MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ ÂM NHẠC

Trang: 1, 2, 3, 4

ĐÀN PIANO (Dương cầm)

DÀN TRỐNG

Electric Drum (Trống điện tử)

Âm nhạc Việt Nam có một truyền thống khá lâu đời. Ngay từ thời cổ cư dân ở Việt Nam đã rất say mê âm nhạc. Đối với họ âm nhạc là một nhu cầu không thể thiếu.

Bởi vậy trong quá trình phát triển lịch sử cư dân ở đây đã sáng tạo nên rất nhiều loại nhạc khí và thể loại ca nhạc để bộc lộ tâm tư tình cảm, để có thêm sự phấn chấn và sức mạnh trong lao động, trong chiến đấu, để giáo dục cho con cháu truyền thống của ông cha, đạo lý làm người, để giao tiếp với thế giới thần linh trong tâm tưởng và để bay lên với những ước mơ về một cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc trong hiện tại và trong tương lai...

Trải qua bao biến thiên, ngày nay tại Việt Nam còn lưu giữ một kho nhạc khí đủ loại từ những dạng đơn sơ nhất cho tới những dạng có sự phát triển khá cao với những kỹ thuật diễn tấu tinh tế.

Tại đây ta có thể nghe những điệu hát ru, những bài đồng dao của trẻ nhỏ, những thể loại ca nhạc trong các nghi thức cúng lễ hoặc dùng trong việc giao tiếp giữa các thành viên cộng đồng, trong lao động, trong vui chơi giải trí với những thể hát đố, hát đối đáp thi tài của trai gái, những điệu hát khi chơi bài hoặc khi kể những áng trường ca, những câu ca tiếng đàn của những người hát rong, của các ban "tài tử" cùng những thể loại ca kịch truyền thống...

Âm nhạc cổ truyền Việt Nam phong phú bởi sự tích đọng những thể loại thuộc nhiều thời đại khác nhau và bởi cả tính đa sắc tộc. Cùng một thể loại ca nhạc song ở mỗi sắc tộc lại có phương thức biểu hiện, diễn tấu và âm điệu riêng. Điệu hát ru Việt khác ru Mường, ru Thái, ru Tây Nguyên... Có tộc dùng lời ca tiếng hát để đưa trẻ vào giấc ngủ. Có tộc lại ru con bằng tiếng đàn, tiếng sáo êm ái.

Xưa kia âm nhạc cổ truyền đã từng đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của người Việt Nam. Ngày nay nó vẫn giữ một vị trí đáng kể trong xã hội. Một số thể loại ca nhạc vẫn tồn tại trong cuộc sống dân dã. Một số khác đã bước lên sân khấu, tiếp tục làm đẹp cho đời và phát huy tác dụng trong cuộc sống mới.

Cồng chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng không núm. Nhạc cụ này có nhiều cỡ, đường kính từ 20 đến 60cm, loại cực đại từ 90 đến 120cm.

Đàn Đá: Nhạc khí tự thân vang, thuộc loại xylophone, metallophone. Mỗi nhạc cụ là một bộ gồm nhiều thanh đá hợp thành. Mỗi thanh đá có kích thước và hình dáng khác nhau, được chế tác bằng phương pháp ghè đẽo thô sơ. Vật liệu để làm đàn là những loại đá sẵn có ở vùng núi Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ.

Đàn T'rưng: Với người Tây Nguyên lời ca tiếng đàn luôn luôn là nguồn cổ vũ trong đời sống. Đêm đêm quanh ngọn lửa hồng dưới mái nhà rông người ta kể Khan, kể H'mon và hát lên những làn điệu dân ca Jôn-jơ, đợi chờ, giã gạo...

Đàn Tam Thập Lục: Là nhạc khí dây, chi gõ của dân tộc Việt. Đàn có 36 dây nên được gọi là Tam Thập Lục.

Một dòng chảy từ xa xưa

Đàn Tranh được hình thành trong ban nhạc từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14. Thời Lý - Trần, Đàn Tranh chỉ có độ 15 dây nên bấy giờ gọi là "Thập ngũ huyền cầm" và được dùng trong ban "Đồng văn, nhã nhạc" (đời Lê Thánh Tôn thế kỷ 15), sau này được dùng trong cả ban nhạc giáo phường. Thời Nguyễn (thế kỷ 19) được dùng trong ban "nhạc Huyền" hay "Huyền nhạc", lúc bấy giờ được sử dụng với 16 dây nên được gọi là "Thập lục huyền cầm".

