ÂM NHẠC BAROQUE - CỔ ĐIỂN

THỜI KỲ CỔ ĐIỂN (1730-1820)

THỜI KỲ BAROQUE (1600-1700)

Vào cuối thế kỷ 16, khi tính phức điệu thời Phục hưng vẫn còn đang thịnh hành, những tiến triển mới ở Ý đã bắt đầu làm thay đổi âm giọng và cấu trúc của âm nhạc. Rất nhiều nhạc sĩ Ý không thích phong cách đối âm của những Người Hà Lan. Mong ước được tranh đua với nền âm nhạc cổ điển điển hình của người Hy Lạp, họ thích những cấu trúc ít phức tạp hơn, được biểu lộ bằng những sự tương phản thường gây xúc động, chủ đề dễ hiểu và sự tác động lẫn nhau của các giọng hát và nhạc cụ. Những yếu tố như thế trở nên đặc biệt nổi bật trong thể loại opera, một thể loại lần đầu tiên được trình diễn ở Florence vào cuối thế kỷ 16 và phát triển rực rỡ vào thế kỷ 17 bởi nhà soạn nhạc người Ý Claudio Monteverdi. Những thể loại mới khác của thanh nhạc (vocal music) gồm có cantata và oratorio.

Khí nhạc cũng ngày càng trở nên nổi bật trong suốt thế kỷ 17 này, thường ở hình thức một tác phẩm đối âm liên tục với sự phân chia không rõ ràng giữa các đoạn hoặc các chương, nó đã sinh ra những cái tên như ricercare, fantasia và fancy. Một phong cách sáng tác thứ hai được tạo bởi những bộ phận tương phản, thường ở những kết cấu cũng một chủ điệu và đối âm, hình thức này được biết đến là canzona hoặc sonata. Rất nhiều bản khí nhạc được dựa trên những giai điệu hoặc bè trầm đã có sẵn; chúng gồm có chủ đề và các biến tấu, passacaglia, chaconne và chorale prelude. Các tác phẩm theo nhịp vũ khúc thường được gộp chung thành các suite (tổ khúc). Cuối cùng các nhà soạn nhạc đã phát triển các bản nhạc theo các phong cách ứng tác (ngẫu hứng) cho các nhạc cụ đàn phím, những bản nhạc loại này được gọi là prelude, toccata và fantasia.

Với sự gia tăng của các thể loại mới ở thế kỷ 17, một vài khái niệm cơ bản về cấu trúc âm nhạc đã bị biến đổi, đặc biệt là ở Ý. Thay vì viết những bản nhạc mà trong đó tất cả các giọng từ soprano tới bass tham gia một cách bình đẳng vào hoạt động âm nhạc, các nhà soạn nhạc chỉ tập trung vào các phần của soprano hay bass và đơn thuần lấp đầy những khoảng trống còn lại bằng những hợp âm. Sự cách quãng chính xác của những hợp âm không quan trọng và các nhà soạn nhạc thường cho phép người chơi đàn phím ứng biến chúng. Các thuật ngữ như basso continuo và figured bass liên quan đến bè trầm và việc lấp đầy âm, cái làm thành một bố cục được sử dụng tất cả các thể loại âm nhạc, đặc biệt là các bài hát solo.

Một sự cách tân quan trọng khác của thế kỷ 17 đã biến phong cách hay thay đổi của âm nhạc gần cuối thời phục hưng sang một phong cách đặc trưng bởi các yếu tố nhiều tương phản, người ta biết đến nhiều cái tên khác nhau như concertato, concertate và concerto, từ concertare (tiếng Latin nghĩa là “sát cánh chiến đấu”). Những tương phản xuất hiện ở nhiều cấp độ âm nhạc, chẳng hạn như các nhạc cụ tương phản hoặc mật độ tương phản của âm thanh, ví dụ như với một nhạc cụ solo đối đáp cùng một nhóm nhạc cụ, những tỉ lệ tương phản của tốc độ và những mức độ tương phản của âm lượng. Những đặc trưng tương phản này được tạo nên để ganh đua hay luân phiên bằng một nhạc cụ khác nhằm tạo ra một phong cách âm nhạc năng nổ và kích động, được áp dụng vào âm nhạc viết cho mọi loại nhạc cụ cũng như cho giọng hát và được dùng cho mọi hình thức và thể loại.

Các nhà soạn nhạc nổi tiếng của thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18 này bao gồm: các nhạc sỹ người Ý Arcangelo Corelli, Alessandro Scarlatti, Domenico Scarlatti và Antonio Vivaldi, các nhạc sỹ người Đức Dietrich Buxtehude và Heinrich Schutz , nhạc sỹ người Anh Henry Purcell , nhạc sỹ người Pháp gốc Ý Jean Baptiste Lully, và nhạc sỹ người Pháp Jean Philippe Rameau.

