Nhân ngày Quốc Tế Phụ Nữ

Post date: Mar 7, 2012

Lê Ngọc Phượng


Ngày 8/3 là ngày Quốc Tế Phụ Nữ.Ngày này "ngày xưa" chính là ngày kỉ niệm Hai Bà Trưng (6 tháng 2 Âm lịch),ngày mà các"em" Trưng Vương cỡi voi diễu hành và hát vài "Trưng Nữ Vương lau phấn son mưu thù nhà..." của Thẩm Oánh mà hồi đó ai cũng thuộc!Người ta cũng thuộc cả bài thơ"Bà Trưng quê ở Châu Phong,...".Bài thơ đó là một thiên anh hùng ca bất hủ trong tập Sử Thi "Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca".Qua bao thăng trầm của thời cuộc,dưới bao nhiêu là chính thể,ngụy thể,Đại Nam Quốc Sử Diễn ca vẫn vững vàng mang danh "chính sử",chưa thấy ai "đặt vấn đề" gì.Vậy mà gần đây,trên một Diễn Đàn,có người đã chê ĐNQSDC là đã đề cao Mã Viện và làm mất uy thế hai bà (Nữ nhi chống với anh hùng được nao):

"... Nhưng càng ngày tôi càng thấy có sự vô lý trong mấy câu thơ tôi đã học thuộc lòng từ buổi thiếu thời kia. Nhất là khi vào học tại trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, môi trường bắt tôi phải tìm tòi và đào sâu văn chương, văn hóa Việt. Tại sao lại gọi hai vị nữ anh hùng Việt Nam là Nữ Nhi và gọi Mã Viện, một tên hung tàn cướp nước gây hấn ngoại bang là anh hùng? Tác giả Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái tất nhiên không phải là người không yêu nước, nhưng sao lại có những từ dùng kỳ quái như vậy? Thôi rồi, tôi đã nghĩ ra. Viết Sử bằng văn xuôi đã khó vì nhiều khi Sử gia không thể kể hết tình tiết éo le, khúc mắc của những biến cố Quốc gia trọng đại đã xảy ra, ấy là chưa kể tinh thần vô tư, khách quan, Sử gia phải có khi thuật lại những cuộc tranh giành, những cái hay cũng như những cái dở của hai phe, hai dòng họ, hai cá nhân tranh hùng, tranh thắng..."

Và rằng:

"Viết Sử bằng văn vần còn khó thêm một bậc vì thơ phải tuân theo niêm luật và vần. Không niêm luật và vần thì thơ không ra thơ mà văn xuôi cũng chẳng ra văn xuôi. Ngay thời cận đại, vào khoảng thập niên 30, bàn về thơ (niêm, luật bằng trắc, vận) các bậc tiền bối của chúng ta, những vị thâm Nho và rành chữ Nôm, đã phải kêu lên: “khó cho thiên hạ đến bao giờ!” để nói lên cái khó khăn khi diễn đạt tư tưởng bằng thơ (văn vần). Làm thơ ngẫu hứng, “tức cảnh sinh tình”, để ca tụng cái đẹp của thiên nhiên, của con người và tình cảm con người thì tương đối dễ vì nó cho ta sự lựa chọn, ta được tự do kiếm đề tài và thể loại thơ. Làm thơ để mô tả những biến cố lịch sử của một quốc gia thì khó gấp trăm lần, vì biến cố nhất định và thể thơ nhất định (đã chọn).

Vì vậy, với bài thơ “Hai Bà Trưng” đã dẫn ở trên tôi xin có những ý kiến thô thiển sau đây:

1/ Tác giả ĐNQSDC có ý đề cao Hai Bà Trưng Trắc, Trưng Nhị nhưng diễn tả bằng thơ, nói không hết ý.

2/ “Hồ Tây đua sức vẫy vùng

Nữ nhi chống với anh hùng được nao?”