Đàn Nguyệt (Đàn Kìm) được sử dụng rộng rãi trong dòng nhạc dân gian cũng như cung đình bác học cổ truyền của người Việt. Xuất hiện trong mỹ thuật Việt Nam từ thế kỷ 11, cho tới nay, nó vẫn giữ một vị trí rất quan trọng trong sinh hoạt âm nhạc của người Việt và là nhạc cụ chủ yếu dành cho nam giới.

Đàn Cò (Đàn Nhị) đã có mặt trong nền âm nhạc truyền thống Việt Nam từ lâu đời, đã trở nên thân quen và gần gũi với mọi người dân Việt Nam, nó được trân trọng quí báu như cổ vật gia bảo. Đàn Cò đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng và đắc lực không thể thiếu trong các dàn nhạc dân tộc Việt Nam ta từ xưa đến nay.

Đàn K'ni: Tên gọi mà người Ba Na và Ê Đê dùng để chỉ loại đàn một dây dùng cật tre làm cung kéo của một số tộc sống trên dọc Trường Sơn - Tây Nguyên như Ba Na, Gia Rai, Ê Đê, Xơ Đăng, Pa Kô, Hrê...

Đàn Đáy là nhạc khí đặc trưng trước kia chỉ dùng để đệm cho một thể loại hát duy nhất với hai nhánh mà ngày nay người Việt thường gọi là Hát cửa đìnhHát ả đào (hoặc Ca trù). Chỉ nam giới mới chơi nhạc cụ này. Có lẽ đàn được sáng tạo từ thế kỷ 15 với sự định hình của thể loại hát nói trên.

Đàn Bầu: Trong kho tàng văn hoá âm nhạc dân tộc Việt Nam, đàn bầu được coi là nhạc cụ độc đáo và hấp dẫn nhất. Tiếng đàn du dương, trầm lắng khiến ai đã nghe một lần thì thật khó quên. Chẳng thế mà các cụ ngày xưa đã kín đáo nhắc nhủ: "Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu", "Cung thanh là tiếng mẹ, cung trầm là giọng cha. Ngân nga em hát, tích tịch tình tang".

(Theo vietnamtourism.com)

Hồ Nga và chiếc đàn tam thập lục thế hệ mới

TT - Nghệ sĩ Cao Hồ Nga chỉ đôi pedal nối vào bên dưới chiếc đàn tam thập lục, giải thích: việc sử dụng chân cho pedal thể hiện cảm xúc của người nghệ sĩ trong diễn tấu, hơn nữa, đây là giải pháp ngắt tiếng cho đàn tam thập lục - một nhược điểm khiến nhiều thế hệ chơi đàn tam phải ưu tư nhưng chưa ai khắc phục thành công.

>> VN cải tiến thành công đàn tam thập lục

Quan trọng hơn, Hồ Nga đã sáng tạo một cách thể hiện kỹ thuật pizicato (*) cho chiếc đàn không dùng cách chặn tay như truyền thống. "Việc đánh những đoạn nhạc viết toàn pizicato luôn là thách thức với chiếc đàn tam thập lục, vì người nghệ sĩ xưa nay chỉ có cách dùng tay chặn trên dây đàn để tạo hiệu ứng pizicato. Chặn tay có hạn chế là không nhanh được, nếu với những bản nhạc viết toàn pizicato thì đàn tam thập lục rất khó thể hiện" - Hồ Nga nói về nhược điểm truyền thống của chiếc đàn.

Thương chiếc đàn bị... ép

Người chỉnh âm thanh trên các sàn trình diễn nhạc dân tộc điều chỉnh âm thanh chiếc đàn tam thập lục luôn thấp hơn các nhạc cụ khác trong dàn nhạc. Lý do vì một "cố tật" của chiếc đàn là âm thanh vang quá nhiều không ngắt hết được, chỉnh cao sẽ bị rè, át các tiếng đàn khác. Và kết quả là âm lượng của chiếc đàn luôn bị chỉnh ép cho thấp xuống. Thành ra, từ vị trí quan trọng là giữ phần hòa âm, tạo âm lượng đầy đặn cho cả dàn nhạc dân tộc, chiếc đàn này trở nên mờ nhạt trong những lần diễn "sống" trên sân khấu. Điều này khiến nghệ sĩ Cao Hồ Nga - ngón đàn tam thập lục của nhóm nhạc Mặt Trời Đỏ - nung nấu ý định cải tiến chiếc đàn tam thập lục truyền thống.

