GABRIEL FAURE (Pháp, 1845-1924)

Khả năng âm nhạc của Fauré trở nên rõ ràng ngay từ khi còn nhỏ.

Fauré học piano với Camille Saint-Saëns, người đã giới thiệu với ông âm nhạc của Franz Liszt Richard Wagner. Trong khi còn là sinh viên, Fauré đã xuất bản tác phẩm đầu tiên của mình, một tác phẩm cho piano, Trois romances sans paroles (1863).

Năm 1896, ông được bổ nhiệm làm tổ chức nhà thờ tại nhà thờ La Madeleine ở Paris và giáo sư về thành phần của Nhạc viện Paris. Trong số các sinh viên của ông gòm có Maurice Ravel , Georges Enesco , và Nadia Boulanger .

Fauré xuất sắc không chỉ là một nhà soạn nhạc tinh tế mà còn là một nhà soạn nhạc trong mọi lĩnh vực của âm nhạc thính phòng .

Ông đã viết hơn 100 bài hát, gồm có : Après un rêve (năm 1865), Les Roses d’Ispahan (1884), và các song cycles gồm có: La Bonne Chanson (1891-92) và L’Horizon chimerique (1922 ).

Ông cũng đã làm phong phú thêm cho cây đàn piano với một số tác phẩm, có lẽ tiêu biểu và nổi tiếng nhất là 13 Nocturnes, 13 Barcaroles, 5 Impromptus.

Ballade cho piano và dàn nhạc, 2 Sonat cho violin và piano, và Berceuse cho violin và piano, Élégie cho cello và piano là những tác phẩm phổ biến khác của Faure

Fauré không bị thu hút bởi nhà hát, nhưng ông đã sáng tác nhạc cho nhiều vở kịch, trong số đó là Pelléas et Mélisande (1898) cũng như đã viết nhạc cho 2 bộ phim Prométhée (1900) và Pénélope (1913).

Trong số ít tác phẩm viết cho dàn nhạc gồm có là Masques et bergamasques (1919), Messe de requiem cho giọng solo, dàn hợp xướng, dàn nhạc và organ (1887)

Một trong những tính năng nổi bật của phong cách của ông là lòng ham thích những tiến trình hòa âm táo bạo và những sự điều chỉnh đột ngột, luôn được thực hiện với sự sang trọng tối cao.

Cuộc cách mạng yên tĩnh và không tưởng tượng của ông đã chuẩn bị cho những đổi mới của trường phái Pháp hiện đại.

CÁC TÁC PHẨM