h. Trần Xuân An - Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường - Tệp 8 / tập IV

author's copyright

TRẦN XUÂN AN

07/01/09

13-04 HB6

( 2006 )           

 

TẬP IV

 

 

Tệp 1

 

Tệp 2

 

Tệp 3

 

Tệp 4

 

Tệp 5

 

Tệp 6

 

Tệp 7

 

Tệp 8

 

Tệp 9

 

Tệp 10

 

Tệp 11

 

________

 

Hình ảnh:

 

Tệp 12

 

Tệp 13

 

Tệp 14

 

Tệp 15

 

Tệp 16

 

________

 

 

TẬP I

 

TẬP II

 

TẬP III

 

TẬP IV

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Kính dâng lên bàn thờ cao tổ phụ:

NGUYỄN VĂN TƯỜNG (1824 – 1886)

 

Trần Xuân An,

nội hậu duệ thế hệ thứ năm.

 

 

 

 

Tặng hai con thương quý của ba:

 

TRẦN XUÂN BÀI THƠ

& TRẦN XUÂN NHÂN VĂN

 

TXA.

 

 

 

 

Xem:

Blogger (Google) tháng 12-2005

http://tranxuananpcdtnvt4a.blogspot.com/

   & các trang tiếp theo: … 2a … 2b … 2c …

 

 

 

Tệp 8 –  Tập IV  

(phân đoạn 4, truyện kí thứ 12)

 

 

TRẦN XUÂN AN

 

KINH ĐÔ QUẬT KHỞI

VÀ QUỐC KẾ CHIA TÁCH – PHỐI HỢP TRIỀU CHÍNH

 

Truyện kí thứ mười hai

(phân đoạn 4) 

 

      23

 

       “Ý chỉ Từ Dụ thái hoàng thái hậu, ra ơn chuẩn cho Tuy Lý huyện công Miên Trinh, Hoằng Hoá hương công Miện Duyện, Hải Ninh kì ngoại hầu Miên Tằng và con phế đế [Hiệp Hoà] là Ưng Hiệp, Ưng Bác, con của nguyên Gia Hưng vương (đã chết bệnh) là Ưng Huy, Ưng Chân, Ưng Dũng, Ưng Linh, Ưng Suất, Ưng Vệ, (trừ Ưng diễn bị bệnh chết), trước đã an trí ở các tỉnh: Tuy Lý ở Quảng Ngãi, Hải Ninh ([ở] Bình Định), Hoằng Hoá ([ở] Phú An [:Yên]); Ưng Hiệp, Bác và Huy đều ở Quảng Trị, Cam Lộ; Chân, Dũng ở Nghệ An; Linh, Suất, Vệ ở Hà Tĩnh; nay đều tha về kinh [đô] ở. Nhưng do ba công ấy xem xét con cháu theo đi an trí, hạnh kiểm thuần cẩn ấy, có một, hai người cùng về, cùng nhau sáng chiều ăn ở với nhau. Dư [:số còn lại] đều vẫn như cũ. (Đến đời Đồng Khánh năm đầu, các công tử cũng đều chuẩn cho về, các vương công cũng đều lục tục [được] khai phục và truy phục)” (104) .

 

      +++

 

       “Thị độc ở quê là Đặng Hữu Phổ vì có tội bị chém đem rao:

      [Đặng] Hữu Phổ, người ở Đông giáp, Bác Vọng, con phò mã Đặng [Huy] Cát (ấm thụ hàm ấy). Khi ấy phủ Thừa Thiên sức huyện Quảng Điền đòi bắt lính. [Đặng Huy] Cát cùng [Đặng] Hữu Bác ngăn gạt đi, bắt giam huyện phái. [Đặng] Hữu Phổ lại đem dân quân hơn ba mươi (30) tên đến huyện nha, buông thả tù phạm, nã bắt viên bang biện huyện ấy, đem về đình [của] giáp ấy canh giam, cầm súng doạ bắn.

      Việc ấy đã phái cho nã xét.

      [Từ Dũ thái hoàng thái hậu, Thọ Xuân vương Miên Định] chuẩn cho [Đặng] Hữu Bác [Phổ?(*)], chiểu lệ côn quang, [phải bị] xử trảm; [Đặng Hữu] Cát vì cha con cùng can [án], [được] giảm đẳng [:giảm mức] xuống tội trảm giam hậu [:chém, nhưng giam chờ xét lại]; bọn hiệp quản Lê Văn Ngãi, ấm sinh Nguyễn Tán, cộng năm người, là tòng phạm, đều kết án đi đày” (105) .

     

      24

 

       “[Đầu trung tuần tháng bảy nguyệt lịch năm Ất dậu,] phái viên Pháp bắt thượng thư Bộ Hộ, sung Cơ mật viện đại thần là Phạm Thận Duật về Sở Thương bạc, rồi ép xuống tàu thuỷ, chạy đi Gia Định:

      ([Phạm] Thận Duật nguyên theo [xa] giá vua, rồi khi [ông] về đến Quảng Trị, bị phái viên của Pháp bắt được)” (106) .

      Khi thượng thư Bộ Hộ Phạm Thận Duật bị bọn Pháp đẩy xuống chiếc tàu thuỷ nhỏ để đưa xuống chiếc thuyền buôn lớn hơn, tên tàu là Calais, chở ông vào Gia Định, phụ chính Nguyễn Văn Tường lại một lần nữa hình dung ra cảnh ấy vào một ngày không còn lâu nữa, và người bị lưu đày lại là chính ông. Phụ chính Nguyễn Văn Tường lại một lần nữa suýt phải rơi nước mắt thương cảm cho đồng sự, đồng chí, may là còn nén lòng để giữ được vẻ bình tĩnh, điềm đạm trước cảnh tượng hôm nay, một ngày trung tuần tháng bảy nguyệt lịch.

      Phụ chính Nguyễn Văn Tường còn nhớ, ngày mười tám tháng sáu (29.07.1885), Phạm Thận Duật bị bắt  “khi [ông] về đến Quảng Trị” (106) . Hôm Pháp giải ông vào Nha Thương bạc, Phạm Thận Duật vốn đã ốm yếu lại càng ốm yếu. Tên Schmitz hỏi cung Phạm Thận Duật về hành trình phụ chính Tôn Thất Thuyết đã đi và nguyên nhân nào ông rời khỏi đoàn xa giá để về Quảng Trị, ghé vào nhà cựu thượng thư Trần Đình Túc ở huyện Gio Linh (Quảng Trị). Sự thật không cần nói cũng biết phụ chính Tôn Thất Thuyết và đoàn ngự giá chỉ quanh quẩn ở các sơn phòng, thượng đạo Quảng Trị, Quảng Bình. Số lượng người cứ hao mòn dần vì sốt rét rừng… Và Phạm Thận Duật bị bệnh tiểu đường, không thể tiếp tục cuộc chạy trốn khỏi sự săn đuổi của Pháp và cả quan quân triều đình muốn đón rước vua Hàm Nghi về Huế.

