Đó chính là Cam Lộ hay đúng hơn là Tân Sở, và đó là trung tâm liên kết lực lượng ái quốc, là nơi Triều đình sẽ tạm dừng chân. Các chuẩn bị kì quặc để hình thành do những kỉ niệm quá khứ [của Nguyễn Văn Tường với vùng đất Cam Lộ], thảm hại thay, lại đã được thực hiện một phần lớn”. (Aldophe Delveaux); VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 554: “Tôn Thất Thuyết […] làm hịch Cần vương truyền đi khắp nơi […]. Sách tây chép rằng […] dân bên đạo phải tám ông cố và hơn hai vạn người bị giết” (Trần Trọng Kim). Các cố đạo Pháp thổi phồng quá đáng, chỉ nhằm mục đích kích động giáo dân ở “mẫu quốc” (!) và biện minh cho sự xâm lược (cướp nước, bóc lột và nô dịch) của thực dân Pháp! 

 

(61) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 237.

 

(62) Inrasara (sưu tầm, phiên dịch, giới thiệu), Văn học Chăm II – Trường ca (VHC.II. TC.), trong đó có trường ca [ariya] “Po Parơng” (Trường ca “Quan lớn Pháp”) do Hơp Ai viết, Nxb. Văn hóa dân tộc, 1996, tr. 171 – 173.

 

(63) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 222.

 

(64) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 222 – 223.

 

(65) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 223.

 

(66) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 223.

 

(67) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 223.

 

(68) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 224.

 

(68) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 224.

 

(70) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 224 – 225. Theo  nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh (ĐHSP. Huế), trong các tập châu bản Nguyễn Văn Tường, có một bản sớ phụ chính họ Nguyễn phân trần với Tam Cung về biện pháp cuối cùng: “… Lấy mặt cười vui để đối phó bàn tay hung bạo, mở tấm chân chành để thông suốt đá cứng, tuy [với biện pháp đó] không thể lấy làm mạnh, mà chỉ có thể làm kế lâu dài…” (Kỉ yếu HNKHLS., ĐHSP. Tp. HCM., 20.06.1996, tr. 41). Nhà nghiên cứu Trần Viết Ngạc còn trích dẫn châu bản: “… Huống nay sức kiệt của mòn, hai kì rách nát, sau khi đã bôn bá lưu li, mà nói là có thể mưu khôi phục, như thế khác gì kẹp núi mà vượt biển, có lí lẽ đúng chăng?” ; “… dời kho tàng, đặt phòng thủ cũng vì bởi cái lo chưa phát khởi mà dự phòng, không phải lấy điều đó mà mưu tính với người [:giặc Pháp]”. Vẫn theo Trần Viết Ngạc, công việc Cần vương đã chuẩn bị từ 1883, nhưng đến tháng 07.1885, chưa phải là lúc để nổ ra trận chiến ngay tại kinh đô, mà thời, thế, cơ bấy giờ bắt buộc phải có thêm một quãng thời gian hòa hoãn, cầm cự để tích cực chuẩn bị thời, thế, cơ mới (tập CBCKH., HTKH. tại Huế, 02.07.2002, tr. 56). Phát biểu trong hội thảo 02.07.2002, sau khi dịch giả Trần Đại Vinh đọc toàn văn bản sớ mà Trần Viết Ngạc trích dẫn nêu trên (có đoạn Nguyễn Văn Tường phê phán cả sự nóng vội của Tôn Thất Thuyết…), nhà nghiên cứu Nguyễn Nhã (ĐH. Hùng Vương Tp.HCM.) cho rằng đó là một cách nói của Nguyễn Văn Tường với mục đích đối phó, tạo sự tin tưởng ở Pháp, ở phe chủ “hòa” nhằm củng cố lại triều đình, để thực hiện sách lược “hai mặt”. Trong tập CBCKH., HTKH. tại Huế, 02.07.2002, tr. 59 – 83, tôi đã có bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi, 05.7.1885”, viết về vấn đề này. Mong rằng toàn bộ châu bản liên quan đến Nguyễn Văn Tường sẽ được giám định khoa học thực nghiệm để chính thức công bố bằng xuất bản. Xin xem lại bản sớ khác trích dẫn từ ĐNTL.CB. và đoạn truyện kí của tôi theo chú thích này.

 

(71) VHN., Nxb. Thuận Hoá tái bản, 1995, sđd., tr. 81.

 

(72) Tập san Những người bạn cố đô Huế (NNBCĐH) (Bulletin des amis du vieux Huế, Cadière làm chủ bút), bài “Phái bộ Pháp ở Huế và những phái viên đầu tiên” của linh mục Aldophe Delvaux, Đặng Như Tùng dịch, Phan Xưng, Bửu Ý, Đỗ Hữu Thạnh, Hà Xuân Liêm hiệu đính, tập III (1916), Nxb. Thuận Hoá, 1997, tr. 77; VNSL., Nxb. Tân Việt, bản 1964, sđd., tr. 552 – 553.

 

(73) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 225.

 

(74) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 225.

 

(75) Phan Canh, Đào Đức Chương, Thơ ca Việt Nam thời Cần vương (TCVNTCV.), bài Lệnh dụ Thiên hạ cần vương, bản dịch của Lê Thước, Nxb. Văn Học, 1997, tr. 16. Xem thêm: Trung – Pháp chiến tranh tư liệu, tập 7; Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỉ XIX, với bản dịch của Chu Thiên Hoàng Minh Giám.

 

(76) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 225 – 226.

 

(77) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 226 – 228.

 

(78) Dẫn theo tư liệu Hội Truyền giáo Bắc Kì (chủ yếu do Puginier viết): Xem chú thích (6) của truyện kí thứ mười hai này.

 

Chú thích xong lúc 18 giờ kém 05 phút,

ngày 20.02.2003 (20.01 Quý mùi HB.3).

 

TRẦN XUÂN AN

 

 

Hết tệp 6

(PHÂN ĐOẠN 2 TRUYỆN KÍ THỨ 12)

 

Xin xem tiếp tệp 7

(Phân đoạn 3 truyện kí thứ 12)

 

Trở về trang chủ

Cập nhật: 07/01/09

______________________________________________________________________________________________________________

 

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/home

 

 

Google page creator /  host

 

GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE  

 

    lên đầu trang (top page)   

 01-5 HB7 (2007) = 15-3 Đinh hợi HB7