"Thoạt đầu tôi chỉ muốn làm sao có một chiếc đàn tam thật tốt, thích hợp để sử dụng cho chương trình của cả nhóm nhạc - Hồ Nga tâm sự - đến khoảng năm 2005, khi cùng nhóm Mặt Trời Đỏ diễn nhiều và thu âm nhiều, tôi càng thấy thương chiếc đàn tam vì trên sân khấu thì luôn bị chỉnh ép, vào phòng thu thì tiếng đàn tam bị um, thường bị than phiền...".

Gắn bó với chiếc đàn tam thập lục từ những ngày lên bảy lên tám, rồi suốt những năm ở Trường cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội, Nhạc viện TP.HCM, Hồ Nga hiểu rõ những khiếm khuyết của nhạc cụ này. Hồ Nga nhớ lại vào khoảng năm 2000, trong một lần sang Nhật Bản giao lưu, gặp một nữ nghệ sĩ đàn tam thập lục người Trung Quốc sang Nhật Bản du học, có sử dụng chiếc đàn tam cải tiến. "Cô này dùng pedal để ngắt tiếng, nhưng chỉ mới ngắt tiếng hoàn toàn chứ không chơi pizicato được" - Hồ Nga cho biết.

Tam thập lục thế hệ mới

Ý tưởng của Hồ Nga về việc cải tiến chiếc đàn tam thập lục để khắc phục các khuyết điểm cố hữu được ủng hộ và chia sẻ từ... ông xã - nghệ sĩ Kim Quang, cũng là một người đam mê chế tác. Hồ Nga kể: "Anh Quang là người đầu tiên nghe tôi đánh thử nghiệm bằng chiếc đàn cải tiến. Vừa là người nhà, vừa là đồng nghiệp, anh Quang đã nhiệt tình góp ý và thẩm định cho tôi".

Trung tâm Văn hóa TP.HCM cũng đánh giá cao ý tưởng của Hồ Nga đã nhận đứng ra chủ trì công trình cải tiến chiếc đàn tam thập lục truyền thống, với hai cố vấn chính thức là nghệ sĩ Thế Viên và Kim Quang.

"Bắt tay vào mới thấy gian lao - Hồ Nga tặc lưỡi - Tôi phải bay ra bay vào giữa Hà Nội và TP.HCM thường xuyên, vì người đóng đàn cho tôi là anh Khải - nghệ nhân của Nhạc viện Hà Nội. Anh Khải đã rất vất vả khi phải chỉnh đi sửa lại nhiều lần. Tạo hiệu ứng pizicato không đơn giản, lúc đầu tôi nghĩ ra cách thiết kế một mặt dạ kiểu như đàn piano nhưng không thành công vì chất liệu dạ cứng quá. Lại phải thử đi thử lại trên nhiều chất liệu, cuối cùng chọn được một loại mút có thể sử dụng tốt. Phần còn lại là thiết kế mặt mút tiếp xúc với dây đàn, hiệu chỉnh độ đàn hồi của pedal, rồi tập cách sử dụng pedal bằng chân cho thuần thục... Quá trình này cũng khiến anh Thế Viên phải bay ra Hà Nội để góp ý trực tiếp với nghệ nhân đóng đàn".

Sau khi "phá hỏng" hai chiếc đàn tam thập lục trong ba năm, đến chiếc đàn thứ ba Hồ Nga mới cảm thấy tự tin. Và niềm vui của chuỗi ngày chế tác kham khổ trào dâng trên đôi tay như múa của Hồ Nga trong buổi biểu diễn nghiệm thu. Nhạc sĩ Ca Lê Thuần chăm chú lắng nghe hiệu ứng pizicato từ kỹ thuật sử dụng pedal hoàn toàn mới, ông yêu cầu Hồ Nga đánh đi đánh lại những đoạn pizicato và công nhận khả năng chơi pizicato của chiếc đàn mới này.

Hội đồng chuyên môn nghiệm thu đã đánh giá công trình cải tiến chiếc đàn tam thập lục của Hồ Nga là thành công xuất sắc (Tuổi Trẻ 17-7). Và câu chuyện về người VN cải tiến chiếc đàn tam thập lục của Trung Quốc chỉ mới bắt đầu. Hồ Nga cho biết cô sẽ tiến hành đăng ký bản quyền sở hữu trí tuệ cho chiếc đàn tam thập lục kiểu mới.

Theo Báo Tuổi Trẻ Online

Nghệ sĩ Hồ Nga biểu diễn đàn tam thập lục với pedal dùng chân