Tác giả thấy chữ hùng ở câu 8, vần với chữ vùng ở câu 6, cho là thanh thỏa về vận rồi, không ngờ rằng (hoặc có nhìn ra, nhưng thấy khó sửa) câu thơ hạ giá hai vị Nữ Anh Hùng của nước ta mà lại mặc nhiên xưng tụng kẻ thù (Mã Viện) là anh hùng. Điều đó tủi hổ cho vong linh Hai Bà và làm nhục Quốc thể chỉ vì vài câu lục bát không đạt hết ý. Nhân tiện, chúng ta cũng đi sâu vào từ anh hùng để xem Hai Bà có xứng đáng với danh từ đó không?

Theo sự suy luận của người bình dân, của quảng đại quần chúng thì anh hùng là người quên mình cho đại nghĩa, mở ra con đường sống cho dân tộc hoặc cho một nhóm người. Người anh hùng không tham sống, sợ chết. Người anh hùng lấy cái chết để trả nợ Non Sông (như Nguyễn Thái Học và 12 liệt sĩ Yên Bái), như Nguyễn Biểu, như Trần Bình Trọng v.v... Hai Bà có đảm lược đứng ra mộ quân, chống lại giặc Tàu xâm lược. Hùng khí ấy, ngay ở nam giới cũng hiếm, nói gì phụ nữ. Khi núng thế, thua trận, vì quan quân binh mã ít so với giặc Tàu nước lớn, người đông gấp trăm lần, Hai Bà mượn dòng nước sông Hát tự trầm để tránh cái nhục rơi vào tay giặc. Người chí khí như thế không phải là anh hùng sao? Trong khi Mã Viện cậy đông, lấy thịt đè người, nếu có thua cũng đến cúp đuôi chạy về Tàu như Tô Định mà thôi, thì có chi là anh hùng?

Con cháu Hai Bà Trưng -trong đó có chúng ta- là nạn nhân của mấy câu thơ khó khăn về luật bằng trắc, về vần... Ở thế kỷ thứ 21 này chúng ta đâu có chịu ngâm nga mấy vần thơ “vô ý thức” kia mãi. Chẳng những vậy, chúng ta còn còn phải viết sử, làm văn... đề cao chiến tích oanh liệt, oai hùng và công đức cao dày của Hai Bà đối với dân tộc Việt Nam để mỗi năm, đến ngày mồng Sáu tháng Hai (âm lịch) chúng ta lại long trọng làm lễ tưởng niệm Hai Bà và khuyên mọi người, nhất là con cháu chúng ta, hãy noi gương Hai Bà phấn đấu cho một nước Việt Nam Hòa Bình, Dân Chủ, Tự Do và phú cường.

Sau khi chê các ông Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái,tác giả bài viết đề nghị nhuận sắc bài thơ Hai Bà:

"Bà Trưng quê ở châu Phong

Hận phường tham bạo thù chồng chẳng quên

...

Anh Thư chống với cường đồ được nao?

Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo

Hai Bà núng thế đành liều với sông!

Với chú thích:

" Dùng chữ Hận Phường để thay thế chữ Giận người để nói lên sự thù hận quân hung tàn, cướp nước. “Giận”, chữ dùng quá nhẹ và “người”, không được đúng. Kẻ đã giết chồng mình và đặt ách nô lệ lên đầu lên cổ dân tộc mình chính là quân cẩu trệ, không xứng đáng danh từ “người”.

Từ Anh Thư thay thế cho từ Nữ Nhi vì như đã trình bày, Hai Bà không chỉ là những phụ nữ quần vận yếm mang mà còn là những bậc Anh Thư, Anh Hùng hiếm có trong lịch sử.

Từ cường đồ thay thế từ anh hùng, chỉ Mã Viện, quân xâm lăng, cướp nước, thiết nghĩ rất thích hợp với Mã Viện.

Câu cuối: Chị em thất thế phải liều với sông. Xin được sửa là: Hai Bà núng thế đành liều với sông. Dùng từ “Hai Bà” ở đây để tỏ lòng kính trọng vì Hai Bà lúc đó đã là vua nước Nam (Chánh, Phó vương) chứ không giống như “Chị em nặng một lời nguyền” ba năm trước, lúc uống máu ăn thề quyết tận diệt quân Hán xâm lăng. Hai Bà chỉ núng thế vì quân Hán quá đông, quân ta quá ít, vả chưa đủ thời gian luyện tập võ nghệ, chứ không thất thế. Thất thế là thất bại hoàn toàn.