      Khi được gặp phụ chính Nguyễn Văn Tường, thượng thư Phạm Thận Duật có một thoáng vui mừng trong sự mệt mỏi.

      Không còn cách nào khác để tránh sự theo dõi của bọn Pháp, các cuộc chuyện trò giữa hai người tù đại thần vẫn phải diễn ra trong những lần “đi dạo” ở khuôn viên sân vườn Nha Thương bạc. Phụ chính Nguyễn Văn Tường nói một cách thân tình:

      - Quan Bộ Hộ sao lại về Gio Linh làm gì? Đã như thế, hãy sang lưu trú tại Trung Hoa luôn. Bệnh tật vậy, ở rừng làm sao có thuốc thang…

      Thượng thư Bộ Hộ Phạm Thận Duật mỉm cười héo hắt:

      - Không đi đường thượng đạo nổi, nên tôi xuôi sông ở Quảng Trị… Tôi định ra đường biển, qua biển Bắc (Trung Hoa). Dẫu hiệp ước Thiên Tân Pháp – Trung đã kí, nhưng thế nào mà chẳng còn một nơi cho người bệnh như tôi tá túc. Nếu đi đường rừng, hẳn an toàn hơn, nhưng không thể đi nổi…

       Phụ chính Nguyễn Văn Tường thở dài:

      - Tình hình triều đình bây giờ rất căng thẳng và đau đớn hơn bao giờ hết. Nhưng phong trào Cần vương lên mạnh, rất khí thế.

      - Nhưng rồi cũng tuyệt vọng thôi. – Thượng thư Bộ Hộ Phạm Thận Duật nói –. Ở ngoài Bắc, hầu như Nguyễn Hữu Độ đã nịnh hót Pháp mà xiết chặt từ tỉnh đến làng xã. Chỉ có một số nơi hưởng ứng Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương nhưng rất lẻ tẻ…

      - Dẫu sao cũng là những nỗ lực đáng quý. Nhưng tình trạng lúc này tranh tối tranh sáng rất đau lòng, như vụ con trai của phò mã Đặng Huy Cát và công chúa Tĩnh Hoà (nữ sĩ Huệ Phổ, con gái tiên đế Minh Mạng).

      - Vụ Đặng Hữu Phổ phải không?

      - Đúng, chính chú ruột của Phổ là Đặng Huy Xán đã bắt cả Phổ và phò mã Đặng Huy Cát nộp cho giặc Pháp (107). Nghe đâu bọn Pháp sẽ xử chém Đặng Hữu Phổ vào ngày áp cuối tháng tám dương lịch (29.08.1885) ngay tại bến đò làng Bác Vọng, huyện Hương Điền.

      - Đúng là “nồi da xáo thịt”, trách ai được!

      - Chính Từ Dũ thái hoàng thái hậu và nhiếp chính Thọ Xuân vương Miên Định đã cắn răng, rơi nước mắt phê chuẩn! Tình cảnh bất lực và đau đớn của triều đình hiện nay là thế.

      Cả hai đại thần đều im lặng thở dài.

      Phụ chính Nguyễn Văn Tường cố giữ vẻ điềm tĩnh của một người không mất nghị lực:

      - Nhưng tôi quyết tiếp tục đấu tranh, cho đến lúc nào còn đấu tranh được. Như vụ Nguyễn Hữu Độ chẳng hạn. Ngoài những nhiệm vụ lớn, tôi cũng không xem nhẹ việc đấu tranh chống những tên cơ hội, xu thời,  “xem gió chuyển buồm” như Nguyễn Hữu Độ. Nhưng nói cho đúng, đấu tranh chống lại việc giao quyền lực kinh lược sứ tại Bắc Kì cho Nguyễn Hữu Độ, thực chất là đấu tranh để khỏi mất hẳn Bắc Kì vào tay giặc Pháp. Ngày mười chín tháng sáu nguyệt lịch Ất dậu (30.07.1885) và mới cách đây mấy hôm, khoảng ngày hai mươi lăm tháng sáu (05.08.1885), tôi đã cho Nguyễn Hữu Độ và bọn De Courcy, De Champeaux biết thế nào là phải phép!

      Có Phạm Thận Duật tại nhà tù Nha Thương bạc này, phụ chính Nguyễn Văn Tường cũng thật sự cảm thấy đỡ buồn, vì có một đại thần đã từng chung nhau nhiều công việc để chuyện trò.

      Nhưng bọn Pháp không thể không chở thượng thư Phạm Thận Duật vào khám lớn tại Sài Gòn để khai thác thêm những thông tin về vua Hàm Nghi và phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết cùng kế hoạch của Viện Cơ mật trước ngày kinh đô quật khởi và thất thủ (05.07.1885).

      Mười một ngày sau, mùng một tháng bảy (10.08.1885), thượng thư Phạm Thận Duật bị bọn Pháp ép xuống tàu buôn Calais. Phụ chính Nguyễn Văn Tường biết bọn Pháp chở dần từng người vào nhà lao của chúng để khảo cung. Nghe đâu, đến ngày hai mươi (29.08.1885), thượng thư họ Phạm bị kí giam vào khám đường La Grandière (*) tại Gia Định. Liệu thượng thư Phạm Thận Duật có biết im lặng hoặc biết nói sai sự thật?

      Có một điều khác với cựu đề đốc Tôn Thất Đính là Phạm Thận Duật không bị kết án gì và cũng không có cáo trạng nào cả! Người ta không hiểu vì sao như vậy…

    

      25

 

       “… Tháng trước [tức là tháng sáu nguyệt lịch, Ất dậu], thân hào tỉnh ấy cũng nghe hành tại có Dụ Cần vương, mưu dấy quân, bèn họp đem những lính kinh tan về và lính dõng ở dân, [đi] đốt phá nhà [thờ] đạo [Thiên Chúa], dìm giết giáo dân, rồi đem binh dân ước hơn vạn người, [đi] quanh tới tỉnh thành, yêu cầu cấp cho khí giới (đã [ép] bách giám đốc thần là Lê Thận lại cho về dinh), ngụy đặt những danh mục đề đốc, tham tán, lại đi khắp trong hạt giết dân giáo, mộ lính dõng, nói phao lên tiến đánh  quân Pháp ở cửa Thi Nại.

      Khâm sứ Pháp là Tham Bô [De Champeaux] bàn phái: Cho khâm sai đã [nhận] mẹânh [lệnh], cho Binh bộ tham tri Hoàng Hữu Thường sung phái ngồi tầu thủy Pháp chạy đi.