Về cuối thế kỷ 17, một hệ thống những mối liên hệ hoà âm gọi là “khoá nhạc” bắt đầu thống trị âm nhạc. Sự phát triển này tạo cho nền âm nhạc một trào lưu ngầm những mối liên hệ hệ tầm xa giúp gọt giũa đi một vài chỗ còn thô của những đối âm trong phong cách thời đầu Baroque. Đến đầu thế kỷ 18 các nhạc sĩ đã đạt tới một sự kiểm soát chắn chắn đối với những bắt buộc phức tạp của khóa nhạc. Cũng đến thời kỳ này, họ đã từ bỏ trên quy mô lớn quan niệm về sự thay đổi thường xuyên trong “Điệu” (mood) và đã bắt đầu ưa thích một phương pháp có mức độ hơn và đồng nhất hơn. Thường một bản nhạc hay chương nhạc hoàn chỉnh là một soạn thảo công phu của một năng lực cảm xúc được gọi là “làm xúc động”. Sự kiểm soát đối với khóa nhạc và sự nhấn mạnh vào các điệu đơn trên quy mô lớn đã dẫn đến cảm xúc bảo đảm và chắc chắn trong âm nhạc thời kỳ này, kể cả âm nhạc của hai nhà soạn nhạc vĩ đại người Đức cuối thời Baroque là Johann Sebastian Bach và George Frideric Handel.

Nguồn: Elibron (dịch)

Từ khoảng năm 1720 những tiến triển mới một lần nữa lại bắt đầu làm suy yếu phong cách âm nhạc đang thịnh hành. Các nhạc sĩ trẻ thấy rằng sự đối âm thời kỳ Baroque quá cứng nhắc và lí trí, họ ưa thích một sự biểu lộ âm nhạc tự nhiên, ít gò bó hơn. Thêm vào đó, tư tưởng cuối thời Baroque về việc hình thành một đặc tính cảm xúc độc đáo và duy trì nó trong suốt một tác phẩm dường như đang thui chột đi đối với các nhạc sĩ trẻ này.

Sự phản ứng lại phong cách Baroque này có những hình thức khác nhau ở Pháp, Đức và Ý. Ở Pháp một trào lưu mới thường được gọi là rococo hay style galant (tiếng Pháp có nghĩa là “phong cách nhã nhặn”), có đại diện là nhà soạn nhạc người Pháp François Couperin. Phong cách này nhấn mạnh kết cấu cùng một chủ điệu, nghĩa là giai điệu cùng với phần đệm có sự hài hoà âm thanh. Giai điệu được điểm tô bằng những nét hoa mĩ chẳng hạn như những tiếng rung (trill) ngắn. Thay cho một dòng nhạc không đứt quãng như ở thể loại Fugue thời Baroque, những nhà soạn nhạc người Pháp đã viết ra những bản nhạc kết hợp những đoản khúc riêng biệt, giống như trong nhạc khiêu vũ. Sáng tác đặc trưng ở đây ngắn và mang tính chương trình, có nghĩa là nó miêu tả sinh động những hình ảnh phi tính nhạc chẳng hạn như những con chim hay những chiếc cối xay gió. Đàn Harpsichord (clavico) là loại nhạc cụ phổ biến nhất giai đoạn này và rất nhiều suite (tổ khúc) được viết cho cây đàn này.

Ở miền Bắc nước Đức, phong cách tiền cổ điển được gọi là “Empfindsamer Stil” (tiếng Đức-nghĩa là “phong cách nhạy cảm”). Nó chứa đựng một phạm vi những cảm xúc trái ngược rộng hơn hơn phong cách Galant-thường có xu hướng tao nhã và vui vẻ một cách đơn thuần. Các nhà soạn người Đức luôn viết các tác phẩm dài hơn so với các tác phẩm của người Pháp và sử dụng nhiều kỹ thuật âm nhạc thuần túy để thống nhất các tác phẩm của mình. Họ không dựa vào các hình tượng phi âm nhạc như người Pháp đã làm. Người Đức, do vậy, đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của các hình thức trừu tượng, như hình thức sonata, và trong sự phát triển của thể loại lớn như concerto, sonata và symphony.