Nhuận sắc 3 câu thơ lục bát không được chỉnh trong ĐNQSDC, chúng tôi chỉ muốn trả lại cho đúng chí khí tiết tháo, anh hùng của Hai Bà mà mọi người dân Việt đều lấy làm hãnh diện khi nhắc đến, không có ý gì khác. Chúng tôi cũng mong mỏi từ nay, khi chép lại đoạn sử này về Hai Bà, hoặc để trong các trường học cho con cháu chúng ta học, những câu đã nhuận sắc của chúng tôi sẽ được dùng để thay thế những câu cũ của nguyên tác, đã sai ngay từ khi mới được viết xuống mà có lẽ tác giả đã thờ ơ hoặc ngại khó khi phải sửa những câu thơ mà theo tác giả đã tạm được."

Thật không biết gan ông này (Trần đình Ngọc) to cỡ nào!Có thể đoán ổng là người "trong này" (Đai học Văn Khoa Saigon)và khá lớn tuổi (trước 75),và vào hàng "thi sĩ tập sự" (Mỗi người VN là một thi sĩ),và với dữ liệu này nhờ Google tìm giúp (ngày xưa:Có Trời biết!=không biết;ngày nay:có Ggogle biết=biết),hóa ra là ông Xuân Vũ,và bài này không biết có phải do ông đích thân đưa lên diễn đàn?

Xin cảm phục lòng yêu nước của ông,nhưng nhân ngày 8/3, cũng xin phép ông lạm bàn một chút:

Hai bà Trưng vốn không phải là nữ tướng như bà Triệu hay Bùi Thị Xuân,nhưng chiến công của hai Bà thật sự hiển hách:

"Uy danh động đến Bắc Phương ..."

Và

"Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (năm 40 - 43 sau Công nguyên) là một sự kiện trọng đại của lịch sử Việt Nam, được coi là biểu tượng cho ý chí độc lập của dân tộc Việt Nam. Hai Bà Trưng được coi là những người anh hùng đầu tiên của sự nghiệp giữ nước, hàng trăm nơi trên đất nước ta có đền thờ Hai Bà và các vị tướng theo Hai Bà đánh giặc. Phạm vi hoạt động của cuộc khởi nghĩa lan rộng tới nhiều vùng đất nay thuộc lãnh thổ Trung Quốc, ở một số địa phương bên Trung Quốc cũng có đền thờ Hai Bà và dấu tích cuộc khởi nghĩa này" ( nguồn)

Hai ông Nguyễn Thực và Ngô Thì Nhậm khi đi sứ sang Tầu cũng đã thấy được nơi thờ Trưng Vương trên đất Hồ Nam (nguồn)

Chiến công đó từ một nữ nhi (dù là không thường tình!)do đó mới thập phần vĩ đại.Theo chính sử Hai Bà làm vua,cai trị một vùng giang sơn rộng lớn trong 3 năm trời:

"Trưng Trắc giận, bèn cùng với người em gái là Trưng Nhị khởi binh ở Phong Châu đánh phá quận

huyện. Dân ở Cửu Chân và Nhật Nam đều hưởng ứng cả. Bà chiếm được 65 thành ở ngoài phía Nam nhà

Hán, rồi tự lập lên làm vua, đóng đô ở Mê Linh.

Năm thứ 178 nhà Hán phong Mã Viện làm Phục ba Tướng quân đem quân sang đánh Bà Trưng..."(Nguồn)

và:

"Chính sử của nhà Hán lúc bấy giờ cũng phải ghi là “cả bốn quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố đều nhất tề hưởng ứng”. Gần hai ngàn năm qua, hình ảnh đầy kiêu hãnh của Hai Bà Trưng vẫn sống mãi trong ký ức tôn kính bất diệt của các thế hệ nhân dân ta. (nguồn)

Còn Phục Ba Tướng Quân Mã Viện là ai,mà tại sao lại là Mã Viện chứ không phải viên tướng nào khác ?

Trích Đại Việt Sử Lược

5 Năm Ất Dậu (25 sau Công nguyên) ông Hán Quang Vũ lên ngôi, vua tên Tú, dòng dõi Trường Sa định Vương, ở ngôi được 33

năm, định đô ở Lạc Dương nên gọi là Đông Hán.