      Lúc đó vì đường ngăn trở, phải trở về.

      Khâm sứ Pháp [De Champeaux] lại bàn tục phái [:phái tiếp]: Đổi sai thị lang Bộ Lễ là Ngô Trọng Tố (lãnh bố chính sứ tỉnh ấy về trước, tình thế đã am hiểu).

      Rồi vì đường dịch lộ Quảng Ngãi không đi được, [De Champeaux] lại [bàn]: Sai lãnh bố chánh sứ Quảng Nam là Bùi Tiến Tiên (nhưng lấy án sát Hà Thúc Quán quyền sung bố chánh sứ Quảng Nam, [và] Hồng lô tự khanh về nuôi cha mẹ, là Nguyễn Duy Hiệu sung làm án sát sứ); thự thống chế Ngô Tất Ninh sung chánh, phó khâm sai, [cai] quản [và] đem quan binh hai tỉnh Nam – Ngãi bảy trăm (700) tên đi ngay đến, họp làm.

       [Tất cả] đều nhân đường ngăn trở chưa đi được.

       Đến đây thự tổng đốc là Lê Thận tâu nói: “Đã họp văn thân quan viên trong hạt ấy hiểu dụ. Bọn ấy đã tản về, xin nên rộng tha, cho yên sự phản trắc…” […]

         “… […] Nếu còn giữ thói mê, do các quan đô thống [Pháp De Courcy], khâm sai [của triều đình?] đem đại đội quan binh, không kể lương hay giáo, cũng phải đau lòng đánh dẹp…”” (108) .

     

      26

 

       “Thống chế thự đô thống Tả quân là Đinh Tử Lượng chết (109):

      [Đinh] Tử Lượng trước đến hành tại Quảng Trị. Từ khi xe vua đi Sơn phòng [Tân Sở], [ông] vẫn lưu lại ở tỉnh ấy, vâng lệnh khâm cấp [:lệnh do thái hậu, nhiếp chính ban ra] để đi về miền Bắc đón rước xe vua [Hàm Nghi]. [Ông] cùng [tham tri Bộ Binh] Trương Văn Đễ cùng đi. Đến cửa quan Quảng Bình, [ông] ốm chết, [thái hậu, nhiếp chính] chuẩn cho chiểu hàm cấp tuất.

      ([Tham tri Bộ Binh Trương] Văn Đễ sau về [tới] tỉnh Quảng Trị ốm, [rồi] mất. Nguyên hàm thự tham tri đã chuẩn cho truy trao, cấp tuất)” (109) .

     Tham tri Trương Văn Đễ cũng như thự đô thống Đinh Tử Lượng, một người nhận lệnh bí mật lẻn về sau khi lên Tân Sở (110), một người vẫn đóng quân tại thành Quảng Trị, đều để cản hậu, làm nút chặn sự truy kích của giặc Pháp. Sau đó, cả hai vị quan tướng này lại nhận lệnh tìm vua Hàm Nghi để rước về kinh đô. Rất nhiều sĩ dân bấy giờ không thể không hiểu quốc kế chia tách – phối hợp triều chính với luật cổ điển “một nước không thể hai vua” và tính giai đoạn của nhiệm vụ họ được giao phó. Nhưng thật lòng vẫn có người ngờ rằng cả hai vị không phải đơn giản là ốm bệnh mà chết! Cho dù quả thật do bệnh ốm mà chết, bọn Pháp vẫn truy tội cố tham tri Trương Văn Đễ ngay trong tháng sau…

     

      27

 

       “Ý chỉ Ba Cung [thái hoàng thái hậu Từ Dũ, hoàng thái hậu Vũ thị (trung phi), hoàng thái phi Nguyễn Văn thị (học phi)], lại xuống dụ cho thân hào, giám linh mục ở các địa phương trong [kinh], ngoài [tỉnh] và các dân lương, giáo: […] (111)

     

      “… TỪ ĐIỀU ƯỚC TÁI ĐỊNH [PATENÔTRE, 1884] ĐÃ ĐƯỢC PHÂN MINH, KHIẾN NƯỚC PHÁP TRƯỚC TỰ BẠI HÒA GÂY BIẾN, THÌ PHÀM AI Ở ĐẤT VUA, CŨNG ĐỀU THÙ GHÉT [GIẶC PHÁP], AI BẢO LÀ KHÔNG NÊN. KHÔNG GÌ BẰNG CUỘC NGHĨA CỬ ĐÊM HAI MƯƠI HAI THÁNG NĂM [22 THÁNG 5 ẤT DẬU (05.07.1885)] NĂM NAY…” (*) (111) .

     

      Cuộc kinh đô quật khởi được Tam Cung đánh giá cao như một loé sáng bi tráng trong các bản dụ! Bà Nguyễn Nhược thị Bích và Tam Cung vốn khá chủ “hoà”, vẫn viết và tuyên cáo được những dòng chữ bi tráng tuyệt vời chính xác, mãi mãi loé sáng đến thiên thu như thế! Phải chăng do tác động bừng bừng khí thế vì quốc thể và danh dự một triều đại trong cuộc kinh đô quật khởi, mặc dù thất thủ một cách đau thương? Nếu đúng như thông lệ, các bản dụ đều có sự tham gia ý kiến của Viện Cơ mật, thì rõ là, có sự nhập nhằng trong sự chỉ đạo, vốn phản ánh quan điểm không thể thống nhất, thậm chí phủ định nhau trong các thành viên Viện Cơ mật. Ngoài ra, các bản dụ còn thể hiện sự nhập nhằng, lẫn xanh với đỏ, lẫn nếp với đậu, trong nhận định tình hình như thế (bởi lúc này, oái oăm thay, De Champeaux lại là thượng thư Bộ Binh kiêm Cơ mật viện đại thần của triều Nguyễn!).

      Và cũng là ánh sáng độc lập, tự chủ bừng lên, với tư thế đã khiến kẻ thù đã phải sợ hãi, khi bản dụ xử lí minh bạch cuộc chiến tranh lương – giáo, thực chất là trấn áp bọn “tả đạo” cướp chính quyền, được viết và tuyên cáo (112):

       “… Đến đây lại lấy hai bên bình, giáo còn chưa yên, [Ba Cung: thái hoàng thái hậu Từ Dũ, hoàng thái hậu Vũ thị (trung phi), hoàng thái phi Nguyễn Văn thị (học phi)] lại dụ thêm rằng:

      “Bình, giáo dù có khác lỗi, nhưng đều là con đỏ của Triều đình, không nên chia rẽ khác nhau. Gần đây, có nhiều việc giống nhau và khác nhau. Người làm dân lương ghét vì không đồng đạo [không cùng đạo thờ kính anh hùng dân tộc, thờ kính tổ tiên lâu đời của người Việt Nam] mà trong lòng sinh nóng lạnh. Người làm dân giáo, cậy thế [thực dân Pháp, cố đạo Pháp] lấn át, mà tình ruột thịt đem đặt ra ngoài da. Hai đằng ghét nhau thì hai đằng hẳn thù nhau, thì thế cố nhiên như thế. Nhưng xét kĩ ra thì đầu đuôi cũng tự người đầu mục không khéo xử trí cho nên nỗi ấy.

