SALVATORE SCIARRINO (Ý, 1947)

Âm nhạc của người sói hoang tự học này tồn tại trong một thế giới mơ hồ chỉ trên mép âm thanh. Chống lại một sự im lặng xen kẽ với những tiếng gõ cửa, sự xáo trộn và run rẩy bất thường, những dòng thơ trữ tình tràn ngập nồng nàn, tràn ngập tối tăm. Những văn bản âm nhạc chi tiết cực kỳ ấn tượng của Sciarrino cho thấy những nhịp phức tạp thu hút được các hình thức tự nhiên hỗn tạp và ồn ào – nhưng ông không bao giờ làm gián đoạn ý nghĩa của văn bản, luôn luôn sử dụng sáng tạo giọng hát của Ý.

Câu chuyện hình elip của các tác phẩm sân khấu của Sciarrino là sự bổ sung hoàn hảo cho thế giới bóng mờ của bóng mờ. Chúng rất cứng rắn, rảnh rỗi và khó nắm bắt, bị chi phối bởi những hình ảnh siêu thực đầy ác mộng. Thần thoại là nguồn cảm hứng thường xuyên đã có từ tác phẩm opera đầu tiên của ông, Amore e Psiche, được công chiếu lần đầu tiên vào năm 1973. Trong vở opera thứ hai của mình, Aspern, Sciarrino bắt đầu dệt những bản văn khác nhau – sự chuyển thể này từ tiểu thuyết của Henry James và sử dụng một phần kịch bản của Lorenzo da Ponte cho Le nozze di Figaro. Cailles en sarcophage (Entombed Quails) năm 1980 là suy niệm về sự sùng bái nổi tiếng, dựa trên một loạt các bài viết của các tác giả Marlene Dietrich và Frank Wedekind.

Thơ ca siêu thực của nhà thơ tượng trưng người Pháp gốc Uruguay Jules Laforgue ( 1860-1877) cung cấp nguồn cảm hứng cho hai sự đảo ngược acerbic (thông minh) của thần thoại phương Tây, Lohengrin (1982) và Perseo e Andromeda (1991)..

La perfezione di uno spirito sottile (Sự hoàn hảo của một tinh thần tinh tế) của năm 1985, nói một cách khác, là một sự kiện kỷ niệm thiên nhiên với sáo, soprano và chuông, những âm thanh của thế giới bên ngoài.

Sciarrino đã khám phá những bức tranh trầm luân bốn năm trước đó ở Vanitas, một cuộc sống tĩnh lặng đáng sợ của cuộc đời con người, cho một nhóm nhỏ mezzo soprano, cello và piano.

Chất lượng của lời ca của Sciarrino thường phát triển thành các trích dẫn âm nhạc phong phú. Các bài hát Mỹ có trong Cailles en sarcophage, và Aspern kết hợp thành một bài thánh ca diaton đơn giản. Vở ballet duy nhất của Sciarrino, Morte a Venezia, đã có Magnificat của Bach trong trái tim của nó, trong khi Macbeth sử dụng những trích dẫn từ Shakespearean của Verdi và từ Don Giovanni của Mozart.

Luci mie traditrici (“Đôi mắt phản bội” của tôi, được dịch bởi nhà soạn nhạc như The Killing Flower) ám chỉ đến âm nhạc phức tạp tinh tế của Carlo Gesualdo.

Các vở opera của Sciarrino ngày càng được khám phá những chủ đề cô lập và cô đơn. Infinito Nero (màu đen vô hạn) dành cho mezzo sopran và 8 nhạc cụ là dựa trên huyền thoại Công giáo thế kỷ 16, Maria Maddalena de ‘Pazzi.

Da gelo a gelo (Từ sương giá đến sương giá) dựa theo Nhật Ký của nữ văn sĩ Nhật Bản Izumi Shikibu Nikki (976-1030). Nhật Ký Izumi Shikibu Nikki là một kiệt tác của văn học cổ Nhật Bản đã được ra đời trong thời gian xảy ra mối tình giữa Izumi Shikibu Nikki với hoàng tử Nhật Bản Atsumichi. Đây là một tiểu thuyết dưới hình thức nhật ký xem lẫn thơ. Tác phẩm là tiếng nói, sự thú nhận về mối tình bồng bột nhưng rất chân tình của mình với chàng hoàng tử hào hoa,

La porta della legge điều chỉnh cuộc kiểm tra ác mộng của Kafka đối với một cá nhân bị nghiền nát bởi bộ máy quan liêu, và trong bàn tay của Sciarrino là một bản cáo trạng giận dữ về chính sách văn hoá hiện tại của Ý. Công việc mới nhất của Sciarrino,

Superflumina, là một cuộc kiểm tra không chớp nhoáng của một người phụ nữ vô gia cư bỏ qua bởi dòng người đi làm bước qua cô ấy.

Việc sử dụng văn bản và sự im lặng của Sciarrino là độc đáo trong opera. Nhưng nó cũng là sự mỏng manh của thế giới âm thanh, nỗi sợ hãi, nỗi buồn và vẻ đẹp ngoạn mục khiến ông trở thành một trong những nhà soạn nhạc hấp dẫn nhất đang viết ngày hôm nay.