Ở Italy, phong cách tiền cổ điển không có một cái tên dành riêng cho nó, có lẽ bởi vì nó không cắt đứt một cách đột ngột với âm nhạc thời ngay trước đó. Tuy nhiên các nhà soạn nhạc Italy cũng đã góp phần rất lớn cho sự phát triển của các thể loại mới, đặc biệt là symphony. Opera overture của người Ý thường được gọi là sinfonia, thường không có sự kết nối về âm nhạc hay tính kịch với chính vở opera mà nó giới thiệu. Thỉnh thoảng các nhạc công Italy chơi các Opera overture trong các buổi hoà nhạc và các nhà soạn nhạc rốt cuộc đã bắt đầu viết các bản khí nhạc độc lập theo quy mô Overture. Quy mô này gồm 3 chương, chương đầu và cuối với tốc độ nhanh và chương giữa với tốc độ chậm. Trong mỗi chương sự phát triển của các ý tưởng âm nhạc thường theo một khuôn mẫu mà cuối cùng phát triển thành hình thức sonata.

Các nhà soạn nhạc người Ý đã từng hình thành ý tưởng viết một sinfonia khí nhạc độc lập, thế rồi Người Đức đã tiếp tục ý tưởng và áp dụng tính khéo léo nhiều trí tuệ vào đó. Các trung tâm hoạt động chính của người Đức là ở Berlin, Mannheim và Vienna. Như là kết quả của các hoạt động trên quy mô lớn, các hình thức, thể loại và cách thức truyền đạt âm nhạc khác nhau đã được sinh ra. Sự khác biệt phát sinh giữa phương tiện truyền đạt của âm nhạc thính phòng (chamber music), trong đó mỗi nhạc cụ sẽ chơi phần của mình, và phương tiện truyền đạt của âm nhạc giao hưởng (symphonic music), trong đó nhiều nhạc cụ cùng chơi một phần. Trong phạm trù âm nhạc thính phòng các nhà soạn nhạc bắt đầu phân biệt một số phương tiện truyền đạt như string quartet (tứ tấu đàn dây), string trio (tam tấu đàn dây) và keyboard sonata (sonata đàn phím) với phần đệm của violin. Với các thể loại cho dàn nhạc, các nhà soạn nhạc không chỉ viết các symphony mà còn cả các concerto cho nhạc cụ solo cùng dàn nhạc.

Symphony, sonata, concerto và string quartet đều theo những đề cương có hình thức tương tự. Chúng đều có ba hoặc bốn chương, một hoặc nhiều hơn trong số các chương đó ở hình thức sonata. Được việc sử dụng khóa nhạc phức tạp, đã phát triển đến cuối thời Baroque, tạo cho khả năng, hình thức sonata đã hồi sinh vào giữa quãng thế kỷ 18 và khai thác được mạng lưới phức tạp các quan hệ hoà âm giữa các âm và hợp âm riêng biệt trong cùng một điệu hay giữa các điệu khác nhau. Hình thức sonata được dựa trên một chương rời bỏ rồi lại quay lại điệu chính. Thêm vào đó là sự trình bày những chủ đề đối lập tại đầu mỗi chương và phát triển một hay tất cả các chủ đề một cách công phu hay riêng rẽ về sau.

Giai đoạn phát triển đỉnh điểm của âm nhạc thế kỷ 18 là vào cuối thế kỷ này khi một nhóm các nhà soạn nhạc được biết đến như “Trường phái cổ điển Vienna”, mà nổi bật nhất có Joseph Haydn, Wolfgang Amadues Mozart, Ludwig van Beethoven.

Opera thế kỷ 18 cũng đã trải qua rất nhiều thay đổi. Ngay tại quê hương của opera là Italy, nó cũng đã mất đi rất nhiều đặc tính nguyên thuỷ như là một vở kịch với âm nhạc. Thay vào đó nó đã trở thành một loạt các aria được viết cho các giọng ca tài năng thể hiện. Một số nhà soạn nhạc châu Âu lại đưa vào các bản interlude và accompaniment khí nhạc như một yếu tố quan trọng. Họ tiến hành sử dụng các hợp xướng lớn hơn và đưa ra nhiều phong cách và hình thức aria hơn trước. Họ cũng cố gắng để phối hợp các nhóm recitative, aria, duet, chorus và các phần khí nhạc vào các lớp lang thống nhất. Cải cách quan trọng nhất là nhà soạn nhạc sinh ra ở Bavarian, Christoph Willibald Gluck, người mà các opera có ảnh hưởng nhất được viết ở Vienna và Paris từ năm 1764 đến 1779. Opera thời kì Cổ điển đạt tới đỉnh cao nhất trong các tác phẩm sân khấu của Mozart, trong đó đó mọi khía cạnh của thanh nhạc lẫn khí nhạc đều góp phần vào sự phát triển của cốt truyện và sự mô tả tính cách nhân vật.

Nguồn: Elibron (dịch)