      Ôi! Nhà nước dựng nên quan tư mục, cốt để trị dân. Làm sư đạo [giám mục, linh mục] của dân một địa phương, phải nên giữ lòng minh chính. Hoặc có kẻ bị ghét quá đáng, một khi kiện cáo, gia thêm nạt nộ mà dân giáo uất ức không bày tỏ được. Hoặc sợ hơi nóng bốc lên, gặp có sự lăng ngược, một chiều nín náu, mà ẩn tình của người dân lương không bày được. Làm giám linh mục ấy, trách nhiệm giảng giáo, phải nên giữ lòng công bình. Bình dân [:dân lương] hoặc có kẻ trốn tránh dao thuế, mà chạy vào nhà [Thiên Chúa] giáo ấy, hoặc có kẻ tranh chiếm ruộng đất mà nhờ thế [Thiên Chúa giáo] ấy, [thì] đều bao dung cả. Đến nỗi, có kẻ cậy thế mà bức bách người, hoặc có kẻ khinh thường pháp luật mà không đoái, đều không phải là sở ý của Thiên Chúa dạy dân. Kẻ bình dân kia sao không nghĩ cùng ở đất vua, đều là dân vua, giáo dân bình nhật binh đao thuế khóa cùng với lương dân cùng thế. Gián hoặc bức hiếp bình dân vì lẽ gì, sao không tới địa phương quan mà tố cáo, mà dám hại nhau, ngược đãi nhau ngang trái như thế, đối với pháp luật thực khó dung. Giáo dân ấy sao chẳng nghĩ sinh ở đời này, tam giáo cửu lưu, đều có đạo cả, nào ai có cấm đâu mà bèn mượn thế lấn người, đến nỗi chứa bao thù oán, lòng sao nỡ thế. Ôi! Giáo đã không dung được lương, thì lương cũng không cam tâm chịu thua giáo, phải đến tranh nhau, khiến cho trong chốn làng xóm, không lấy ơn lễ ở với nhau mà lại trông nhau như thù nghịch. Giết người, đốt nhà, tội có nhỏ đâu, mà lại đem thêm thử pháp luật như việc gần đây xảy ra ở Bình Định và Quảng Ngãi, rất là quái gở, đáng giận, cần nên tỏ rõ điển hình để răn bảo. Nhưng nghĩ bọn ngươi một khi giận dỗi, dám làm điều trái đạo, rồi hay cải hối được. Nếu chẳng uốn nắn cầu toàn, hẳn đến ngọc đá đều cháy. Trong lòng ta thực không nỡ thế, [nên] đã chuẩn gia ơn cho miễn sự tra xét một lần.

      Từ nay nên hậu tình hòa hảo, không nên ghen ghét lẫn nhau. Làm người coi địa phương phải ngay sáng để xướng xuất, mà sự oan uổng cần được thân lí. Làm giám linh mục phải công bằng để dạy dỗ, mà sự ghen ghét phải bỏ đi. [Phải như thế] khiến cho cùng thuận, cùng giúp, cùng phù trì nhau, hai bên hoà thuận thì còn gì vui bằng. Nếu không khéo khu xử, đều tự thù hằn nhau, thì đều có tội để xử. Địa phương quan, [thì triều đình] chiếu theo lệ nịch chức nghiêm trị. Giám linh mục, [thì triều đình] tư sang nước Pháp nghĩ xử.

      Đều nên kính cẩn nhé! Thông lục đều tuân”.…” (112) .

      Về cuộc chiến tranh lương – giáo, nhất là tại Bình Định, giữa lương dân bảo vệ chính quyền với “tả đạo” cướp chính quyền, các cố đạo Puginier và Van Camelbeck không tiếc lời nguyền rủa phụ chính Nguyễn Văn Tường, người đã cam kết với chúng thế này nhưng lại ra mật lệnh thế kia:

      - Nguyễn Văn Tường ấy, lão già quỷ quyệt ấy là  “KẺ THÙ LỚN NHẤT CỦA NƯỚC PHÁP” (113) !

      - Lão phụ chính Nguyễn Văn Tường ư?  “Nguyễn Văn Tường là một người An Nam điêu toa nhất mà người ta đã gặp” (113) !

      Về sau, tên cố đạo Aldophe Delvaux làm ra vẻ khách quan:

      “Tướng De Courcy lấy tin tức [ở] ông Tường, ông này đều bảo đảm rằng sự trật tự an ninh đang hình thành khắp nơi. [Trong khi đó], các tin tức báo động dồn dập từ miền nam [tả kì] được gửi đến. Tướng Prudhomme muốn biết tường tận tình hình thật sự các việc, đã được ông De Courcy chấp thuận và cho phép đến các nơi ấy. Ông đi cùng ông De Champeaux trên chiếc tàu “Le Lutin” và đến Quy Nhơn ngày 18.8, và ông đã mục kích toàn là máu lửa” [!sic !] (114) .

      Lời cáo buộc và nguyền rủa ấy của những kẻ không phải là tu sĩ chân chính, mà là tu sĩ mang bản chất thực dân thâm ác và cuồng bạo, khiến người ta không tin vào sự thổi phồng quá đáng về hậu quả chiến tranh lương – giáo, nhưng vẫn thấy rõ sự thù hận của chúng đối với phụ chính Nguyễn Văn Tường.

      Nhưng cái chính khiến các tên thực dân Pháp âu lo là mối liên lạc thường xuyên giữa hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết trong kế sách chia tách – phối hợp triều chính:

       “Một sự mâu thuẫn sâu xa chia rẽ tướng De Courcy và ông De Champeaux, nhất là đối với vấn đề ông phụ chánh Tường. Vị tướng thì quả quyết là ông Tường luôn luôn liên lạc với ông Thuyết và [trước đó] lại nhúng tay vào mọi cuộc âm mưu lật đổ, và [vì thế,] đem [ông Tường] xuống tàu, đày đi Côn Đảo ngày 06.09 [1885]… […] lại chuyển đến Tahiti […]. Ông De Champeaux lại cho rằng ảnh hưởng của ông Tường là rất lớn… […]” (115) .