6 Mã Viện: Người mậu Lăng đời Đông Hán. Là một danh tướng lẫy lừng. Mã đã từng phá tướng Ngỗi Hiêu, đánh tan rợ Tiên Liêu

Khương, dẹp yên Lũng Hữu... và được vua Hán Quang Vũ phong làm phục ba tướng quân, tước hầu. Vào năm Tân Sửu- năm 41

tây lịch vua Quang Vũ sai Mã Viện đem binh lực hùng hậu sang xâm lăng nước ta. Mả đánh với Trưng Trắc, Trưng Nhị là những

bậc nữ lưu của nước ta. Đến ngày 6 tháng 2 năm Quý Mão - 43 Mã mới đánh bại được hai bà. Tuy thắng trận nhưng Mã cũng

phải kinh tâm bạt vía và trên đường về lấy làm hảnh diện vì chiến công "rực rở" đó. Mã cho dựng cột đồng tại biên giới Tượng

Lâm giáp Tây Bồ Di để kỷ niệm. Trên cột đồng khắc sáu chữ "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt". Bên ta, vào thời Hậu Lê năm 1615 có

Nguyễn Tuấn đi sứ dâng lễ cống nhà Minh. Vua Minh muốn làm nhục nước ta bèn đọc một vế đối "Đồng trụ chí kim đài dĩ lục"

nghĩa là "Cột đồng tới nay rêu đã xanh". Nguyễn Tuấn đáp ngay. "Đằng Giang tự cổ huyết do hồng" nghĩa là "Sông Bạch Đằng từ

xưa máu vẫn còn đỏ". Vế đối của vua Minh là nhắc việc thất trận của hai bà Trưng. Vế của Nguyễn Tuấn là nhắc việc tại sông

Bạch Đằng, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán năm 938 và Trần Hưng Đạo đánh tan quân Nguyên năm 1288.

7 Thi Sách: Là danh sĩ Giao Châu, họ Đặng, người ở huyện Châu Diên phủ Vĩnh Tường. Ông làm quan huyện lệnh ở Châu Diên, thấy

viên Thái thú Trung Quốc là Tô Định, tham lam bạo ngược mới đưa thư khuyên Tô Định sửa đổi lại chính sách. Tô Định giận, giết

Thi Sách vào năm Canh Tý- năm 40 Tây lịch.

Mã Viện được coi là đại anh Hùng Trung Hoa,được dân chúng thờ phụng không kém Quan Công Quan Vân Trường.Không chỉ người dân Trung Hoa mới xem ông là anh hùng.Với những chiến công hiển hách được lịch sử ghi nhận ,người khách quan phải công nhận "danh hiệu" anh hùng của ông!Không phải cứ"giặc" là gọi bằng "thằng"(Thằng Johnson,thằng Thiệu) mới là chính nghĩa (?)

Uy thế hai Bà động đến Bắc Phương,và Hán Quang Vũ đã không giám dùng một quan võ "lèng xèng" nào khác ngoài Mã Viện để chống lại hai bà.Gọi Mã Viện là anh hùng và hai bà Trưng là nữ nhi chính là thâm ý của các ông Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái nhằm tôn xưng danh phận nữ nhi Việt Quốc!

Hai Bà thất trận là lẽ hiển nhiên nhưng kẻ thắng trận là "anh hùng" Mã Viện cũng đã phải kinh tâm bạt vía ! (Anh hùng mà thắng nữ nhi mới xoàng!)

Dân ta có nhiều hình thức yêu nước và ai cũng kính trọng Hai Bà Trưng.Người ta làm thơ,làm nhạc để biểu lộ lòng kính mến Hai Bà:

_Trưng Nữ Vương (nhạc Thẩm Oánh)

_Đêm Mê Linh (Nhạc Văn Giảng)

_Hồ Lãng Bạc (nhạc Xuân Tùng)

_Ngày Xưa (nhạc Văn Giảng_Lời Tô Vũ)

Chưa thấy ai biểu lộ lòng yêu nước theo cách của ông!

Hay là ông nghĩ chuyện "sửa sử" chỉ là "chuyện nhỏ"?

Lê Ngọc Phượng

08/3/12