    

     28

 

       [TƯỚNG GIẶC DE COURCY BẮT GIAM, KẾT ÁN, LƯU ĐÀY PHỤ CHÍNH NGUYỄN VĂN TƯỜNG;  VÀ KHÂM SỨ GIẶC DE CHAMPEAUX CÁO THỊ RỘNG KHẮP VỀ VỤ VIỆC:]   

 

      “ĐÔ THỐNG ĐẠI PHÁP LÀ CÔ RA XY [DE COURCY] BẮT THÁI PHÓ, CẦN CHÁNH ĐIỆN ĐẠI HỌC SĨ, LÃNH LẠI BỘ THƯỢNG THƯ, KIÊM SUNG CƠ MẬT VIỆN ĐẠI THẦN, KÌ VĨ QUẬN CÔNG, LÀ NGUYỄN VĂN TƯỜNG XUỐNG TÀU THỦY CHẠY ĐI GIA ĐỊNH (116):

      CỨ THEO LỜI CÁO THỊ CỦA KHÂM SỨ THAM BÔ [DE CHAMPEAUX] NÓI: “[VIÊN QUAN HUẤN ĐẠO, TRI HUYỆN, TÁN LÍ, THƯỢNG THƯ NGUYỄN] VĂN TƯỜNG TỪNG ĐÃ CHỐNG CỰ NƯỚC [NƯỚC PHÁP] ẤY THỰC ĐÃ NHIỀU NĂM. TỪ KHI CÙNG TÔN THẤT THUYẾT SUNG LÀM PHỤ CHÁNH, [NGUYỄN VĂN TƯỜNG] CHỈN [:VỐN] LẠI ĐỔNG SUẤT QUAN QUÂN NỔI DẬY CÔNG KÍCH QUAN BINH NƯỚC [NƯỚC PHÁP] ẤY; VÀ [PHỤ CHÍNH NGUYỄN] VĂN TƯỜNG DO ĐÔ THỐNG ẤY XIN [CHÍNH PHỦ PHÁP] CHO HAI THÁNG [NHẰM ĐỂ] LO LIỆU VIỆC NƯỚC CÙNG BẮC KÌ CÙNG ĐƯỢC LẶNG YÊN VÔ SỰ; [KÌ THỰC] ĐẾN NGÀY HAI MƯƠI BẢY (27) THÁNG [BẢY] ẤY [05.09.1885] HẾT HẠN, MÀ CÁC TỈNH TẢ KÌ VỀ PHÍA NAM, CÓ NHIỀU NƠI NỔI QUÂN CHÉM GIẾT DÂN GIÁO.

     ĐẾN ĐÂY ĐÔ THỐNG [DE COURCY] ẤY ĐỊNH ÁN, ƯNG [:NÊN / PHẢI] KẾT [PHỤ CHÍNH NGUYỄN VĂN TƯỜNG] TỘI LƯU”.

     HÔM ẤY, [BỌN PHÁP] CHỞ ĐEM [PHỤ CHÍNH NGUYỄN] VĂN TƯỜNG ĐẾN CỬA BIỂN THUẬN AN. BUỔI CHIỀU NGUYỄN HỮU ĐỘ, PHAN ĐÌNH BÌNH ĐI TÀU THỦY PHÁP CŨNG VỀ ĐẾN CỬA BIỂN ẤY.

      (THUYỀN PHÁP CHỞ [PHỤ CHÍNH NGUYỄN] VĂN TƯỜNG ĐẾN GIA ĐỊNH, SAU CHỞ GỒM CẢ [THƯỢNG THƯ BỘ HỘ] PHẠM THẬN DUẬT, [CỰU ĐỀ ĐỐC] LÊ ĐÍNH [:TÔN THẤT ĐÍNH] ĐEM VỀ NƯỚC ẤY [THUỘC ĐỊA TAHITI CỦA PHÁP]. [PHẠM] THẬN DUẬT TRONG KHI ĐI ĐƯỜNG, BỊ ỐM, CHẾT Ở TRONG TẦU, [PHẢI BỊ] BUÔNG XÁC XUỐNG BIỂN)” (*) (116) .

     

      Ngay sau khi phụ chính Nguyễn Văn Tường bị Pháp bắt đưa xuống tàu thuỷ, sáng hai mươi tám tháng bảy Ất dậu (06.09.1885), tại Quảng Trị, các sĩ phu Văn thân đã lãnh đạo nhân dân, phát động một cuộc  “bình Tây sát tả”  thật dữ dội. Những tên cố đạo Pháp, thực chất là gián điệp, như Mathey (117) (tên tiếng Việt là Thiện) chẳng hạn, đã bị lùng bắt, nhưng vẫn có tên thoát được. Sĩ dân đã đập tan âm mưu cướp chính quyền của bọn Tây “tả đạo” đó, và cũng để phục hận cho thái phó phụ chính Nguyễn Văn Tường.

       “Một vài nhà truyền giáo trong tỉnh và một vài ông quan cho biết rằng năm 1885 [Ất dậu], nhất là vào tháng chín (9), tỉnh Quảng Trị đã là hiện trường của một cuộc tiêu diệt có phương pháp, được tiên liệu, có tổ chức, để loại trừ các người theo đạo Chúa, gây ra bởi đảng của Văn thân, có sự ủng hộ tinh thần của ít nhất là hai quan phụ chính…” (118) .

      Chính tên Mathey, cố đạo gián điệp người Pháp này, sau đó, đã dẫn đường cho bọn Pháp viễn chinh mang súng đạn lên đánh phá Tân Sở và đốt cháy các làng Bảng Sơn, Mai Đàn gần đó (117)!

     

      29

 

       “Đô thống Pháp là Cô Ra Xi [De Courcy], khâm sứ Tham Bô [De Champeaux] đưa thư nói giao trả thành trì, yêu cầu rước Ba Cung đều [từ Khiêm lăng] trở về cung điện [trong hoàng thành]; quan lại các nha ở sáu bộ vào thành đóng ở, làm việc như cũ; phàm các [vật] hạng ở trong kinh thành đều giao trả cả. Và [hai tên đô thống Pháp là Cô Ra Xi [De Courcy], khâm sứ Tham Bô [De Champeaux]] cáo thị cho trong kingh [đô], ngoài tỉnh rằng:

      “Trước đây, Nguyễn Văn Tường đã giảng hoà. Đô thống Pháp [De Courcy] đã đánh điện về triều Pháp biết. Gần đây, mới điện [qua,] phục lại ngôi hoàng đế nước Đại Nam như trước, Nhà nước Đại Nam cũng y như cũ. Cho nên, tới đây mới nói rõ sự giao trả thành trì” (119)…

      “Mậu thìn (tức ngày mồng bốn tháng [tám] [12.09. 1885] này), chỉ dụ chuẩn rước Kiên Giang quận công [Ưng Kỹ] vào nối ngôi hoàng đế” (120).

      “… Lấy ngày mồng sáu [14.09.1885] kính rước vào thành, ngày mười một [19.09. 1885] làm lễ tấn quang [vua bù nhìn, ngụy vương đầu tiên: Đồng Khánh]…” (120) .       

        Ở phiến tấu về lễ đăng quang, cái tên tiếng Pháp của thượng thư Bộ Binh sung Cơ mật viện đại thần Đại Nam là De Champeaux đứng đầu danh sách triều thần, trên cả nhiếp chính Thọ Xuân vương Miên Định và hai tên đại thần tay sai Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình, đã nói lên thực trạng bi thảm của triều đình nhà Nguyễn!

      Chính triều nhà Nguyễn hầu như hoàn toàn cáo chung từ đấy. Đồng Khánh là tên vua khởi đầu cho giai đoạn ngụy triều ô nhục.

     

      30

 

      Sau hai tháng vùng quẫy trong những sợi dây càng ngày càng thít chặt của thực dân Pháp, triều đình nhà Nguyễn đã hoàn toàn chịu trói.

      Quốc kế chia tách – phối hợp triều chính không thể thực hiện được một khi triều đình vắng bóng những đại thần như phụ chính Nguyễn Văn Tường, thậm chí còn bị phản tác dụng một cách đau lòng nữa là đằng khác (một nước lại có hai vua, huynh đệ tương tàn!).

      Thế là triều đình hoàn toàn mất vào tay giặc Pháp, kể từ ngày hai mươi bảy tháng bảy (05.09.1885), ngày phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường bị giặc Pháp bắt xuống tàu thuỷ. Chuyến tàu lưu đày hôm ấy có lộ trình là chở ông vào Côn Đảo, sau khi ghé Gia Định để chở thượng thư Phạm Thận Duật và cựu đề đốc Tôn Thất Đính!

     Khi tàu thuỷ cập bến Thủ Ngữ tại Sài Gòn, phụ chính Nguyễn Văn Tường vẫn không muốn nguôi quên cuộc kinh đô quật khởi bi tráng, những tên trư tử người Pháp lao đầu vào chỗ chết và vị vua trẻ Hàm Nghi ông đã hết lòng vun xới, phù tá, đang trên các nẻo đường thượng đạo, sơn phòng. Ông cảm khái đọc hai câu song thất:

 

 “Tây trư tựu trở bì do xích

Nam giáng li chi quả vị hoàng” (121)

 

Lợn Tây lao thớt, da nên trụi

Măng Việt rời cành, trái chửa hườm (121)

 

      Tuy vậy, phụ chính Nguyễn Văn Tường vẫn thấy rõ, cảm nhận rõ Đất nước đang bừng sôi một khí thế bi tráng của phong trào Cần vương, một phong trào bùng dậy như nước vỡ bờ bởi  “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương”  và bởi sức mạnh quật khởi hoàn toàn tự giác của nhân dân Đại Nam ta.

     

      31

 

      Hai tháng trước, vào ngày rằm tháng năm Ất dậu, kì thi đình đã được tổ chức để tuyển chọn nhân tài cho Đất nước. Mười ba sĩ tử đạt trúng cách và thứ trúng cách được dự kì điện thí này. Trong kì thi ấy, chàng trai trẻ mười tám tuổi ta, con trai của Nguyễn Thượng Phiên, nhà ngoại giao đã từng đi vận động các nước châu Á ủng hộ nước ta chống Pháp và đã có thời gian lưu trú tại Quảng Châu (Trung Hoa), là Nguyễn Thượng Hiền. Ông nổi bật lên một cách xuất sắc, bên cạnh một chàng trai khác, đó là Nguyễn Văn Mại. Hai người thanh niên này, dẫu về sau một theo khuynh hướng chủ chiến, một ngã dần rồi ngã hẳn theo phía chủ “hoà”, với nhãn quan và cái dũng của ngòi bút khác nhau, đều đã thi xong, quyển được chấm xong. Nhưng kết quả chưa kịp truyền lô, cuộc kinh đô quật khởi đã bùng nổ.

      Nguyễn Văn Mại, một viên quan chủ “hoà” về sau, nhưng lúc này đã ghi nhớ giúp phụ chính Nguyễn Văn Tường hai câu song thất:  “Tây trư tựu trở bì do xích, Nam giáng li chi quả vị hoàng” . Nguyễn Thượng Hiền lại da diết hơn với bài thơ xót xa đến nhức nhối về cảnh Đất nước hoàn toàn mất hẳn vào tay giặc Pháp sau hai tháng vùng quẫy, giẫy giụa đầy bi tráng của triều đình tại Huế. Nguyễn Thượng Hiền suy ngẫm về bối cảnh của Đất nước, về ba đại thần Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Tôn Thất Thuyết, và cả gia đình vị phụ chính Tôn Thất này, trong đó có cả cựu đề đốc Tôn Thất Đính, người đã theo con trai lên rừng núi, bị giặc bắt được và bị chúng kết án là  “cư suất giúp tiễu [trừ giặc Pháp và “tả đạo”]” (93) . Bài thơ của Nguyễn Thượng Hiền thê thiết đến đứt ruột nhưng vẫn ấm lửa bi hùng và thơm ngát hương sen, trung trinh  “tơ lòng”  không lìa  “ngó ý” .

      Một hôm vào khoảng trung tuần tháng tám Ất dậu (1885), Nguyễn Văn Mại, thủ khoa kì thi hương năm ngoái (1884), có gặp Nguyễn Thượng Hiền. Mại chỉ dám khe khẽ tâm sự:

      - Hiền này, mình có được đọc bài thơ  “Huyền Vũ lâu tiền mãn địa sương”  của anh, thấy sợ giùm anh thật! Bọn Tây hay “tả đạo” nó chộp được thì bọn chúng lôi anh ra pháp trường Bắc Dã ngoài An Hoà ngay!

      - Vậy chứ anh cũng đã theo  “Lệnh dụ Thiên hạ Cần vương”  ra Quảng Trị… – Nguyễn Thượng Hiền đáp –.

      - Mình buồn cho mình quá, muốn theo phò vua Hàm Nghi kháng chiến, nhưng thấy tuyệt vọng quá, đành quay về!

      Nguyễn Thượng Hiền muốn trào nước mắt, anh nghiến răng, bậm môi lại. Một lúc Nguyễn Thượng Hiền mới nói được:

      - Chiến không được, thủ không được, hoà không được, mình cũng đành quyền nghi bằng văn thơ thế thôi. Chắc phải nuôi chí đợi một thời, thế, cơ mới…

      Nguyễn Văn Mại, hơn hai tháng nay đâm ra nhát, sau mấy ngày lặn lội ra Quảng Trị tìm đường phò vua. Mại nói như tự nhủ:

     - Còn Mại này chắc phải “hoà” thôi… Văn Thiên Tường, vốn làm quan đến hữu thừa tướng triều Tống, khi nhà Tống sắp bại vong bởi quân Nguyên, ông ấy được cử đi bàn hoà với tướng giặc, bị chính tướng giặc Nguyên ấy bắt giữ lại… – Nguyễn Văn Mại bỏ lửng điển tích anh hùng bất khuất đến chết đó –. Bọn mình khác với hữu thừa tướng Văn Thiên Tường, bọn mình còn trẻ, chưa nặng nợ chi… Đỗ kì này, chưa được chút đỉnh chung nào cả, mà phải gánh nặng mấy trăm năm cựu triều… Tâm trạng một anh đồng hương Quảng Điền, Thừa Thiên, đồng khoa điện thí với bọn mình cũng nói rứa! Hiền có trách mình thì trách…

      - Anh đồng hương Quảng Điền, Thừa Thiên nào vậy? Người trúng cách duy nhất vừa rồi phải không?

      - Đúng là Trần Đạo Tiềm đó. Anh ta nói nguyên văn như ri:  “Xưa ông Văn Thiên Tường bái tướng [bàn hoà], khí thế nước đã đến lúc nguy vong, mà thân [phải] gánh nặng ba trăm năm cơ nghiệp nhà Tống. Chúng ta đăng khoa kì này cũng là một sự bất hạnh [!] vậy” (122) .

      Và Nguyễn Thượng Hiền, chàng trai mười tám tuổi, tân khoa kì thi hội, chưa kịp được công bố kết quả xếp hạng tiến sĩ ở bậc nào, không thể đọc lại cho Nguyễn Văn Mại, người bạn đồng khoa thi đình của anh, bài thơ  “Huyền Vũ lâu tiền mãn địa sương” , bài thơ Hiền vốn rất tâm đắc. Nguyễn Thượng Hiền tự bảo mình, mình không thể ngã lòng rồi quyết chủ “hoà”, với tính toán cá nhân tầm thường như Trần Đạo Tiềm được!

     

[VÔ ĐỀ]

                       

Huyền Vũ lâu tiền mãn địa sương

Dũ phong đình nguyệt thái thê lương

Sơn xuyên cố quốc âm tình cải

Nhung mã toàn gia đạo lộ trường

Không quá Tây môn bi thái phó

Thùy tòng Bắc hải vấn trung lang

Ngu uyên thử nhật vô tiêu tức

Trường đoạn thanh khê bích ngẫu hương

                                                  (123).

Mai Sơn

NGUYỄN THƯỢNG HIỀN

(1868 - 1925)

 

               [KHÔNG ĐỀ]

 

Trước lầu Huyền vũ, đầy đặc [trên] đất [là] sương

Gió [lùa qua] cửa sổ, trăng [chiếu rải ngoài] sân, 

      quá đỗi thê lương!

Sông núi nước cũ (:triều đại cũ, trước 05.07. 1885(*)),

giọng tiếng [và] lòng dạ đã biến đổi           

[Cùng] binh lính, [vó] ngựa,

cả gia đình

[trên] đường sá [với] lối nẻo [đang mở rộng,

      kéo ra] dài dặc   

Cái hư không (:Trời) đến cửa Tây (**),

khóc không để lộ nước mắt

(đau đớn khóc thầm) thái phó

Ai giúp giùm biển Bắc, [xin] hỏi viên quan lang

      (:quan nguồn) [đồng bào Thượng

ở thượng  nguồn vốn có lòng] trung thành

Phương lặn mặt trời rực [nắng] ngày,

      tin tức vắng bặt

Ruột đứt, khe nước trong xanh, xanh biếc ngó [ý,

với tơ lòng, hương] sen thơm ngát.

 

Huyền Vũ lầu không đặc lớp sương

Trăng sân gió cửa quá thê lương

Non sông cố quốc bao thay đổi

Gươm ngựa toàn gia vạn dặm trường

Không [: Trời] đến cửa Tây,

                          thương thái phó

Ai về biển Bắc, hỏi trung lang

Tìm trời đáy biển không tin tức

Đứt ruột sen khe lộ ngó hương (123).

                                               

Huyền Vũ trước lầu đất ngập sương

Trăng sân gió cửa quá thê lương

Núi sông nước cũ lòng thay giọng!

Gươm ngựa toàn nhà nẻo mở đường

“Vô” sái cửa Tây, thương thái phó

Ai xuôi biển Bắc, hỏi quan nguồn

Rực ngày phương lặn không tin tức

Ruột đứt khe xanh, biếc ngó hương (123) .

 

                                                                              

Hết tệp 8

(PHÂN ĐOẠN 4)

– trọn TRUYỆN KÍ THỨ 12 –

                                Khởi viết từ 07 giờ 41

sáng ngày 17.01.2003

(15.12 Nh. ngọ HB.3)

Viết đến dòng chữ này vào lúc 17 giờ 07 phút,

ngày 24.01.2003 (22.12 Nh. ngọ. HB.3).

 

TRẦN XUÂN AN

 

 

 

(104) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 240.

 

(105) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 240 – 241.

 

(106) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 241.

 

(107) Nhóm Chu Thiên Hoàng Minh Giám, Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỉ XIX  (TVYN. NSTK. XIX), Nxb. Văn Học, 1970, tr. 295 và tư liệu của Đặng tộc; dẫn theo TCVNTCV., Nxb. Văn Học, sđd., 1997, tr. 192 – 193.

 

(108) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 241 – 242. Vụ Quảng Ngãi (Lê Trung Đình) và vụ Bình Định (Đào Doãn Địch) khác nhau về “ngọn cờ khởi nghĩa”. Lê Trung Đình tôn phù Tuy Lý vương Miên Trinh, một nhà thơ hoàng tộc chủ “hòa”, câu kết với Pháp thời Hiệp Hòa, vốn bị đày vào Quảng Ngãi (mặc dù Miên Trinh từ chối). Do đó Nguyễn Văn Tường đánh giá đấy là cuộc “nổi loạn” duy nhất (ĐNTL.CB, tập 36, sđd., tr 233 – 234). Đào Doãn Địch chỉ thuần hưởng ứng Dụ Cần vương, “bình Tây sát tả” (đánh Pháp và đánh bọn dữu dân trong giáo dân, vốn đích thực là tay sai của thực dân), nên ngầm được ủng hộ (mặc dù De Champeaux thúc giục đánh dẹp), và cuối cùng là được “rộng tha”. Về Lê Thận, do ông có thái độ đồng cảm, đồng tình, rộng tha với quân Cần vương, nên “quý quan [Pháp!!!] hiện đóng ở tỉnh ấy cũng không bằng lòng”; ông bị ngụy vương Đồng Khánh “[chuẩn cho] giáng hai cấp, mang theo hàm mới, về quê hưu dưỡng” (sđd., tập 37, tr. 52, 98). Tổng đốc Bình – Phú  Lê Thận (cũng như Đinh Hội, thuộc phe Cần vương) là vị quan còn giữ được phẩm chất đáng quý. Xin xem lại: Trần Xuân An, Nguyễn Văn Tường, “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, bài “Nguyễn Văn Tường với nhiệm vụ lịch sử sau cuộc Kinh Đô Quật Khởi, 05.7.1885”, khảo luận và phê bình sử học, bản in vi tính, 2002, sắp xuất bản. 

 

(109) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 243.

 

(110) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 229.

 

(111) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 224.

 

(112) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 245 – 246.

 

(113) Cao Huy Thuần, Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam (1857 – 1914), luận án tiến sĩ, bản dịch in ronéo của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973, tr. 319: “Puginier, giám mục ở Bắc Kì, và Camelbeck, giám mục ở Quy Nhơn, đã mở một chiến dịch điên cuồng tấn công chống Nguyễn Văn Tường mà theo họ là kẻ thù lớn nhất của người Pháp và đồng thời cũng là người An Nam điêu toa [!] nhất mà người ta có thể gặp… Sự hợp tác của ông ta và De Courcy là mộơ”mưu mô [của ông ấy] nhằm đánh lừa người Pháp”; dẫn theo: Các báo cáo khoa học, bài “Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) qua hai sự kiện tứ nguyệt tam vương và thất thủ kinh đô” của Trần Viết Ngạc, Hội thảo khoa học về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Huế, Hội Khoa học lịch sử Thừa Thiên – Huế phối hợp tổ chức, 02.07.2002., tr. 54 – 55.

 

(114) NNBCĐH. [BAVH., 1916], A. Delvaux, bài  đã dẫn, tập III (1916), Nxb. Thuận Hoá, sđd., 1997, tr. 79.

 

(115) NNBCĐH. [BAVH., 1916], A. Delvaux, bài  đã dẫn, tập III (1916), Nxb. Thuận Hoá, sđd., 1997, tr. 80.

 

(116) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 247.

 

(117) NNBCĐH. [BAVH., 1914], H. Pirey, tập I (1914), Nxb. Thuận Hoá, sđd., 1997, tr. 224 – 234. Xem thêm: chú thích (37) của truyện kí thứ năm, tập I, bộ truyện - sử kí - khảo cứu tư liệu lịch sử này.

(118) NNBCĐH. [BAVH., 1923], Jabouille, bài đã dẫn, tập X (1923), Nxb. TH., sđd., 2002, tr. 434.

 

(119) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 247 – 248.

 

(120) ĐNTL.CB., tập 36, sđd., 1976, tr. 249.

 

(121) LGTS., bản in ronéo, sđd., 1961, tr. 38; Trần Xuân An (biên soạn), Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, thơ, vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng, bản in vi tính, 2000 (chưa có điều kiện xuất bản), tr. 119 – 123.

 

(122) LGTS., bản in ronéo, sđd., 1961, tr. 35; Nhiều tác giả, Từ điển văn học (TĐVH.), tập 2, Nxb. KHXH., 1984, tr. 530.

 

(123) Bản dịch thơ 1 của Chu Thiên Hoàng Minh Giám; bản dịch thơ 2 của Trần Xuân An (theo bản dịch nghĩa của Nguyễn Tôn Nhan).     

 

Cước chú:

Cước chú của đoạn trích từ “Đại Nam liệt truyện” về Nguyễn Nhược thị Bích (chú thích 80 của truyện kí thứ mười hai):

(*) Lẽ ra, nên để đoạn trích dẫn từ “Đại Nam liệt truyện” này vào vị trí chú thích cuối trang hoặc cuối chương (truyện kí thứ mười hai), nhưng để tiện lưu ý, lưu ý một cách đặc biệt, tôi đặt ngay giữa trang.

 

Cước chú của tiết 20, đoạn cuối, thuộc truyện kí thứ mười hai:

(*) Xin xem tư liệu bổ sung (mục I & IV) phần kết truyện kí cuối.

 

Cước chú của tiết 23, đoạn cuối, thuộc truyện kí thứ mười hai:

 (*) Hai chữ Hán, phổ (như phổ biến) và bác (như quảng bác), có nghĩa tương tự, được viết gần giống nhau. Có lẽ phiên âm nhầm.

 

Cước chú của tiết 25, đoạn cuối, thuộc truyện kí thứ mười hai:

(*) Nay là Thư viện Tổng hợp Tp.HCM. (góc đường Lý Tự Trọng – Nam Kỳ khởi nghĩa).

 

Cước chú của tiết 27, đoạn đầu, thuộc truyện kí thứ mười hai:

(*) Để tiện việc lưu ý, lưu ý một cách đặc biệt, mạn phép được viết hoa toàn bộ đoạn trích này.

 

Cước chú bản án lưu đày PCĐT. Nguyễn Văn Tường do De Champeaux cáo thị (đầu tiết 28, thuộc truyện kí thứ mười hai):

(*) Để tiện việc lưu ý, lưu ý một cách đặc biệt, mạn phép được viết hoa toàn bộ đoạn trích này.

 

Cước chú bài thơ của Nguyễn Thượng Hiền (cuối truyện kí thứ mười hai):

(*) Bấy giờ, thật sự là đã vong quốc, mất nước vào tay giặc Pháp.

(**) Cách hiểu đúng hơn: “không” là biện pháp vô vi (vô vi bất như bất vi), nhằm phối hợp với phong trào Cần vương; “quá” là sai lầm. Biện pháp vô vi đã sai lầm, bị sái trật trong thực tế lịch sử. Do đó, Nguyễn Văn Tường đã bị giặc Pháp phát hiện và kết án lưu đày biệt xứ. Vì vậy, “khiến [tác giả Nguyễn Thượng Hiền] khóc không để lộ nước mắt (:đau đớn khóc thầm) thái phó”.

 

Chú thích xong lúc 18 giờ kém 05 phút,

ngày 20.02.2003 (20.01 Quý mùi HB.3).

 

TRẦN XUÂN AN

 

 

 

Hết tệp 8

(PHÂN ĐOẠN 4)

– trọn TRUYỆN KÍ THỨ 12 –

 

Xin xem tiếp tệp 9

(phân đoạn 1 truyện kí cuối)

 

Trở về trang chủ

Cập nhật: 07/01/09

______________________________________________________________________________________________________________

 

 

http://tranxuanan.writer.googlepages.com/home

 

 

Google page creator /  host

 

GOOGLE BLOGGER, DOTSTER, MSN. & YAHOO ...  /  HOST, SEARCH & CACHE  

 

    lên đầu trang (top page)   

 01-5 HB7 (2007) = 15-3 Đinh hợi HB7